Người xứ Nghệ

Phan Thúc Trực - Tấm gương cần mẫn sưu tầm sách quý và góp công xây dựng thư viện triều đình Huế

 

Phan Thúc Trực (1808-1852), còn có tên là Phan Dưỡng Hạo, Phan Sư Mạnh, hiệu là Hành Quí, Cẩm Đình, Dưỡng Hạo Hiên, quê ở làng Vân Tụ, huyện Đông Thành, nay thuộc xã Khánh Thành, huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An. Ông sinh ra trong một gia đình Nho học - dòng họ nhiều đời đậu Hương cống, Sinh đồ và làm quan triều Lê. Thân sinh ông là Phan Vũ từng thi đậu ba khoa Tú tài đầu triều Nguyễn - Gia Long, được gọi là Tú Mền. Ông không đi làm quan mà ở nhà ở ẩn, mở trường dạy học và nổi tiếng đào tạo được nhiều học trò đậu đạt thành danh trong hoạn lộ. Người đương thời gọi ông là ông Đồ Bồ (ông thầy dạy học có cả bồ chữ) và tôn xưng ông là bậc “Sư Khổng”.

 Phan Thúc Trực được cha trực tiếp dạy bảo, rèn cặp, lại sẵn bản tính siêng năng ham học, nên từ nhỏ đã nổi tiếng là “Thần đồng” đất Nghệ An. Ông đọc nhiều sách và làu thông kinh sử, nức tiếng hay chữ, từng thi đậu Đầu xứ (năm 16 tuổi) và nhiều khoa Tú tài, nên được Hội Văn của huyện Đông Thành tôn tặng đôi câu đối:

Nhất cử thành danh thiên hạ hữu;

Thập khoa liên trúng thế gian vô.

Nghĩa là:

Một lần thi đậu Cử nhân thiên hạ đã có người như vậy;

Mười khoa thi đều trúng thế gian chưa từng có ai.

Ông được triều đình trọng tài, chọn vào học trường Quốc Tử Giám để được dự thi Hội. Khoa Đinh Mùi - Thiệu Trị 7 (1847), ông thi đậu Đệ nhất giáp cập đệ đệ tam danh (Đình nguyên, Thám hoa). Ngày vinh qui bái tổ, vua ban cho tấm biển “Khôi đa sĩ” (nghĩa là: Người đỗ đầu xuất sắc trên nhiều nho sĩ). Biểu mừng Phan Thúc Trực đỗ Thám hoa của các quan, thân sĩ và đồng môn có ghi:

Trải các đời đều lấy khoa cử để chọn người tài, đỗ Tiến sĩ được người đời quí trọng, mà đỗ Tam khôi Tiến sĩ thì không có gì quí hơn. Vinh hạnh này quả thực không phải là của một gia đình hay riêng của một người. Đỗ tân khoa cập đệ xã ta là tôn quí họ Phan. Gia thế từ xa xưa đã thuộc hàng danh nho, từ sáu đời trước đến bây giờ đều theo con đường học hành, khơi nguồn thi thư lễ nhạc, con cháu đời sau có đến ba, bốn đời đều đứng vào bậc hiền nho

Tấm biển đề chữ " Khôi đa sĩ" do vua Thiệu Trị ban tặng cho Phan Thúc Trực ( Ảnh Hồ Hà) 

Việc Phan Thúc Trực thi đỗ Thám hoa được coi là một tất yếu, là sự nối tiếp truyền thống danh nho nhiều đời trong gia tộc. Đây không chỉ là vinh hạnh cho gia đình, dòng họ Phan, mà còn là một vinh dự vẻ vang cho làng xã quê hương và đất nước. Ông lại được nhân dân tôn gọi là quan Thám Mười một cách trân trọng. Tính ông cương trực, ngay thẳng, nhưng lại có tấm lòng nhân hậu, thường lấy văn chương, nhân ái để đối đãi thu phục nhân tâm. Cuộc đời của ông là một tấm gương sáng không chỉ về học hành, đỗ đạt thành danh, mà còn ở lòng yêu nước thương dân, tận tụy với công việc. Ông luôn quan tâm đến giáo dục, từng đi dạy học ở nhiều nơi và chăm lo việc bồi dưỡng tinh thần cho thế hệ trẻ…Sau khi thi đỗ, ông về quê chỉ đạo việc khơi ngòi, đắp đập Cẩm Giang để lấy nước tưới tiêu cho đồng ruộng, phát triển nghề nông, giúp dân ổn định cuộc sống. Vì thế sau khi ông mất, được dân địa phương lập đền thờ phụng là phúc thần. Ông được nhiều người ca ngợi về học hành và phẩm hạnh. Sách Đại Nam chính biên liệt truyện có ghi về ông:

Phan Thúc Trực người Yên Thành, Nghệ An, tổ bốn năm đời đều đỗ Hương cống triều Lê. Cha là Vũ gặp lúc Lê Mạt, ẩn dật học tập. Rồi đầu niên hiệu Gia Long, ông nhiều lần lên trường quây trướng dạy học, kinh sử thường ngày từng đọc thuộc lòng, người ta đều tôn là bậc học rộng. Thúc  Trực ở nhà học cha, thông minh, xem rộng, nổi tiếng hay chữ. Hồi lâu đi thi Hương luôn bị quan trường đánh hỏng. Trực bèn lấy chân Tú tài sung cống sinh vào học trường Quốc tử giám. Thiệu Trị năm thứ 7 (1847) đỗ Nhất giáp Tiến sĩ cập đệ đệ tam danh, được bổ Hàn lâm viện Trước tác. Tự Đức năm đầu (1848) được vào Nội các, rồi thăng Tập hiền viện Thị độc sung Kinh diên khởi cư chú. Vâng mệnh làm thơ văn, luôn được vua khen ngợi. Năm thứ 4 (1851), vâng chiếu đi Bắc kỳ tìm kiếm sách vở xưa còn lại. Năm sau về tới Thanh Hoá thì ốm chết, được truy thụ Thị giảng học sĩ.

Bia đá ghi danh Thám hoa Phan Thúc Trực tại Văn miếu Huế

Trước đó, chỗ ấp Thúc Trực ở có dải sông Cẩm Giang, hàng năm nước lụt, làm cho nhiều đồng ruộng bị lầy đọng, cỏ rả, không cày cấy được. Thúc Trực, sau khi đỗ về, giúp dân đào cừ, đắp đập. Từ đó chứa nước, tháo nước thuận tiện dân được nhờ. Sau khi ông mất, người trong ấp nhớ ơn, lập đền thờTrước tên là Dưỡng Hạo, sau lấy tên tự là Hành Quí. Con là Vĩnh, đỗ Cử nhân; Định, Tú tài.(1)

Ông mất sớm khi mới 43 tuổi, nhưng đã kịp để lại cho hậu thế những di thư quí báu:

- Cẩm Đình văn tập (VHv.683; VHv.262);

- Cẩm Đình thi tuyển tập (VHv.357; VHv.684);

- Cẩm Đình thi văn toàn tập (VHv.1426; A.1385);

- Trần Lê ngoại truyện (A.1069);

- Quốc sử di biên (chữ Hán - A.1045/1-2),

- Quốc sử di biên/Bản dịch: H., Văn hóa - Thông tin, 2009; 459 Tr., 14,5 x 20,5 cm;

- Quốc sử di biên (Thượng - Trung - Hạ)/Bản dịch và in kèm phần chữ Hán: H., KHXH, 2010.- 839 Tr., 16 x 24 cm.

- Diễn Châu Đông Thành huyện thông chí (Thám hoa Phan tiên sinh ở tổng Vân Tụ - Tài liệu lưu tại kho Địa chí, Thư viện tỉnh Nghệ An).

- Tác phẩm đã đưa vào Cẩm Đình thi tuyển tập: Tứ phương lan phả; Hiệu Tần thi tập; Bắc hành thi thảo; Nam hành thi thảo;

- Tài liệu liên quan và tài liệu có tác phẩm của ông: Cẩm hồi tập (A.1474, 12 bài văn; 18 bài thơ mừng Phan Thúc Trực đỗ Thám hoa năm 1874); Kim triều chiếu chỉ (A.339, Có biểu tạ ơn thi đỗ của Phan Dưỡng Hạo); Thám hoa Phan Thúc Trực Cẩm hồi hạ tập (A.2744, Thơ và trướng mừng Phan Thúc Trực đỗ Thám hoa); Hạ Cao Phó bảng đối liễn trướng văn (A.1720, Thơ, trướng, văn mừng Cao Xuân Tiếu đỗ Phó bảng, trong đó có thơ văn của Phan Thúc Trực)…

