Người xứ Nghệ

Hồi tưởng về cha tôi - Chí sĩ Hồ Học Lãm [I]

LỜI MỞ ĐẦU

Từ nhiều chục năm nay, tôi rất muốn tự tay viết một cái gì đó về cha mình - Chí sĩ Hồ Học Lãm - người những năm đầu thế kỷ XX đã cùng một số người trẻ tuổi sớm theo tiếng gọi Đông du của cụ Phan Bội Châu xuất dương tìm đường cứu nước. Nay đã quá tuổi "cổ lai hy", (tôi sinh năm 1930), với đôi mắt mờ lòa, ước nguyện đó của tôi mới thành hiện thực.

Cuốn sách nhỏ này là những hồi tưởng của tôi về người cha kính yêu đã quá cố, những hồi tưởng không hoàn chỉnh và có phần lộn xộn. Ở tuổi ngoài bảy mươi, tôi cố gắng để không giấu diếm những cảm xúc và những suy nghĩ thật của mình. Biết có ai đó chăng thương cảm với kẻ ra đi tìm đường cứu nước những năm đầu thế kỷ XX, thời kỳ Tổ quốc ta lầm than, thời kỳ đế quốc thực dân đang hoành hành trên những miền đất hoang sơ lạc hậu ở Châu Á như Trung Quốc, Việt Nam... Kẻ ra đi, và suốt ba mươi bảy năm trời ở quê người đất khách, ông sống giữa những người xa lạ "đồng sàng dị mộng"; chí muốn tung hoành mà lực bất tòng tâm. Cuối cùng cha tôi phải bỏ nắm xương quê người, phải ngậm ngùi đau khổ vì mình chưa làm được gì nhiều cho công cuộc cứu nước, cứu nòi và không được gặp lại người mẹ mà ông vô cùng yêu thương và kính trọng. Bà nội đã là ngọn đuốc soi đường, là tấm gương sáng cho cha tôi noi theo và cố gắng làm những việc có ích cho đời, cho nhân dân và cách mạng hai nước Việt Nam - Trung Quốc.

Cha tôi không phải là đảng viên cộng sản, nhưng ông sống như một người chân chính, theo tiêu chí của chủ nghĩa yêu nước. Suốt cuộc đời ông đã chiến đấu, dâng hiến tất cả cho lý tưởng cao quý mà ông đã lựa chọn.

Tôi rất tự hào và cảm phục cha mình.

Những dòng cuối của "Hồi tưởng" này tôi phải viết bằng bút dạ ngòi to với sự trợ giúp của kính phóng đại. Sau gần ba năm, khi đà tám mươi tuổi mụ, tôi mới hoàn thành ý nguyện. Một sự hồi tưởng ít vui sướng, nhiều đau đớn, vượt quá sức chịu đựng của tôi. Tôi biết ngày tôi ra đi đã rất gần, ngày đó tôi sẽ tìm thấy cha, sẽ gặp chị và mẹ ở thế giới bên kia, thế giới của Tâm linh - Siêu vật chất "... Sắc bất dị không, không bất dị sắc...".

Tất cả, tôi xin dâng tặng hương hồn cha tôi - Chí sĩ Hồ Học Lãm.

Tôi cũng xin chân thành cảm ơn các bạn bè, người thân đã hỗ trợ, giúp đỡ tôi hoàn thành cuốn hồi tưởng này.

Nguyên Tiêu Kỷ Sửu

HỒ MỘ LA

 

CHƯƠNG I

SINH LY TỬ BIỆT

 

Viết về cha tôi thật là khó, bởi vì rất nhiều sự kiện về đời ông xảy ra khi tôi chưa ra đời, tôi cũng chưa bao giờ được nghe ông trực tiếp kể lại. Hơn nữa, khi cha tôi còn sống, tôi còn quá nhỏ, chưa đủ ý thức để ghi nhớ việc làm tuy nhỏ nhưng hết sức không đơn giản của người cha đáng kính trọng của mình.

