Những góc nhìn Văn hoá

Lê Nguyên Trung và công lao xây dựng, phát huy thư viện tư nhân đầu triều Nguyễn

Dòng họ Lê Nguyên ở làng Trung Cần, nay là xã Nam Trung, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An là dòng họ nổi tiếng có truyền thống hiếu học và khoa bảng. Họ này mở đầu từ Cử nhân Lê Nguyên Trung còn nổi tiếng với việc lập thư viện tư nhân gia đình, phục vụ cho việc học tập theo sách của con cháu, dòng họ và nhân dân trong vùng.

Lê Nguyên Trung, còn có tên là Lê Tráng Lượng, húy là Nguyên Huệ, hiệu Chỉ Trai, sinh năm Ất Tỵ (1784) - mất Năm Kỷ Dậu (1849). Vì tên ông trùng với tên Hoàng đế Nguyễn Huệ, nên được vua Minh Mạng đổi là Nguyên Trung. Ông sinh ra trong một gia đình nhà nho nghèo, thi đậu Cử nhân khoa Quí Dậu (1814). Năm Minh Mệnh nguyên niên được bổ làm Tri huyện Hoằng Hóa, rồi Tri huyện Thiệu Lộc, được triều đình ban khen do làm việc rất công minh. Ông được thăng trải các chức: Tri phủ Khoái Châu, Đốc  học Phú Yên, Lang trung bộ Hộ, Hiệp lý Gia Định, Hiệp trấn Bình Thuận, Lễ bộ Tả Thị lang, Bố chính Quảng Nghĩa, Hắc Sát sứ, Lại bộ chủ sự. Năm Thiệu Trị nguyên niên, ông được điều làm Án sát Hưng Yên, rồi Bố chính Hà Nội, Nam Định. Năm Tự Đức nguyên niên được bổ làm Tuần vũ Bình Định, Hộ lý Tổng đốc Bình Phú quan phòng. Năm Tự Đức thứ 2, ngày 19/10, ông qua đời hưởng thọ 65 tuổi. Gần 30 năm, ông làm quan qua 9 tỉnh, thành, là người giàu lòng nhân ái, trung nghĩa, ghét kẻ tham lam, quở trách phường xu nịnh. Đối với người lầm lỡ, ông lấy lời giảng giải: Không thể dùng vàng bạc để đổi lấy mạng con người. Thấy dân tình cực khổ, ông dâng sớ trình vua xin miễn giảm thuế đinh, thuế điền cho 224 xã. Vua phê rằng: Lòng ưu ái của nhà ngươi chất chứa trong lời văn. Vua ghi vào sớ trình: Miễn cho dân, thi hành ngay. Xuất thân từ nhà nghèo, nên khi làm quan, ông đã dành một phần lương bổng giúp đỡ người nghèo trong làng xóm, đặt ra hương hiền nghĩa điền, để làm việc công đức và cứu giúp dân… Vợ ông cũng là người lấy công đức làm đầu, cần kiệm chăm lo nuôi dạy con cháu để ông lo việc nước. Bài ký bia đá Nghĩa điền (Nghĩa điền bi ký), được khắc năm Tự Đức thứ 2 (1849), do Thám hoa Nguyễn Văn Giao, hiệu Đạm Như và Cử nhân Lê Nguyên Thứ đồng soạn, hiện còn lưu ở xã Nam Trung (bản dịch của Nguyễn Nhân Lục) có ghi:

Kẻ cả ở trong làng làm điều gì có lợi cho người thì người ghi nhớ. Đúng vậy:

Trưởng quan họ Lê trích lương bổng của mình một ngàn sáu mười quan tiền tậu 10 mẫu ruộng. Thọ ông họ Nguyễn xuất gia tư sáu trăm quan tiền tậu 3 mẫu ruộng. Làng ta nhiều người ca ngợi: Tiết kiệm để xuất của cung cấp ruộng đất dùng vào việc chung, một phần phụ trợ vào đinh thuế, một phần để tế tự thần linh. Cung cấp cho dân là để làm lợi cho dân…

Trưởng quan húy Huệ, tên là Nguyên Trung, sau khi đỗ Hương tiến, bổ làm quan tỉnh, thăng đến Bình Phú Tổng đốc, nhã ý tu bổ đền chùa ở quê hương, mua sắm tế khí, đỉnh đồng, lư hương bằng số tiền 200 quan, trợ cấp cho người vào đinh và để chi tiêu vào việc chung...