Ông là người yêu quí sách vở, từ nhỏ luôn đọc sách và làu thông các sách Tứ thư, Ngũ kinh, Chư sử…lại có tài ứng chế thi văn, từng được vua khen ngợi và ban thưởng nhiều lần. Ông được nhà vua yêu quí, cho làm chức quan luôn ở bên cạnh để giúp việc là Kinh diên khởi cơ chú, trong Cơ mật viện. Trước đó, ông từng trải các chức liên quan đến sách vở, giáo dục, biên soạn văn bản: Hàn lâm viện trước tác, thăng Thừa chỉ, Nhập nội các, Tập hiền viện. Có lẽ do ông quá đam mê và làu thông sử sách, mà vua Tự Đức đã cử ông cùng Nguyễn Đỗ Tích đi sưu tầm di thư ở các tỉnh Bắc Hà cho triều đình. Trong bài thơ “Hạc Thành hiểu phát phó nguyệt viên mộ túc lữ xá” (Buổi sáng từ Hạc Thành đi đến trăng lên, ngủ tại quán trọ) có câu:

Đông lai thang mộc địa

Phụng mệnh sứ cầu thư

Dịch nghĩa (Nhà giáo Nguyễn Thế Đạt):

Mùa đông về trên đất quyền quý

Phụng mệnh nhà vua đi cầu thư

(Cầu thư, tức sưu tầm sách vở trong dân gian).

 Bài thơ trên là bài số 95, nằm trong tập “Tứ phương lan phổ quyển 2” của sách Cẩm Đình thi tuyển tập, do Phan Thúc Trực sáng tác. Trước bài thơ này có ghi chú:

Tháng 8 năm Tân Hợi (Tự Đức thứ 4) bắt đầu đi tìm di thư trong tỉnh nhà. Sang tháng 10, vào ngày 4 lại lên đường, ngày 9 đến huyện lỵ Quỳnh Lưu, ngày 10 đi Thanh Hóa, ngày 15 đến huyện Hoằng Hóa đi vào dân gian, ở lại tỉnh Thanh 2 tháng có mấy bài tạp vịnh.

Từ đây, cuộc rong ruổi sưu tầm sách quí của ông được ghi lại theo gót từng bước chân ông qua những vần thơ giàu cảm hứng cùng các di tích, danh thắng, địa phương…mà ông đi qua.

Bài 130 “Lưu giản Thanh Hóa tỉnh Phiên ti thông phán Nguyễn” (Thư gửi lại quan Phiên ti thông phán họ Nguyễn) với đoạn mở đầu:

Phiên âm:

Bản thị nhất châu nhân

Dị địa chuyển tình thân

Quan tước vô sùng ti

Giang sơn tương chủ tân

Ngã kim sách cầu thư

Nãi tại Hạc Thành nhân

Dịch nghĩa:

Nguyên là người cùng trong một châu

Nơi đất khách chuyển thành người anh em

Chức tước chẳng cao cũng chẳng thấp

Với núi sông cùng làm chủ, làm khách

Bây giờ tôi đang đi tìm sách

Bèn tới cửa Hạc Thành(2)

Khi đi đến Đông Sơn, Thanh Hóa, ông tự nhận mình là học trò đất Hồng Lam được triều đình ưu ái, để dễ bề kết bạn, tìm sách:

Cần tảo nhân ca Phán

Hồng Lam địa thuyết Hoan

Cầu thư lai Bắc quận

Phỏng hữu quá Đông Sơn.

Dịch Nghĩa:

Kẻ học trò được vào học ở trường nhà vua

Quê đất sông Lam, núi Hồng có tên là Hoan Châu

Nay ra Bắc để tìm sách còn sót lại

Tìm bạn đến đất Đông Sơn.

Nhân dịp đi tìm sách này ông được du ký mọi vùng đất, danh thắng: “May mắn được ngồi xe sứ đi qua những kỳ quan” (Bài 151: Khuyết đề mục); có khi: “Một chiếc thuyền con vượt bến Bạch Đằng” (Bài151). Ông lại được gặp gỡ với nhiều tao nhân, mặc khách, vừa đối ứng ngâm thơ, vừa tìm hỏi sách quí trong các thư phòng, thư viện các tư gia: “Đêm qua vừa nói chuyện văn thơ ở nơi phòng sách” (Bài 183 - Tặng Thuỷ Đường tư đạc Nguyễn Chính); lại: “Việc công khi rỗi, trước phòng sách xướng hoạ” (Bài 231 - Trần Đại Nhân thi tặng) ; có lúc được thưởng hưởng: “Gió xuân thổi đến thư viện gần đây” (Bài 190 - Quang khánh tự tảo tác tặng Khuê Chương thư thục đại lão ấp Sinh); lại có khi phải đi nhanh vì: “Trời nóng ruổi xe đến thảo đường” (Bài 197 - Thư đề Phú Mễ xã sĩ xã)…Tất cả mọi sự vất vả khó khăn, cũng như được hưởng những niềm vui bất ngờ, được giao lưu với biết bao người cùng chí nguyện, tâm huyết với mình suốt cả chặng đường đi…cũng là chỉ với một mục đích để tìm sách quí. Bài 199 - Sơ phó Tứ Kỳ huyện thư giản du tường liệt thức nói khá rõ cảm hứng đi tìm sách của Phan Thúc Trực:

Cầu thư hữu mệnh thánh tâm ân

Đáo xứ tuân tư thiết (?) niệm quần

Tứ hải tư văn liên khí mạch

Thử bang vãng sự tại truyền văn

Cảm vân khuynh cái tình tương hậu

Bất đãi hàm bôi hứng chuyển huân

Minh mỵ kháp phùng tam nguyệt hảo

Thôn trai tiểu toạ tá phong huân.

Dịch nghĩa:

Tìm sách theo lệnh nhà vua ân cần giao phó

Đến đâu cũng tìm đến mọi người hỏi han cặn kẽ

Tư văn bốn biển liền mạch khí

Chuyện xưa nơi ấy vẫn nghe truyền

Dám xin ngả mũ chào hỏi làm quen cho tình thêm nặng

Chẳng chờ đến khi uống rượu cho cảm hứng chuyển thành say

Cái trong sáng và đẹp đẽ lại gặp đúng vào tháng ba tươi tắn

Tạm ngồi bên phòng trai (?) của làng đón luồng gió ấm.

Cảm hứng đi tìm sách của ông cũng như đi tìm bạn: “Đi tìm sách lại cũng là đi tìm bạn cũ” (Bài 200 - Tín tức Tứ Kỳ học xá hý trình thục trưởng Đặng Long Luyện); việc đó cũng: “Chỉ cốt nhặt nhạnh cái văn chương trước đây đã làm ra” (Bài 201 - Tứ Kỳ Huấn đạo Đặng thi tặng); cũng là để: “Văn chương còn lại hãy cùng nhau đem ra mà bàn luận” (Bài 201). Ông quí mỗi cuốn sách tìm được, trân trọng coi như sách quí của ngàn năm: “Di văn trân trọng từng gói thẻ tre” (Bài 202 - Trùng phỏng Tứ Kỳ tư đạc Đặng khê nghị nhân đồng chu dạ phiếm lâm giang chi tác). Thẻ tre là sách viết trên các thanh tre xâu cuộn lại chỉ có ở thời Tần - Hán - Đường cách nay trên dưới 2.000 năm. Khi gặp được nơi có nhiều sách quí, ông phải lặn lội đi cho hết vì sợ bỏ sót sách quí: “Đi tìm sách vòng quanh vùng đất biển” (Bài 223 - Thư thị Đông quận chư văn hữu). Đặc biệt, tỉnh Hải Dương là nơi ông lưu lại lâu ngày hơn và dùng dằng không muốn rời, vì ở đây vừa có nhiều cảnh đẹp, vừa có nhiều sách quí nhất, lại vốn có nghề in sách lâu đời nhất (làng Hồng Lục và Liễu Tràng, huyện Gia Lộc). Đây lại là nơi thờ ông tổ của nghề in sách nước ta là Thám hoa Lương Nhữ Hộc (1420-1501; đỗ tiến sĩ năm 1442, làm quan Tả Thị lang bộ Lễ, 2 lần đi sứ nhà Minh. Ông nghiên cứu kĩ nghề in bản khắc gỗ và truyền dạy cho dân làng, nên được lập đền thờ và tôn là Tổ sư nghề khắc gỗ in sách). Điều này được thể hiện qua bài 208 - Thục đường dạ tọa biệt Đặng Huấn đạo lưu đề nhất luật (Đêm chia tay quan Huấn đạo họ Đặng ở trường học để lại một bài thơ):

Vũ hậu cầu thư quá Tứ Kỳ

Lâm hành hà sự khước trì tri

Cựu giao tân nghị hân tương ngộ

Đoạn giản tàn biên khủng hoặc di

Nguyệt hạ bồi hồi cầm vận tịch

Đăng tiền tỉ ỷ tửu bôi si

Minh triêu hựu giá thiên chu khứ

Bích thượng đề thi uý sở tri.

