Những góc nhìn Văn hoá

Nhận diện văn học Thăng Long - Hà Nội 10 thế kỷ (Phần I)

 

 I

Văn học Thăng Long - mấy tiếng ấy thật có sức gợi cảm đối với bạn đọc, nhưng mặt khác cũng không phải không gây nên trong nhiều nhà nghiên cứu một đôi điều thắc mắc nghi ngờ. Có thật đã từng tồn tại trong lịch sử văn học dân tộc bao nhiêu đời qua một khu vực riêng biệt gọi là văn học Thăng Long, và mọi sáng tác thuộc khu vực này, tự chúng đã mang một xu thế không cưỡng được là cố kết lại với nhau? Hay đây cũng là một danh từ giống như những cụm từ có phần tương tự: “văn học Kinh Bắc”, “văn học Nghệ - Tĩnh”, “văn học Sơn Nam hạ” v.v. vốn chỉ là những khái niệm nặng tính chất thống kê, ra đời do yêu cầu tập hợp văn học theo đơn vị “vùng” mà bộ môn địa lý học lịch sử, đặc biệt là địa phương chí, phát triển sôi nổi khoảng vài ba thập kỷ lại đây, bắt buộc đòi hỏi?


Lẽ tự nhiên, nếu xem xét ở một phạm vi hẹp nào đấy thì khái niệm “văn học Thăng Long” cũng không khác bao nhiêu so với những khái niệm về các vùng văn học mà ta vừa dẫn. Là một khu vực địa lý trong hàng mấy chục khu vực khác nhau được đăng ký từ lâu đời trên bản đồ Đại Việt, mảnh đất Thăng Long cũng đã có vinh dự sản sinh ra nhiều cây bút tài danh đóng góp vào lịch sử văn học dân tộc, và khi cần tập hợp họ lại theo sinh quán, ta không thể gọi họ bằng một cách gọi nào khác hơn, rằng đó là những văn nhân - danh sĩ Thăng Long.
Thế nhưng, hiểu “văn học Thăng Long” theo nghĩa từ nguyên học như thế hình như lại chẳng phải là cách hiểu cần được minh giải cặn kẽ trong quá trình chiếm lĩnh đối tượng của chúng ta, bởi khả năng hàm chứa của mấy chữ “văn học Thăng Long” khởi nguồn là ở đấy song tự nó triển giãn ra thành một khái niệm hoàn chỉnh với thời gian thì không còn dừng ở đấy. Người ta sẽ tự hỏi: có thể nào nhìn nhận vùng văn học Thăng Long tương đồng với văn học của bất kỳ một địa phương nào trong nước, khi mà mối quan hệ giữa mảnh đất Thăng Long với cả nước trong thực tế không hoàn toàn là mối quan hệ giữa một khu vực với cả cộng đồng? Quả có thế! Trước thời kỳ Đại La rất lâu ở nơi Kẻ Chợ này vốn đã nổi tiếng là một vùng trù phú, kết tập của nền văn minh sông Hồng, bao gồm trong nó cả văn hóa tiền Đông Sơn( ) và văn hóa Đông Sơn qua hàng thiên niên kỷ, với sự nổi tiếng của đồ đồng và đồ sắt sớm. Đến thời kỳ Đại La, đây là thành trì quân sự do Kinh lược sứ nhà Đường Trương Bá Nghi xây dựng năm 767 và Đô hộ sứ Triệu Xương sửa đắp năm 791, rồi Đô hộ sứ Trương Chu mở rộng năm 808 và chính thức đặt tên là Đại La thành. Cho đến năm 858 Đô hộ sứ Vương Thức lại cho củng cố thêm và đặc biệt đến năm 866, Đô hộ sứ Cao Biền cho xây đắp lại thật rộng lớn( ), bên cạnh vị trí hành chính và quân sự, đã biến thành một khu dân cư trù mật, với nghề thủ công gốm sứ tinh xảo còn lưu dấu tại di tích Hoàng thành( ), và với đời sống tâm linh phong phú mà ngày nay ta còn biết qua các truyền thuyết về thần Bạch Mã, giúp Cao Biền xây thành thành công cũng như truyền thuyết thần sông Tô Lịch hóa phép làm cho các bùa yểm của Cao Biền trở nên vô hiệu( ).