Ngoài việc đóng góp tiền của để làm việc thiện, thì ông Lê Nguyên Trung còn bỏ tiền lương bổng để sưu tầm, mua sách quí, tích góp xây dựng thư viện phục vụ việc học hành, bồi bổ kiến thức cho con cháu gia đình, dòng họ và bà con ở quê nhà. Để phát huy việc bảo vệ, sử dụng khai thác tri thức trong sách được tốt, ông đã chia sách thành các môn loại chi tiết để sắp xếp lên giá một cách khoa học, cụ thể, dễ tìm. Ông lại cho đóng sổ để ghi chép tên sách, người mượn, trả sách để quản lý tránh mất mát như hình thức phục vụ bạn đọc của một thư viện hiện nay... Những việc đó còn được ghi chép trong bài ký Lê Thị tích thư ký của Chỉ Trai - Lê Nguyên Trung (lưu ở Thư viện Viện nghiên cứu Hán Nôm). Bài ký này nói đến ý nghĩa của sách, tầm quan trọng và ý nghĩa của việc chứa sách, mục đính tổ chức sắp xếp sách và tổ chức thư viện nói chung. Phần dịch toàn bộ nội dung của bài ký như sau:

Bài ký về việc chứa sách của họ Lê.

Người chứa sách cần phải năng đọc sách, lại phải biết kính cẩn giữ gìn sách mới được. Xưa kia có người cứ đến ngày Canh Tý thì làm lễ bái Kinh. Chẳng phải họ biết tôn trọng kinh sách và giữ gìn sách làm sao?

Tôi đi làm quan đã lâu, tiêu pha tằn tiện, hễ còn thừa tiêu tôi đem mua sách để dành. Hễ mua được thì bộ nào đóng thành bộ ấy và tự yên ủi, ấy  là ruộng báu của nhà ta. Tôi tuy chưa có thể đọc hết được các sách ấy, nhưng tôi giữ gìn thật kính cẩn. Tôi lại muốn con cháu đời đời kính giữ, bèn đóng giá xếp lên, sau này sẽ đem đặt ở nhà thờ là nơi chốn để con cháu được cùng kính giữ. Tôi mới làm một cái biển, chia theo từng loại ghi rõ thành 7 mục: 1. Kinh, 2. Thi, 3. Sử, 4. Tử, 5. Tập, 6. Cử nghệ, 7. Tạp trứ.

Sau này có sách thêm thì theo số hiệu tiếp tục ghi vào đấy. Cần phải lau quét luôn để sách khỏi nát.

Bên cạnh tủ sách tôi có quyển sổ ghi đủ 4 chi họ, ai cũng có thể mượn về đọc, ai mượn thì ghi rõ vào cuối bảng khi trả lại, xoá tên đi. Việc này không thể sao lãng khỏi mất sách. (Đã đành) chứa sách không bằng tích lũy làm điều thiện. Ta (đáng tiếc) thật chưa tích luỹ được nhiều điều thiện. Tuy nhiên trung, hiếu là của báu của nhà nho, kinh sử là của cải ruộng nương nhà nho. Con cháu ta quả thật biết việc học hành, việc cấy trồng là cần thiết thì biết gắng sức học tập. Biết học tập thì biết kính giữ sách, không để thất lạc, ngõ hầu không bỏ ruộng hoang của mình, không bỏ rơi của báu của mình, gắng sức tiến lên làm điều thiện. Như thế thì sẽ không phụ tấm lòng yêu thích chứa sách của ta.

Ngày 5, tháng 5, Bính Ngọ, niên hiệu Thiệu Trị (1846) Chỉ Trai chủ nhân.(1)