Nay tôi ghi lại những điều tai nghe mắt thấy khi tôi bắt đầu có trí nhớ của đứa trẻ, những điều do mẹ nhiều lần kể lại. Có những sự việc do chị tôi kể về cha. Khi tôi bắt đầu lớn khôn hơn thì cha tôi đã mất, tôi càng muốn hiểu rã cha mình, đặc biệt khi tôi ý thức được vị trí của ông trong lòng một số người cộng sản Việt Nam "trọng nghĩa", nhất là những năm 1946, 1947. Tôi thực sự sửng sốt khi nghe một số người nói: "Nếu cụ Hồ Học Lãm không mất nay sẽ là Chủ tịch nước...". Khi đó tôi mới hiểu một phần nhỏ giá trị về cha mình trong công cuộc cứu nước chung.

Để cố gắng đảm bảo độ chính xác về cuộc đời cha mình, gần đây tôi tìm đọc lịch sử Đảng Cộng sản Trung Quốc và Lịch sử Quốc dân đảng Trung Quốc, hồi ký của các nhà cách mạng tiền bối, của Thiếu tướng Lê Thiết Hùng … Tôi cố gắng chắp nối các việc làm và cuộc đời của cha tôi theo trình tự thời gian.

Mọi việc làm của cha tôi xuất phát từ lòng yêu nước thực sự, ông không mảy may nhắc vợ con ghi nhớ việc làm vì sự nghiệp cứu nước của mình, không hề để lại những bút tích hay giấy tờ quan trọng để làm bằng chứng lịch sử về sự cống hiến của mình, không hề nói đến hai chữ "công lao" để sau này vợ con yêu sách đãi ngộ với cách mạng. Ông chỉ nói một câu đơn giản với vợ: "Mình ra đi vì nước, chớ bao giờ có tư tưởng công thần...".

 

*

*    *

 

Khi có lời kêu gọi xuất dương "Đông du" cứu nước của cụ Phan Bội Châu, bà nội tôi, Trần Thị Trâm, tục gọi là bà Lụa, hưởng ứng ngay. Đích thân bà đưa con trai thứ rất đỗi yêu quý cùng một số thanh niên khác (bà đã làm việc đó nhiều đợt) đến biên giới Việt - Trung để vượt biên sang Trung Quốc chờ dịp đi Nhật.

Trước khi đưa con trai đi, bà nội tôi đi xem bói. Thầy bói phán rằng: "Chuyến đi buôn xa của con trai bà e rằng có đi không về... Hai mẹ con bà có khi không gặp mặt nhau nữa...". Bà nội tôi trăn trở nhiều đêm không ngủ. Nhưng cuối cùng bà tặc lưỡi nói với cha tôi: "Lời phán của thầy bói lăng nhăng tin làm chi... mà con trai quẩn bên váy mệ biết khi mô nên người!... Thôi, đi đi con ạ, mệ sẽ sống khỏe mạnh đợi con trở về, mong rằng khi đó con cầm quân đuổi Pháp khỏi nước mình, mệ tin con làm được, con là đứa con can đảm có chí của mệ".

Đó là một đêm mưa phùn gió bấc năm 1906, trời lạnh lẽo, lòng người tê tái trước cuộc chia tay sinh ly tử biệt. Hai mẹ con nắm chặt tay nhau không nói nên lời, tuy không khóc ra tiếng, nhưng đều nước mắt đầm đìa. Cuối cùng chiếc thuyền đánh cá ghé vào bến giục giã, cha tôi cùng hai người bạn xuống thuyền, quay lại nhìn lên bến thấy bóng người mẹ đứng so vai đơn chiếc, cha tôi muốn òa lên khóc vì thương mẹ nhiều nỗi, nhưng nghĩ đến ông nội tôi bị giặc giết, bà nội can trường lặn lội đó đây hoạt động cứu nước, nghĩ đến ăn mày chết đói rải xác trên đường quốc lộ từ Bắc vào Nam... cha tôi cắn răng nén tiếng thổn thức... Sau này có lúc cha tôi kể với mẹ tôi: "Khéo lời phán của ông thầy bói là đúng, nay mình đã sắp ngũ tuần, chưa thấy loé lên tia hy vọng nào về sự nghiệp cứu nước. Bản thân mình sức hèn, tài mọn, chẳng làm nên trò trống gì ... lắm khi lòng nóng như lửa thiêu ...".