Kể từ đầu thế kỷ XI, Lý Thái Tổ dời đô từ Hoa Lư về Đại La, đổi tên Đại La thành Thăng Long, từ đấy Thăng Long nghiễm nhiên là “nơi tụ hội của bốn phương đất nước” (Chiếu dời đô), đóng vai trò không chỉ một cửa ngõ giao thương phồn hoa đô hội bậc nhất mà còn là một trung tâm chính trị và văn hóa lớn nhất trong suốt chiều dài lịch sử mười thế kỷ nền quân chủ độc lập. Đây chính là đặc điểm mà ngay hai trung tâm đô hội khác là Sài Gòn - thủ phủ của Lục tỉnh Nam Kỳ, và Phú Xuân (Huế) - Kinh đô của triều đại Nguyễn, dù về nhiều mặt có thể tương đương thậm chí vượt hẳn Thăng Long, riêng mặt này cũng không thể so sánh. Bao nhiêu ngành nghề thủ công đặc sắc từ muôn phương đã đổ về Thăng Long từ rất xưa, đời này qua đời khác, đem đến một sự xáo trộn trong cấu trúc xã hội, hình thành nên các phường hội nghề nghiệp ngày càng có điều kiện cải tiến kỹ năng cho tinh xảo để cạnh tranh sinh tồn, mặt khác cũng giúp tạo nên một lớp cư dân thành thị được cởi bỏ khỏi nhiều ràng buộc nặng nề khắc nghiệt từ hàng nghìn đời, với những quy ước hành nghề bình đẳng hơn, mang một tâm lý cởi mở hồ hởi, một nếp sống bớt phẳng lặng, đơn điệu mà có niềm vui sống mới, không còn bị đe nẹt bởi các thứ lệ làng phiền toái, các thứ mệnh lệnh có khi rất nghiệt ngã của đám hào cường. Hầu như mọi cái hay của xứ Đông xứ Đoài kể cả các vùng biên viễn thường bị gọi là “trại” cũng đều theo quy luật “hút về tâm” mà hiện diện giữa xã hội Thăng Long, sàng lọc dần cùng với thời gian để kết đọng thành cái bề sâu mà ta gọi là văn hóa trong cung cách giao tiếp ứng xử nền nã thanh lịch của chốn thị thành. Văn hóa, đó là ưu thế đổi mới và giải phóng tâm hồn con người mà các địa phương không thể có, nói như François Mauriac (1885-1970): “Mỗi nhà văn từ tỉnh lẻ đến Paris giống như Emma Bauvary được giải thoát”( ). Cùng với nó là việc xây dựng Văn miếu vào năm 1070 rồi Trường Quốc Tử Giám vào năm 1075 khởi đầu một chế độ học hành thi cử quy củ, thu hút nhân tài bốn phương về Thăng Long, tuân thủ nghiêm túc việc dùi mài những thể loại văn chương bác học để thế hệ nọ tiếp nối thế hệ kia sản sinh ra cả một nền văn học quan phương dồi dào về số lượng, từ Kinh đô mà tỏa đi khắp nước. Và với ưu thế có một không hai của môi trường địa văn hóa từng in sâu trong tâm cảm rất nhiều lớp người từ sĩ phu cho đến kẻ ít học như đã thấy, khi nói đến mấy chữ “văn học Thăng Long”, trực giác hẳn đã phải bắt ta tính đến một cái gì khác hơn là sự tập hợp của những nhà văn cùng sinh quán, trái lại là một sự thăng hoa theo nhiều cấp độ, dù là nhìn ở số lượng hay chất lượng, mà nếu không đạt được sự thăng hoa này thì lịch sử thiếu sót biết chừng nào!