Dịch nghĩa:

Sau cơn mưa ta đi tìm sách qua huyện Tứ Kỳ

Ra đi sao cứ thấy lề mề không dứt ra được

Bạn cũ chuyện mới vui mừng khôn xiết khi gặp lại nhau

Sách cũ long lề sợ lại bị mất đi

Dưới ánh trăng bồi hồi nghe tiếng đàn bịn rịn

Trước ngọn đèn nhấp nhỏm với chén rượu say

Sáng mai đã phải ra đi theo chiếc thuyền con

Để lại bức thư trên vách làm vui lòng người tri kỷ.

Ông là người có trách nhiệm cao trong thực thi công việc, nên luôn lo lắng sợ không làm tròn công việc được giao: “Mấy độ nhận việc vua giao mà chưa hoàn thành” (Bài 219 - Trùng ngọ tiên nhất nhật thư hoài), nên ông luôn trăn trở: “Ra đi từ buổi đầu thu, nay đã vào mùa hạ, Đến tận đầu nguồn mới thấy thẹn là mình chẳng có tài” (Bài 221- Mạn hứng)…nhưng ông vẫn rất vui với tâm niệm: “Thi thư không thẹn với danh giá của gia đình xưa nay” và “Gặp xuân, nhờ xuân nói giúp nguyện vọng của chúng tôi” (Bài 235 - Tặng Đường Trạch Tiên Thuỷ tú tài Vũ Kỳ Niên). Khi hoàn thành công việc đi tìm sách quí ở hầu khắp các tỉnh Bắc Hà, ông cảm thấy yên lòng vì cũng đã thực hiện tốt nhiệm vụ qua những cảm xúc vô cùng phấn khởi và được thể hiện qua bài “Thư thị Đông quận chư văn hữu” (Nhân cùng các bạn làng văn quận Đông):

Cầu thư chu hải quận

Đối khách thượng thành Đông

Chiếu tọa hữu minh nguyệt

Mãn liêm lai thanh phong

Kim tiêu phùng ngã bối

Minh nguyệt thị thiên trung

Thi tửu kham hành lạc

Thanh ca thử dạ đồng.

Dịch nghĩa:

Đi tìm sách vòng quanh vùng đất biển

Được làm bạn cùng khách quí thành Đông

Trăng sáng soi vào chỗ ngồi

Gió mát bay tràn rèm cửa

Đêm nay ta gặp nhau đây

Có trăng sáng giữa bầu trời

Thơ với rượu tha hồ vui sướng

Đêm nay ta cùng cất cao tiếng hát trong trẻo.

Trên đây cũng là những vần thơ kết thúc chuyến đi tìm sách ở Bắc Hà của Phan Thúc Trực.

Cảm xúc của người viết thay cho lời kết:

Là người làm công tác Địa chí Thư viện tỉnh Nghệ An lâu năm, tôi thật sự cảm phục và trân trọng về danh nhân văn hóa Phan Thúc Trực, về sức học và đọc, tinh thông sử sách, nên đã thi đậu đầu một khoa thi Tiến sĩ - (Đình nguyên - Thám hoa), xứng danh với tấm biển vua ban khi ông vinh qui bái tổ: “Khôi đa sĩ” (Người đứng đầu trong nhiều nho sĩ). Với trọng trách thực hiện nhiệm vụ vua giao cho đi tìm sách quí trong dân gian, ông xứng đáng là người đi tiên phong trong công tác sưu tầm sách và xây dựng đài ngọc - “Tàng thư lâu” cho cung đình Huế và cho ngành Thư viện Việt Nam. Ông là tấm gương sáng cho đội ngũ cán bộ thư viện học tập và noi theo. Cán bộ thư viện phải là những người yêu quí sách và tuyên truyền để mọi người dân cũng đều yêu quí sách, bảo vệ sách và năng đọc sách để góp phần chung tay xây dựng đất nước ta ngày càng giàu mạnh, phát triển, sánh vai cùng các cường quốc trên thế giới.

Phan Thúc Trực thật xứng đáng với câu khen ngợi mà quan Tham tri Trương Quốc Dụng đã dành cho: "Một nhành mai trên cả trăm đóa hoa"(Bách hoa đầu thượng nhất chi mai).                                 

------------------------

Chú thích:

1. Đại Nam chính biên liệt truyện. Bản dịch. T.4, Huế, Thuận Hóa, 1993; Tr. 264-265.

2. Phần phiên âm và dịch nghĩa thơ từ chữ Hán Phan Thúc Trực trong bài này là của Nhà giáo Nguyễn Thế Đạt.

 

tin tức liên quan

Thống kê truy cập

114442814

Hôm nay

210

Hôm qua

2318

Tuần này

2627

Tháng này

217988

Tháng qua

112676

Tất cả

114442814