Con thuyền đánh cá chở ba thanh niên Việt Nam đi suốt đêm, đến chiều hôm sau, khi sắp cập vào một cửa khẩu ở Quảng Đông, thì có tin báo lính tuần đang lục soát các thuyền đánh cá, ba người phải ôm bọc quần áo nhảy vội xuống nước, nấp dưới đuôi thuyền. May là khi đó trời đã tối mịt, chờ khi bọn lính tuần đi khỏi, cả ba mới lặng lẽ bơi vào bờ... Giữa mùa đông Trung Hoa băng giá, do ngâm lâu dưới nước, cha tôi nhiễm lạnh đến sưng phổi. Ở Quảng Đông, ông phải làm bốc vác kiếm cơm từng bữa, nói gì đến dành tiền mua thuốc. Dần dà, cha tôi bị hen phế quản, sau cùng biến chứng thành bệnh tim to...

Trong thời gian chờ đợi, cha tôi và hai người bạn làm phu bốc vác và học tiếng Trung Quốc. Khi cụ Phan Bội Châu lo đủ kinh phí và số lượng thanh niên Đông du, cụ đích thân dẫn đoàn sang Nhật. Đến Tôkyo, nhờ sự giúp đỡ của hoàng thân Nguyễn Cường Để, đoàn lưu học sinh được sắp xếp vào học trường võ bị Chấn Vũ[1].

Mùa xuân năm 1907, thời gian đầu lưu học sinh Việt Nam học tiếng Nhật cấp tốc trong ba tháng, sau đó vừa học tiếng, vừa học lý thuyết cơ bản, thao tác quân sự, cách sử dụng súng trường, súng lục v.v... Nói chung lưu học sinh Việt Nam hăng hái học tập, nhưng một số ít do không chịu đựng nổi cuộc sống kham khổ của người lính, đã bỏ về nước. Học quân sự vừa được một năm, do sự xúc xiểm, gây sức ép của đế quốc Pháp, chính phủ Nhật ra lệnh trục xuất toàn bộ lưu học sinh quân sự ra khỏi nước Nhật (trừ một số ít học chuyên ngữ tại trường Thanh Hoa Tôkyo như Trần Thức Canh, sau này lấy tên là Trần Trọng Khắc, được cụ Phan gửi sang Đức học về y)... Cuộc "Đông du" của cụ Phan Bội Châu coi như thất bại.

Khoảng mùa xuân 1908, Tưởng Giới Thạch cũng vào học trường Chấn Vũ vì cùng chí hướng phản đế, phản phong, quen thân một số lưu học sinh Việt Nam, trong đó đặc biệt chơi thân với cha tôi. Trong một bữa ăn ở Tam Sơn Lý, cha tôi kể chuyện: "Tưởng Giới Thạch khôi ngô, tuấn tú, thông minh... Có lần, anh ta nhờ mình viết luận văn trả bài thi. Không hiểu hắn bận chơi gái hay bận hoạt động chính trị, thường xuyên vắng mặt ở lớp... Thực ra anh ta là thân tín của Trần Kỳ Mỹ, một trong những lãnh tụ của Đồng minh Hội của Tôn Trung Sơn... Mình học có giỏi giang gì đâu, chẳng qua dân xứ Nghệ quen học gạo, cho nên kết quả học tập trội hơn một tý....". Một người cách mạng Việt Nam sống trong nhà tôi lúc đó hỏi: "Thế cụ có viết luận văn hộ cho Tưởng không?", "Có, luận văn quân sự mang tính chiến thuật không có gì khó. Mặt khác mình nghĩ, đi học nước ngoài quen thân nhiều bạn bè nước ngoài càng tốt chứ sao? Hơn nữa, anh ta có tư tưởng tiến bộ, chống phong kiến, đế quốc, các kiến giải của anh ta khi đó khá tiến bộ, sau này anh ta mới lộ rõ bản chất phản động".

Năm 1908, trước tình hình chính phủ Nhật trục xuất lưu học sinh Việt Nam, có nhiều thanh niên nhân dịp đó xin trở về nước, bởi vì cuộc sống lưu học ở nước ngoài quá ư thiếu thốn, gian khổ. Một số học sinh xứ Nghệ - Tĩnh và xứ Bắc vốn quen cuộc sống kham khổ, đã cương quyết theo cụ Phan sang Trung Quốc. Nhờ sự giới thiệu của Tưởng Giới Thạch, đặc biệt nhờ sự giúp đỡ của nhóm nhân sĩ tiến bộ đứng đầu là Khang Hữu Vi, cụ Phan được trường quân sự của Mãn Thanh "Thông quốc lục quân tốc thành học đường", tiền thân của trường sĩ quan lục quân Bảo Định, nhận đào tạo quân sự cho một số thanh niên Việt Nam, trong đó có cha tôi.