Hãy nhìn ở sự thăng hoa về số lượng. Không thể không thừa nhận bằng vị trí đặc biệt nói trên, Thăng Long đã thường xuyên mang trong nó hai khả năng phát triển song song về văn hóa - văn học: khả năng tự sản sinh ngay trong lòng nền văn học Thăng Long (khu vực) và khả năng thu hút các tinh hoa văn học mới mẻ từ mọi miền đất nước dồn về. Thăng Long vào buổi bình minh của chế độ phong kiến tự chủ đã xuất hiện một khuôn mặt kỳ vĩ - khuôn mặt người anh hùng Lý Thường Kiệt (1019-1105), tức Ngô Tuấn, sinh ra và lớn lên ở phường Cơ Xá, về sau là đất cấm thành, với chiến công lừng lẫy đánh Tống và với hai áng văn thuộc loại tác phẩm khai sáng cho nền văn học viết dân tộc: bài thơ huyền thoại Nam quốc sơn hà( ) và hịch Lộ bố văn. Nhưng Thăng Long vào thời đại đó cũng tự hào đón nhận Lý Công Uẩn (974-1028), tức Lý Thái Tổ, ông vua mở đầu triều đại Lý, với tác phẩm văn xuôi bất hủ Chiếu dời đô. Có lẽ nào chỉ vì Lý Công Uẩn vốn quê đất Kinh Bắc mà gạt Chiếu dời đô ra khỏi “văn học Thăng Long”, trong khi chính áng văn này đánh dấu bước ngoặt ra đời của Thủ đô Đại Việt cũng tức là mở đầu cho một truyền thống văn hiến kéo dài nghìn năm trên đất Thủ đô?
Thăng Long vào hai thế kỷ XIII và XIV là nơi tự hào có một Chu An, quê quán ở Thanh Trì, là nhà thơ có danh lại là ông thầy đào tạo nên nhiều sĩ phu và văn nhân tài giỏi tứ xứ, người viết Thất trảm sớ chấn động cả triều chính. Nhưng nếu chỉ có một Chu An thì văn học Thăng Long sao khỏi hiu quạnh, trong khi Thăng Long hồi này chính là nơi quy tụ những nhân tài kiệt xuất thuộc dòng dõi họ Trần, vốn quê gốc ở Thiên Trường (Nam Định), đến thay chân nhà Lý mở ra triều đại Trần cường thịnh, đồng thời cũng cung cấp cho văn học cả một “dàn hợp xướng” đa giọng điệu - có sáng tác yêu nước, có sáng tác Phật giáo, có sáng tác trữ tình - với không ít tên tuổi: Trần Thái Tông (1218-1277), Trần Tung (1230-1291), Trần Quốc Tuấn (1232?-1300), Trần Quang Khải (1241-1294), Trần Thánh Tông (1240-1290), Trần Nhân Tông (1258-1308), Trần Anh Tông (1276-1320), Trần Minh Tông (1300-1357), Trần Quang Triều (1287-1325), Trần Nguyên Đán (1325-1390)... Hẳn không vì đây là những con người xuất thân dân chài vùng Tức Mặc mà “văn học Thăng Long” đành bỏ trống cả một thời đại rực rỡ, thung dung hòa quyện cả ba sắc màu Phật, Nho, Đạo, và tràn đầy âm hưởng chiếu, hịch, ngữ lục, luận thuyết, thi ca?
Thăng Long vào thế kỷ XV chứng kiến hai tầm vóc tiêu biểu đứng đối cực với nhau ở hai đầu thế kỷ - Nguyễn Trãi (1380-1442) và Lê Thánh Tông (1442-1497). Cả hai người có lẽ đều sinh và mất ở Thăng Long, nhưng nếu truy nguyên quê quán thì họ đều không phải là dân Thăng Long quê gốc. Họ trở thành những nhà văn nổi tiếng bậc nhất Thăng Long và cả nước, góp phần quyết định cho sự trưởng thành của thơ Nôm dân tộc, là những con người khởi đi cái thông điệp hàng đầu trong mọi thông điệp mà văn chương cần giao ước với lịch sử về vận mệnh đích thực của nó: ấy là khả năng biến đổi và nâng cấp ngôn từ thông tục của đại chúng thành ngôn từ thẩm mỹ. Chẳng lẽ vì nệ vào sinh quán mà “văn học Thăng Long” lại phải gạt ra ngoài phạm vi của nó hai nhân tài bậc nhất trên phương diện quan trọng ấy?