Việc lập thư viện gia đình và mong muốn để giúp cho con cháu và nhân dân trong vùng có nhiều sách để học tập, đậu đạt, giúp ích cho đời của Chỉ Trai đã được thỏa nguyện. Nhân dân vùng Trung Cần đã nổi tiếng là làng có nhiều nhà khoa bảng, nhiều nhân tài vào loại đứng đầu các làng quê ở xứ Nghệ. Tiến sĩ có: Đồng tam giỏp Tiến sĩ Tống Tất Thắng; có 3 cha con ông cháu đều Tiến sĩ là Nguyễn Trọng Thường, Nguyễn Trong Đương, Nguyễn Trọng Đường; Đệ nhất giáp đệ tam danh Đình nguyên - Thám hoa cú Nguyễn Đức Đạt, Nguyễn Hữu Lập; rồi Đồng tam giáp Tiến sĩ Lê Bá Hoan; Phó bảng có Nguyễn Tư Tái, và nhiều cử nhân, tú tài khác, v.v... Đặc biệt dòng họ con cháu Chỉ Trai - Lê Nguyên Trung đều yêu quí, chăm chỉ đọc sách, nghiền ngẫm thấu suốt hết sách quí trong Thư viện dòng họ mà nối nhau đậu bảng, làm quan to, có đóng góp quan trọng cho đất nước. Con đầu của Lê Nguyên Trung là Lê Nguyên Thứ, đậu Cử nhân khoa Tân Sửu (1841). Con thứ là Lê Nguyên Ý, đậu Tú tài. Con đầu của Nguyên Thứ là Lê Bá Đôn, thi đậu Tú tài năm 17 tuổi. Đậu Giải nguyên thi Hương khoa Đinh Mão (1867), được bổ làm Giáo thụ phủ Quảng Ninh, rồi Thông phán phủ Thừa Thiên, Tri huyện Yên Định, Chủ sự bộ Lễ, thăng Viên ngoại lang. Ông tiếp tục thăng tiến tới các chức: Lang trung, Đổng lý, Hàn lâm viện, Thị giảng học sĩ, Đốc học Quảng Trị, Thị độc học sĩ, Học chính Bình Định, Tư nghiệp Quốc Tử giám, tước Hồng lô tự khanh (vào triều đồng Khánh nguyên niên). Đến triều Thành Thái thứ 2, lại làm Học chính Bình Định, Khâm phái sơn lăng Ninh Bình, Thanh Hóa, Bố chính Thanh Hóa. Con trai đầu của Lê Bá Đôn là Lê Bá Hoan, đậu Cử nhân khoa Tân Mão (1891), đậu Tiến sĩ khoa Nhâm Thìn (1892), làm quan đến Phó đô Ngự sử. Con đầu của Bá Hoan là Lê Nguyên Khái, đậu Cử nhân khoa Mậu Ngọ (1918). Con trai duy nhất của Nguyên Khái là Lê Hồng Đạm, Đại đội trưởng trong Quân đội nhân dân Việt Nam, Liệt sĩ chống Pháp, mẹ là Vương Thị Ái Hồng được tặng là Bà mẹ Việt Nam Anh hùng.

Dòng họ Lê Nguyên còn lưu giữ được các di tích truyền thống, như 6 bia đá, lăng mộ, nhà thờ, đại tự, sắc phong… tôn vinh các vị tiền nhân, nêu gương cho con cháu mãi mãi. Đặc sắc, tại nhà thờ họ có bức biểu (Long phi), chữ sơn son thiếp vàng, đề năm Tự Đức thứ nhất (1840), làm năm (Đinh Hợi - 1887), ghi lại lời của nhà vua ca ngợi đức nhân nghĩa, lo cho dân của Chỉ Trai - Lê Nguyên Trung trong khi làm quan cho triều đình. Bức biểu (phần dịch của Lê Bá Cảnh) có đoạn ghi việc nhà vua chấp nhận kiến nghị của Chỉ Trai xin miễn giảm thuế cho dân:

 “Sẽ không còn lo sai sót, lính tráng có thể điều hòa,, thuế má có thể giảm bớt. Làm quan trước hết phải tin dân. Ông nên cố gắng mà thực hành cho tốt, còn như những việc ông tỏ bày, Trẫm chấp nhận cả”.

Các thế hệ con cháu của Lê Nguyên Trung đó noi gương cha ông tiếp tục sưu tầm sách và gom gúp xây dựng cho Thư viện gia đình, dòng họ ngày càng đầy đặn phong phú thêm, gúp phần phát huy truyền thống hiếu học và khoa bảng ngày càng rực rỡ cho nhân dân làng Trung Cần, nay là xã Nam Trung, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An.

Các di tích về Lê Nguyên Trung và dòng họ Lê, Nam Trung, Nam Đàn cần được Nhà nước xếp hạng để bảo vệ, góp phần cho việc giáo dục truyền thống ở địa phương. 

 

(1). Dương Bích Hồng. Lịch sử sự nghiệp thư viện Việt Nam trong tiến trình văn hóa dân tộc.- H., Vụ Thư viện - Bộ VHTT, 1999.- Tr. 85-86.       

tin tức liên quan

Thống kê truy cập

114443181

Hôm nay

272

Hôm qua

2305

Tuần này

2994

Tháng này

218355

Tháng qua

112676

Tất cả

114443181