Cha tôi học tại đấy khoảng ba năm, chơi thân với các bạn đồng học như Bạch Sùng Hy, Lý Tế Thâm và nhiều người khác nữa, họ là những thanh niên yêu nước Trung Quốc. Theo mẹ tôi kể, nhiều bạn đồng học Trung Quốc rất quý cha tôi vì tính khoan hòa, khiêm tốn, hiếu học, đối nhân xử thế trung thực, nhân hậu. Sau này, Bạch Sùng Hy, Lý Tế Thâm đều là tướng lĩnh cao cấp của quân đội Quốc dân đảng Trung Quốc. Một số khác là đại tá, thiếu tướng cùng làm việc trong bộ Tổng tham mưu tại Nam Kinh cùng cha tôi, nghĩa là giữa cha tôi với một số bạn học vừa là đồng môn, đồng ngũ, và đồng liêu nữa.

Xuân hè năm 1911, trong thời gian đang học ở trường sĩ quan lục quân Bảo Định[2], cha tôi tiếp cận và chơi thân với một số bạn đồng học có tư tưởng chống đế quốc, chống phong kiến và chuyền tay nhau đọc "Tam dân chủ nghĩa" của Tôn Trung Sơn. Qua câu chuyện mẹ tôi kể, cha tôi chơi khá thân với Tưởng Giới Thạch, thỉnh thoảng giữa họ có thư tín với nhau.

30 tháng 10 năm 1911 cuộc khởi nghĩa
Vũ Xương thắng lợi, Trung Quốc coi đó là mốc lịch sử của cách mạng Tân Hợi. Về danh nghĩa, cách mạng Tân Hợi thành công, Nhưng thực chất là thất bại, sau đó là có tới 10 năm nội chiến chống bọn quân phiệt Bắc Dương - tay sai của bọn đế quốc Nhật, Anh, Pháp. Sau khi khởi nghĩa Vũ Xương thành công, Tưởng lập tức từ Nhật trở về nước hoạt động ở tỉnh Triết Giang. Tưởng có gửi thư rủ cha tôi về đó tham gia hoạt động giải phóng tỉnh Triết Giang. Trước khi tốt nghiệp quân sự, cha tôi viết thư hỏi ý kiến cụ Phan (hình như thời gian đó cụ Phan ở Quảng Đông). Nội dung thư trả lời của cụ Phan đại khái là: Cách mạng của ông Tôn Trung Sơn không thành công thì công cuộc cứu nước của mình sẽ khó khăn. Trong lúc chờ thời cơ và rèn luyện qua thực tiễn, cụ khuyên cha tôi cứ tham gia "Trung Hoa cách mạng quân" của Tôn Trung Sơn. Do đó cha tôi về Triết Giang với Tưởng, và làm sĩ quan trong Bộ tư lệnh quân đoàn của Tưởng ở Thượng Hải. Thời kỳ đó Tưởng làm quân đoàn trưởng cho Trần Kỳ Mỹ - một trong những người lãnh đạo Đồng Minh hội do Tôn Trung Sơn sáng lập.

Sau khi giải phóng Hàng Châu và Thượng Hải, Tưởng và cha tôi tiếp tục cầm quân chiến đấu. Trong một trận đánh bọn quân phiệt Mãn Thanh, Tưởng bị vây hãm nguy khốn, song cha tôi đã kịp thời đem quân đến giải vây, do đó Tưởng càng tỏ ra quý mến cha tôi hơn.

Cha tôi kể với mẹ tôi: Cuộc sống chiến đấu cực kỳ gian khổ, vì nghĩa quân cách mạng Trung Hoa thời đó chưa có xe cơ giới, mỗi lần di chuyển địa điểm chiến đấu đều hành quân bộ. Ngày đi đêm nghỉ, đi dưới mưa to gió lớn, tiện đâu ngủ đấy, nhiều khi phải ngủ trên bãi tha ma hay trong miếu để quan tài người chết[3]. Ăn uống thiếu thốn, áo mặc phong phanh, lính tráng thường xuyên đào ngũ. Cha tôi hay lên cơn hen suyễn vào những ngày mưa lạnh.