Còn nhiều nữa. Vào thế kỷ XVIII, chúng ta có thiên ký sự đột xuất Thượng Kinh ký sự của Lê Hữu Trác (1720-1791) - một thầy thuốc người Hải Dương và mai danh ẩn tích lâu năm tại Nghệ - Tĩnh; có cuốn tiểu thuyết giàu chất liệu thời sự nóng hổi Hoàng Lê nhất thống chí của dòng họ Ngô Thì - một dòng họ lớn ở Tả Thanh Oai, lúc bấy giờ còn thuộc trấn Sơn Nam; có cuốn tùy bút danh tiếng Vũ trung tùy bút của Phạm Đình Hổ (1768-1839) - người làng Đan Loan (Hải Dương) đến trú ngụ ở phường Hà Khẩu; có Tang thương ngẫu lục của Phạm Đình Hổ và Nguyễn Án (1770-1815) - người làng Vân Điềm (Kinh Bắc). Phải chăng có thể loại bỏ khỏi nội hàm “văn học Thăng Long” những tác phẩm trên vì lý do quê quán tác giả, mà không cần biết rằng đó là những sáng tác hiếm có viết về cuộc sống hiện thực của Thăng Long trong cơn giông bão của lịch sử Việt Nam những năm 70 và 80 thế kỷ XVIII?
Và chỉ cách đây mới hơn một thế kỷ thôi, ngay giữa Thăng Long còn tơi bời đạn lửa sau một buổi cầm cự với cuộc tập kích lần thứ hai của quân xâm lược Pháp (1882), có một vị Tổng đốc người Quảng Nam trước khi quyên sinh vì nghĩa đã để lại một bài Biểu trần tình. Bài biểu không phải là một bức tranh sinh hoạt về xã hội Thăng Long nhưng lại mang đầy đủ sinh lực của Thăng Long vào một thời điểm nóng bỏng nhất. Đó là tiếng khóc bi tráng về một Thăng Long bi tráng trong giờ thất thủ. Có thể nào vì Hoàng Diệu (1828-1882) người Quảng Nam mà “văn học Thăng Long” không thừa nhận tiếng khóc lẫm liệt ấy?
Quả tình không thể chỉ bó hẹp khái niệm “văn học Thăng Long” trong bộ phận văn học do những người sinh trưởng lâu đời ở đây viết ra mà còn phải đưa vào khái niệm đó những tác phẩm ưu tú của biết bao con người từ bốn phương đất nước hội tụ về, coi Thăng Long - Hà Nội là quê hương mình, viết một cách sâu sắc về Kinh đô và cống hiến những năng lực sáng tạo hết mình cho mảnh đất này. Khi bộ máy hành chính trung ương của chế độ quân chủ được thiết lập với quy chế khoa cử nhằm tuyển lựa người tài thì việc bổ sung cho đội ngũ văn nhân nghệ sĩ của thăng Long bằng nhân tài cả nước không còn là chuyện ngẫu nhiên mà đã trở thành một cơ chế được vận hành như một tất yếu. Kẻ sĩ kéo nhau về Kinh đô để thi cử như trên đã nói chỉ mới là một vế. Nhưng các vị quan từng trải, học vấn uyên thâm, sau nhiều năm nhậm chức ở các địa phương, được Triều đình tuyển về làm quan tại Kinh đô và trở thành người Thăng Long một cách tự nguyện trong nếp sống cũng như trong sáng tác văn chương mới là vế đáng nói hơn nhiều. Đó là bộ phận văn học kẻ sĩ chiếm khối lượng dồi dào nhất trong “văn học Thăng Long”, và vì là sản phẩm của những kẻ sĩ vốn đã kinh lịch khắp đó đây nên thu hút được vào nó tinh túy của mọi vùng miền mà họ từng nếm trải, đồng thời lại đã qua một thứ máy lọc vô thức để chưng cất thành một thứ cảm xúc nghệ thuật tinh ròng mà không địa phương nào có thể có.
Như vậy, nếu vẻ đẹp riêng của mỗi vùng đất đã tạo nên những giá trị đặc thù cho những tác phẩm viết về vùng đất ấy, thì vẻ đẹp Thăng Long hẳn cũng không thể đẹp hơn một vùng nào khác, vì trên đất nước ta, nơi đâu mà chẳng có một hương vị lạ thường nơi khác không sánh được. Nhưng nếu vẻ đẹp khách quan của một vùng đất phải thông qua người nhận thức cái đẹp, tức là chủ thể thẩm mỹ, mới trở thành cái đẹp trong sáng tạo nghệ thuật, thì phải nói Thăng Long có một ưu thế trội hơn hẳn, vì tình yêu đối với Thăng Long không còn là sở hữu riêng của những người sinh ra tại Thăng Long - Hà Nội mà là của tất cả mọi người dân Việt Nam yêu quý Thủ đô.
Tất nhiên, nói đến chiều hướng thu hút nhân tài, thu hút các thành tố văn hóa ở mọi miền về Thăng Long không phải chỉ tính đến những con số cộng. Mà từ sự biến đổi số lượng nhất thiết phải dẫn đến một bước thăng hoa về chất, một sự bồi đắp cho những yếu tố cổ truyền bằng yếu tố hiện đại, một sự chuyển hóa, đổi mới do giao lưu, vận động, làm cho văn hóa trở thành nhu cầu sinh tồn thực sự, thành sự sống hàng ngày. Trong mối giao tiếp thường xuyên của nhiều dòng tư tưởng, trong sự chen đua của tài năng sáng tạo, sinh hoạt văn hóa Thăng Long trước sau thế nào cũng xuất hiện những sự kiện có ý nghĩa đổi mới, có sự “bùng nổ” mà phạm vi ảnh hưởng không còn chỉ bó hẹp trong địa bàn Thăng Long. Ta đã nói đến một Lý Công Uẩn được đón nhận vào “văn học Thăng Long” như một trong những người viết áng văn xuôi sớm nhất. Nhưng cùng nhập tịch vào Thăng Long với Lý Công Uẩn còn có cả một nền văn hóa Phật giáo vốn sinh hoa kết quả lâu dài trên đất Kinh Bắc, nơi chôn rau cắt rốn của họ Lý và phải với môi trường Thăng Long, thành tố văn hóa này mới được cải tạo lại, trở nên năng động, có sinh khí hơn, để trở thành một hình thức sinh hoạt văn hóa phổ biến trong cả nước, phản ánh được cái bản sắc riêng của đời sống tư tưởng Việt Nam thời Lý - Trần. Ta cũng đã nói đến Nguyễn Trãi và Lê Thánh Tông, hai cây đại thụ trong văn học thế kỷ XV. Nhưng điều cần nói thêm là với hai nhân vật này, đặt trong môi trường xã hội trí thức Thăng Long ở thế kỷ XV, đã hình thành nên hai văn phái sớm nhất trong lịch sử, góp phần đưa văn chương Việt Nam đi vào những chuẩn mực ổn định - một văn phái yêu nước thân dân, lấy thiên nhiên làm đối tượng phơi bày tâm trạng cá nhân, gửi gắm tấm lòng ưu ái, với Nguyễn Trãi, Phan Phu Tiên (?-?), Nguyễn Mộng Tuân (?-?), Lý Tử Tấn (1378-1458), Vũ Mộng Nguyên (1394-?), Thái Thuận (1441-?), Nguyễn Bảo (1452-?)( )  và một Tao đàn nhị thập bát tú có tính chất một thứ viện hàn lâm nghệ thuật do cung đình chi phối, ca ngợi “vua sáng tôi hiền”, “giang sơn cẩm tú”..., với Lê Thánh Tông, Thân Nhân Trung (1418-1499), Đỗ Nhuận (1446-?), Lương Thế Vinh (1460-?) cùng nhiều triều thần hay chữ khác.