Tưởng biết cha tôi là một chỉ huy gương mẫu, chiến đấu dũng cảm, không nề hà gian khổ, lại nhớ rằng ông vốn học giỏi, có năng lực nghiên cứu lý luận quân sự, vì vậy khi nghe tin cha tôi hay lên cơn hen suyễn, Tưởng liền điều cha tôi về làm tham mưu tại Bộ Tư lệnh đốc quân phủ Hàng Châu. Đó là khoảng cuối năm 1916, đô đốc Hàng Châu là Lư Vĩnh Tường.

Từ năm 1913, cha tôi mất liên lạc với cụ Phan Bội Châu. Vẫn biết vị thầy, vị lãnh tụ của mình vì sự nghiệp cứu nước, bất chấp mọi gian khổ, nguy hiểm bươn chải đây đó, không chịu ngồi yên một chỗ. Song bao năm trời giữa hai người vẫn giữ mối liên hệ thường xuyên với nhau, nay bỗng bặt tin. Sau khi về Hàng Châu ổn định công việc, cha tôi ra sức tìm kiếm, cuối cùng được biết đô đốc tỉnh Quảng Đông Long Tế Quang cầm tù cụ Phan khoảng hai năm chưa thả. Ông liền đến gặp Lư Vĩnh Tường trình bày mọi sự tình, đề nghị ông ta viết thư tay để cha tôi cầm đi gặp Long Tế Quang. Đô đốc Hàng Châu vốn biết cha tôi là người Việt Nam yêu nước, là bạn học của Tưởng Giới Thạch. Hơn nữa ông ta là người trọng nghĩa khí nhận lời ngay, và cho cha tôi nghỉ phép để đi Quảng Châu.

Đến đó, cha tôi đưa thư cho Long và đề nghị thả cụ Phan ra. Giữa Lư và Long vốn là chỗ quen biết, cuối cùng Long chịu thả cụ Phan.

Bị giam cầm hơn hai năm, cụ Phan hầu như không nắm được tình hình thời cuộc. Vừa được thả, cụ đòi đi Nam Ninh Quảng Tây ngay để bắt liên lạc với trong nước. Sau khi phân tích tình hình nội chiến giữa quân cách mạng với quân phiệt Bắc Dương, tình hình chính trị nhiều phe cánh ở Trung Quốc và tình hình thế giới, việc đi lại dễ gặp những sự bất trắc, cha tôi khuyên cụ Phan hãy về Hàng Châu nghỉ dưỡng sức một vài tháng, vì cụ mới ra tù, rồi sẽ tìm cơ hội. Khi đó, cụ mới chịu theo cha tôi về Hàng Châu.

Mẹ tôi rất quý trọng cụ Phan, thường kể rằng cụ Phan có phong độ đạo mạo, nhưng cũng rất hóm hỉnh và rất tinh nghịch. Tâm cụ luôn sục sôi vì sự nghiệp cứu nước. Văn chương cụ nồng nhiệt, hào sảng. Hễ lóe ra một tia hy vọng nào đó, cụ quên cả tuổi tác, sức khỏe và bất chấp hiểm nguy vội vàng đi ngay. Con người cụ chân thành và cả tin, đôi lúc hơi nông nổi. Cha tôi làm việc trong bộ máy nhà nước của Trung Hoa Quốc Dân đảng, lại tương đối quảng giao, nên nắm được nhiều thông tin và tình hình chính trị. Vì sợ cụ Phan bị sa bẫy, nên giữa hai thầy trò có giao kèo với nhau: Hễ cụ Phan muốn đi đâu, nhất thiết phải trao đổi với cha tôi, để nếu có thể, cha tôi sẽ đi cùng để bảo vệ cụ, hoặc để cụ đi một mình, nhưng nếu có việc gì xảy ra, cha tôi còn biết đường mà tìm. Ở Hàng Châu có cụ Nguyễn Thượng Hiền cũng là người xuất dương tìm đường cứu nước. Sau này thấy thời cuộc phức tạp, sự nghiệp cứu nước còn mù mịt, cụ chán nản bỏ đi tu. Ngoài ra còn có Phan Bá Ngọc, con trai cụ Phan Đình Phùng, cũng thuộc thế hệ Đông du, sau vì không chịu nổi cuộc sống gian khổ, cuối cùng làm mật thám cho Pháp. Ông ta không ở hẳn Hàng Châu, không rõ nghề nghiệp, thỉnh thoảng gửi bài đăng ở "Binh sự tạp chí", hay đi Quảng Châu và Thượng Hải và vẫn đi lại với gia đình tôi.