Chỉ thu hẹp trong sự nghiệp riêng của một nhà trí thức - nghệ sĩ nào đấy, sự thăng hoa về chất cũng đã thấy rõ. Sách vở từng nói nhiều về Lê Quý Đôn (1726-1784) ở thế kỷ XVIII, một nhân vật có tầm vóc uyên bác ít thấy xưa nay. Nhưng Lê Quý Đôn sẽ không là Lê Quý Đôn như ta có nếu ông không sớm rời bỏ “lối học luộm thuộm” ở tỉnh lẻ để lên Kinh đô ngay từ lứa tuổi 15, chọn học những nhà trường nổi tiếng ở Kinh đô, học một cách có phương pháp “với những ông thầy giỏi nhất” (Ngô Thì Sĩ). Nói Thăng Long rèn đúc nên nhà bác học họ Lê hẳn cũng chẳng phải là nói ngoa mấy tí. Sách vở lại cũng từng nói đến mức kỷ lục về một Nguyễn Du (1765-1820) thiên tài, xuất hiện như một ngôi sao làm rạng rỡ hẳn bầu trời văn học dân tộc; Nguyễn Du ấy với bút pháp hiện thực trữ tình có một, như nhiều người nhận định, quyết không thể có được nếu chỉ là một chàng trai suốt đời loanh quanh ở xứ Nghệ, nếu không tiếp thu được từ tuổi nhỏ cái cốt cách đa tình của người mẹ, một cô gái vùng quê Kinh Bắc, đặc biệt nếu không từng có một thời trai trẻ sống trong xã hội phồn hoa ở Thăng Long, tiếp thu sâu sắc cội nguồn văn hóa Thăng Long. Nguyễn Du không chỉ đem lại cho văn học Thăng Long những kiệt tác như Thăng Long, Bài ca người gảy đàn ở Long thành (Long thành cầm giả ca)... Chính Thăng Long đã góp phần hình thành nên thiên bẩm nghệ sĩ Nguyễn Du và cũng làm cho những giá trị của hồn thơ ông trở thành tiêu biểu, vượt lên tầm cả nước.
Cho nên, cũng khó nói trong mối quan hệ giữa “nội sinh” và “ngoại nhập” của văn học Thăng Long, yếu tố nào là chính, yếu tố nào là phụ. Hai phương diện này đã gắn bó, tác động lẫn nhau trong đời sống thực tiễn, làm cho văn học nghệ thuật sinh hoa kết quả, và làm cho mọi thành tựu càng được nhân lên. Tài năng của một Đặng Trần Côn (?-?) (Thăng Long) đã kêu gọi tài năng của một Đoàn Thị Điểm (1705-1748) (Kinh Bắc), và đến lượt Đoàn Thị Điểm lại kêu gọi rất nhiều tài năng khác, những Phan Huy Ích (1751-1822) (Sơn Tây), Nguyễn Khản (1734-1786) (Nghệ - Tĩnh)... những người đã sống quá nhiều trong những thế giới đài các kiểu nàng chinh phụ, lại cũng hiểu quá rõ tâm sự chàng danh sĩ làng Mọc ngán chiến tranh đến phải đào hầm xuống nằm đọc sách kiểu Đặng Trần Côn. Thi tài của một chàng nho sinh họ Cao đất Hà Nội không chỉ được soi rọi và mài sắc bởi nhóm nhà văn Hà thành cùng chí hướng, những Nguyễn Văn Siêu (1799-1872), Nguyễn Văn Lý (1795-1869), Vũ Tông Phan (1800-1851), Diệp Xuân Huyên (1808-?), Trần Văn Vi (đậu Cử nhân 1825), Chu Doãn Trí (1779-1850), Lê Duy Trung (1795-1863)... ra sức hoạt động nhằm khôi phục và giữ gìn truyền thống văn vật Thăng Long, chống lại sự coi thường của Triều đình nhà Nguyễn. Thi tài ấy còn làm cảm động một thi tài khác ở Phú Xuân: Miên Thẩm (1819-1870), và bằng tình bạn chân thành với Cao Bá Quát (1808-1855), anh em Miên Thẩm đã có dịp hiểu rõ hơn về người và cảnh Hà Nội, sau này có dịp ra Hà Nội họ đã có những bài thơ đầy xúc cảm về phong cảnh Hồ Tây.
Về một phương diện khác, là nơi góp mặt của nhiều thế hệ danh nhân tứ xứ, cũng có thể nghĩ rằng môi trường văn hóa Thăng Long là miếng đất thuận lợi để tạo ra sự đối chọi giữa nhiều kiểu dạng tài hoa rất khác nhau, và đối chọi chính là điều kiện để văn học Thăng Long, hơn bất kỳ một vùng miền nào khác, không xuôi chiều đơn điệu mà thường khi vẫn tồn tại những xu hướng, những phong cách trái ngược, làm cho bộ mặt văn học sống động hẳn, và tiếng nói văn chương trở nên đa nghĩa. Thi tài viết phú “thêu hoa dệt gấm” của một Nguyễn Huy Lượng (?-1808) chẳng đã kích thích khả năng khích bác, ỡm ờ của một ngọn bút trữ tình như Phạm Thái (1777-1813) mà ngày nay bình tâm mà xét, cái ngôn ngữ chửi đổng chua ngoa đó không phải không làm cho thể phú mở ra một giọng điệu mới có phần táo tợn: sự “văn chương hóa” ngôn ngữ bình dân thô tục trong văn phú. Cũng như hồn thơ mực thước, tao nhã đến gần như khép kín của một bà huyện Thanh Quan (thế kỷ XIX) biết đâu lại không phải là phản ứng gián tiếp và từ trong vô thức đối với giọng thơ trẻ trung, nghịch ngợm, chói gắt đến sỗ sàng của một Hồ Xuân Hương (thế kỷ XIX?) - hoặc có thể ngược lại - khiến cho cả hai cùng được cọ xát và chói sáng trên cái đỉnh của hai phong cách thi tài? Chấp nhận được tất cả mọi sự đối nghịch ấy, để chúng cùng sinh sôi nảy nở, đó mới là bản lĩnh của văn học Thăng Long. Cũng vậy, trước đây, chỉ xem xét văn học đơn thuần bằng sự quy chiếu của hệ ý thức, ta chẳng đã từng đặt các dòng, phái của văn học Hà Nội nửa đầu thế kỷ XX vào những nấc thang giá trị không thực, cứ làm như có thơ ca cách mạng thì phong trào “thơ mới” không còn bao nhiêu ý nghĩa, có các nhà văn hiện thực thì có thể quay lưng lại với Tự lực văn đoàn, có Đông Kinh nghĩa thục đi trước thì Đông Dương tạp chí, Nam phong tạp chí về sau chỉ còn là “những con số không”... Ta cũng dễ dàng quy kết với thái độ không mấy thiện chí, rằng nhóm Xuân thu nhã tập là siêu hình siêu thực, là tắc tỵ về chữ nghĩa, rằng tạp chí Thanh nghị là diễn đàn của thượng lưu tư sản, tạp chí Tri tân là chui vào tháp ngà phục cổ, là viện dẫn tờ a tờ b không ích gì cho cuộc sống xung quanh... Sự thật, quy luật diễn biến của một trung tâm văn hóa như Hà Nội đã bác bỏ cái nhìn thiển cận hời hợt của chúng ta, bởi lẽ đời sống tinh thần càng phong phú bao nhiêu thì nhu cầu và thị hiếu đối với văn hóa, văn học nghệ thuật của con người lại càng không đơn giản, không phải chỉ cần bám chắc lấy một khuynh hướng, một trường phái nào đấy và quay lưng với mọi trường phái khác cũng đủ thỏa mãn cảm hứng. Ngược lại, tôn trọng sự đa dạng mới là xu thế phát triển hợp quy luật của hiện đại hóa, là sự thôi thúc bên trong không đừng được của đời sống trí tuệ của con người hiện đại. Sự bộn bề của văn học Hà Nội thời này chứng tỏ dung lượng của nó có một bước phát triển vượt lên so với giai đoạn trước cũng như so với tầm cả nước. Nó bao chứa hết những vấn đề của thời đại, và đủ sức tiếp nhận, thanh lọc và chưng cất mọi giá trị.