Về Hàng Châu, cha tôi giới thiệu cụ Phan với Tổng giám đốc nhà in "Binh sự tạp chí" - ông Lâm Lương Sinh. Ông Lâm vốn có thiện cảm với cách mạng Việt Nam, vừa hay đang cần thêm một biên tập viên, cho nên ông nhận ngay cụ Phan vào làm việc. Như vậy, trong ban biên tập ngoài hai người Trung Quốc có hai người Việt Nam, đó là Trần Trọng Khắc và cụ Phan. Để nội dung tạp chí phong phú, Ban biên tập nhận các bài luận văn quân sự hoặc chính trị của cha tôi nữa. Như vậy mấy thầy trò cụ Phan và Trần Trọng Khắc, Hồ Học Lãm, v.v... thường xuyên gặp mặt nhau khi đi vãn cảnh Tây Hồ Hàng Châu, lúc đi ăn liên hoan ở nhà hàng với nhau, bàn luận thời cuộc v.v... Cuộc sống cụ Phan nay tạm ổn.

Một hôm cụ Phan nói chuyện với cha tôi: "Năm nay anh cũng băm ba, băm tư tuổi rồi đấy nhỉ. Sự nghiệp cứu nước xem ra còn lâu dài, anh cũng nên tính chuyện lấy vợ đi chứ". Cha tôi khẽ cười, thưa: "Biết lấy ai bây giờ. Đành ở vậy thôi". Cụ Phan cho biết có con gái cụ Ngô Quảng, nguyên phó lãnh binh của cụ Phan Đình Phùng, tên là Ngô Khôn Duy.  Vốn là học sinh cưng của cụ Đặng Thúc Hứa bên Xiêm, Khôn Duy hiện theo học "Trường Đức Hoa nữ tử cao đẳng tiểu học" ở Khúc Giang, Quảng Đông, mùa hè năm ấy sẽ tốt nghiệp. Cuối hè năm 1918, cha mẹ tôi thành hôn thú. Theo giấy giá thú, cụ Phan đứng chủ hôn. Năm đó cha tôi ba mươi tư tuổi, còn mẹ tôi hai mươi lăm tuổi. Tháng 3 năm 1920 mẹ tôi sinh con gái đầu lòng là Hồ Diệc Lan ở thành phố Hàng Châu. Sau đó mẹ tôi sinh nở bốn, năm bận trai có, gái có. Vì khung xương chậu mẹ tôi nhỏ, trình độ y học thời đó còn kém, cho nên các anh chị khác của tôi, người chết ngay trên bàn đẻ, người chỉ sống được một vài tháng. Mỗi bận sinh nở, vì mẹ tôi đẻ khó, phải dùng thuốc mê. Điều này đã để lại chấn thương cả về tinh thần lẫn sức khỏe cho mẹ tôi. Còn tôi, suýt nữa đã không được ra đời. Vì khi có mang tôi, hai ông bà bàn nhau sẽ bỏ tôi đi và bà đã uống thuốc đả thai... Nhưng tôi cứng cổ quá, cứ ở lỳ trong bụng mẹ, và được sinh ra cuối tháng 8 năm 1930. Khi đó mẹ tôi ba mươi bảy tuổi, cha tôi bốn mươi sáu tuổi, và gia đình đã về ở Nam Kinh.

Theo mẹ kể, khoảng năm 1921 – 1922, hai anh Hồ Tùng Mậu và Lê Tản Anh đến với gia đình tôi ở Hàng Châu. Ở với gia đình khoảng một năm, các anh muốn học tiếng Trung Quốc và tiếng Anh, cha tôi chu cấp tiền học phí. Chí của hai anh là hoạt động cách mạng, cho nên không chuyên tâm học tiếng Anh. Sau đó các anh đi hoạt động ở Quảng Châu, Thượng Hải v.v... Khoảng tết Nguyên tiêu (rằm tháng giêng) năm Tân Dậu 1921, chị tôi vẫn còn ẵm ngửa, Phan Bá Ngọc chủ động rủ mọi người ra phố chơi. Sau bữa cơm tối, Lê Tản Anh, Phan Bá Ngọc cùng cha mẹ tôi đi ra phố xem hội hoa đăng, trưng bày các loại đèn lồng và bắn pháo hoa. Lê Tản Anh giành bế chị Lan hộ mẹ tôi. Hàng Châu có Tân thị trường là phố sầm uất, bán các loại đèn lồng và pháo hoa. Tối hôm đó, người đông như nêm. Gần Tân thị trường có một sân vận động lớn gọi là "Công chúng vận động trường". Sau khi sắm đèn lồng, mua pháo hoa, mọi người kéo ra sân vận động này bắn pháo hoa. Hôm đó, Phan Bá Ngọc rất hào hứng mua các loại pháo hoa đốt để mọi người xem cho vui mắt. Phan đặt pháo hoa xuống đất, cúi người xuống châm lửa. Bỗng có hai tiếng súng hòa lẫn tiếng pháo hoa, tiếng trẻ con reo hò. Bất thần, mọi người thấy Phan ngã sóng xoài giữa vũng máu. Mọi người la hét và chạy tán loạn. Lê Tản Anh ẵm Diệc Lan chạy trước tiên. Cha mẹ tôi không rõ là Pháp hay phía cách mạng bắn Phan Bá Ngọc, cho nên cũng vội theo Lê Tản Anh về nhà. Sáng sớm hôm sau, Lê Tản Anh bỏ đi không một lời từ biệt. Khi đó cha mẹ tôi mới vỡ lẽ ai là người xử bắn tên phản bội, và vì sao đêm qua Lê Tản Anh nhất định giành ẵm Diệc Lan, vì anh giấu súng dưới chăn tã của chị tôi.

Ngày hôm sau, các báo Hàng Châu đưa tin và đăng bài của một người không rõ tên: "Hạch tội tên phản quốc Việt Nam - Phan Bá Ngọc". Về sau cha mẹ tôi mới rõ Lê Tản Anh bắn Phan Bá Ngọc là thừa lệnh hoàng thân Nguyễn Cường Để. Sau khi hoàn thành nhiệm vụ, Lê Tản Anh sang Nhật ngay để trả lại súng cho Cường Để. Tản Anh đã phải phục mãi mới tìm được dịp, vì Phan Bá Ngọc không ở hẳn Hàng Châu. Sau Tết âm lịch năm đó, Phan Bá Ngọc về Hàng Châu, nhờ đó Lê Tản Anh hoàn thành nhiệm vụ một cách tốt đẹp. Đêm hoa đăng ấy, cụ Phan Bội Châu đã không có mặt.

Một hôm, mẹ tôi kể chuyện cụ Phan cho các chú nghe, tôi gối đầu lên đùi bà nghe chăm chú: "Người cụ Phan gầy gò, xương xương. Tiền lương hàng tháng của cụ với tiền nhuận bút, thu nhập của cụ cũng khá. Nhưng cụ sống hết sức tiết kiệm, căn cơ. Tích vài ba tháng cụ lại gửi tiền sang Đức cho Trần Trọng Khắc đang học y ở đó... Vì nôn nóng sự nghiệp cứu nước, cụ nhiều lần nghe Sở Cuồng (Lê Dư), Phan Bá Ngọc phỉnh phờ về vấn đề Pháp Việt đề huề, cụ tự ý bỏ sang Nhật tìm gặp Sở Cuồng. Mãi sau cha tôi viết thư sang Nhật cho cụ Nguyễn Cường Để thì mới hay cụ Phan lại mắc lừa Sở Cuồng. Dù cha tôi vẫn luôn nhắc cụ đi đâu, làm gì, thì hai thầy trò hãy bàn bạc với nhau trước, cụ gật đầu, nhưng rồi vẫn nông nổi... Giữa năm 1924, một hôm "Hàng Châu nhật báo" đưa tin: Chí sĩ yêu nước Việt Nam Phạm Hồng Thái ném bom vào cầm quyền Pháp Méc-lanh ở một khách sạn Sa Diện. Vì bị săn đuổi ráo riết, anh đã nhảy xuống sông Hoàng Phố tử tiết... Tin về Phạm Hồng Thái khiến mọi người vô cùng sửng sốt, khâm phục, thương tiếc và tự hào. Ít lâu sau cụ Phan nhận được thư của Nguyễn Hải Thần mời về Quảng Châu bàn việc hoạt động... Cụ Phan lại đòi đi ngay. Để đảm bảo sự an toàn cho cụ Phan, cha tôi xin nghỉ phép vài tháng, đưa cụ đi Quảng Châu.

Đến Quảng Châu, cha tôi cùng cụ Phan đi gặp Uông Tinh Vệ (một trong những người lãnh đạo cao cấp của Quốc dân đảng Trung Quốc. Về sau y trở thành Hán gian của Nhật) và Liêu Trọng Khải (một đảng viên cộng sản nằm trong cơ quan lãnh đạo của Quốc dân đảng). Qua trình bày của cụ Phan, Uông và Liêu tỏ ý sẵn lòng ủng hộ cách mạng Việt Nam theo đường lối của Tôn Trung Sơn. Để có danh nghĩa hoạt động hợp pháp, cụ Phan thảo tuyên ngôn, điều lệ với "Chủ nghĩa Dân bản" để thành lập Quốc dân đảng Việt Nam. Do thiếu kinh phí hoạt động (phía Trung Quốc thời kỳ đó không có khả năng tài trợ) và thiếu thanh niên hăng hái hoạt động, rút cuộc tổ chức đó hữu danh vô thực. Cụ Phan đành lại theo cha tôi quay về Hàng Châu chờ thời cơ. Phía Trung Quốc chỉ có thể giúp Việt Nam bằng cách cho thanh niên Việt Nam vào học trường quân sự Hoàng Phố (Có nhiều thanh niên cộng sản Việt Nam học ở trường đó như Lê Hồng Phong, Lê Tản Anh, Lê Thiết Hùng, Hồ Tùng Mậu, v.v...).

Quay về Hàng Châu, cụ Phan Bội Châu tiếp tục làm biên tập viên cho "Binh sự tạp chí", vẫn sống ở ký túc "Đồng bào xã".

Một ngày giữa năm 1925, cụ Phan lại "mất tích" ở Hàng Châu. Cha tôi hết sức lo lắng, vội viết thư đi Quảng Châu, Nam Ninh, Tôkyô v.v... để tìm tung tích cụ Phan. Không ai biết cụ ở đâu. Mãi hai tháng sau được tin cụ bị Pháp bắt ở Thượng Hải, mọi người nghi cháu của cụ Nguyễn Thượng Hiền là Nguyễn Thượng Huyền đã lừa cụ vào tròng. Cuối cùng cụ bị đưa về nước. Cha tôi rất buồn, vì cụ Phan vừa là người thầy, người lãnh tụ, người anh cả...

Mẹ tôi kể: "Khi đọc Tam dân chủ nghĩa của Tôn Trung Sơn, cụ Phan rất thích thú, muốn phỏng theo đường lối cách mạng của Tôn; Khi đọc những quyển sách nói về chủ nghĩa cộng sản, cụ Phan cũng rất hào hứng và thú vị...". Các cụ xuất dương cứu nước, ban đầu vẫn là tư tưởng "cứu nước phò vua", do đó cụ Phan đã khuyên hoàng thân Nguyễn Cường Để sang Nhật, những mong nhờ sự giúp đỡ của Nhật để đánh đuổi thực dân Pháp, sẽ xây dựng chế độ quân chủ với kinh tế tư bản chủ nghĩa - khuôn mẫu của Minh Trị thiên hoàng. Nhưng lệnh trục xuất toàn bộ lưu học sinh Việt Nam đã khiến cụ Phan bừng tỉnh. Nguyện vọng của các cụ sau này là xây dựng thể chế cộng hòa dân chủ, nhưng mục tiêu trước mắt là giải phóng dân tộc. Mẹ tôi gọi đó là "quốc gia chủ nghĩa ".
 


[1]Masutakesi Military College

[2]Trước Cách mạng Tân Hợi (10-10-1911) vùng Bắc Kinh vẫn là địa phận cai trịcủa Triều đình Mãn Thanh. Năm 1912 PhổNghi mới thoái vị. Bảo Định nằm gần Bắc Kinh.

[3]Thời trước, Trung Quốc đểngười chết nằm trong quan tài tại miếu tới 3 tháng 10 ngày mới đem đi chôn. Có gia đình đểhàng năm vì quan tài nhà giầu đóng bằng gỗsúc, sơn hàng mấy chục lần nước sơn, cho nên quan tài rất kín.

  

tin tức liên quan

Thống kê truy cập

114443025

Hôm nay

2221

Hôm qua

2318

Tuần này

2838

Tháng này

218199

Tháng qua

112676

Tất cả

114443025