Đứng về mặt thể loại, có thể nói mà không sợ lầm rằng ở mỗi thời kỳ lịch sử, yêu cầu nội tại của sự phát triển nghệ thuật thường làm xuất hiện một vài thể loại mới đóng vai trò trung tâm chi phối hoạt động văn học của một giai đoạn, rồi sang giai đoạn sau lại xuất hiện một vài thể loại mới, đẩy các thể loại đã mất tính năng động ra vòng ngoài. Trong chuỗi vận hành thay thế nhau thường xuyên như thế, văn học Thăng Long đã chứng tỏ cái ưu thế của một môi trường thai nghén những mầm mống mới, là nơi thử nghiệm thành công một thể loại nào đấy trước các địa phương khác, hoặc là nơi đúc kết mọi cố gắng chưa hoàn thiện của các địa phương khác để nâng cấp cho thể loại đạt đến đỉnh cao.
Thời Lý - Trần, bên cạnh thơ Đường luật chữ Hán được người sau xếp vào trình độ chuẩn mực về nghệ thuật và là hình thức phổ biến rộng rãi trong sinh hoạt ngâm vịnh ở Kinh thành - mà các giai đoạn trước, tại Hoa Lư và nhiều vùng văn hóa như Kinh Bắc, thơ và kệ của giới Thiền sư vẫn chưa thể với tới - thì chiếu, biểu, hịch, cáo( ) cũng là những thể loại văn học chức năng “mũi nhọn” trong công cuộc đấu tranh dựng nước và giữ nước, được các cây bút chính khách hàng đầu của Kinh đô vận dụng rất thành công, để lại cho lịch sử văn học vài ba áng văn trở thành kinh điển.
Thế kỷ XV là thời kỳ nở rộ của thơ Nôm, và hai tài danh Thăng Long là Nguyễn Trãi và Lê Thánh Tông cũng chiếm quán quân về thể thơ thất ngôn xen lục ngôn. Trong khoảng cuối thế kỷ XV sang nửa đầu thế kỷ XVI, văn xuôi chữ Hán việt Nam đã hội đủ điều kiện cho một thể loại đặc sắc là truyện truyền kỳ xuất hiện hoàn chỉnh. Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ (?-?) được viết tại nơi ở ẩn của nhà cư sĩ không chắc đã là sản phẩm của Thăng Long, nhưng Thăng Long cũng có một tác phẩm có thể so sánh ngang ngửa với nó và có thể còn ra đời trước cả áng “thiên cổ kỳ bút” của Nguyễn Dữ, đó là Thánh Tông di thảo mà Lê Thánh Tông có góp phần công sức ít hay nhiều( ).
Thế kỷ XVII là một chặng đường hoài thai của hai thể thơ lục bát và song thất lục bát tiếng Việt, để chuẩn bị cho thế kỷ XVIII nở rộ hai thể loại đặc sắc ngâm khúc và truyện Nôm, và ở đây vẫn không thiếu được vai trò đi đầu của văn học Thăng Long. Trong hai khúc ngâm nổi tiếng nhất còn lại đến nay thì một (Cung oán ngâm khúc) là do danh sĩ Thăng Long sáng tác (Nguyễn Gia Thiều người Kinh Bắc nhưng lại sống ở Kinh đô từ nhỏ), một nữa phải nói chính là sự cộng đồng sáng tạo của nhiều anh tài cùng góp mặt, tuy nhiên Thăng Long vẫn là kẻ khơi nguồn (không có nguyên tác của Đặng Trần Côn chắc gì đã có được Đoàn Thị Điểm với Chinh phụ ngâm khúc bản dịch đầu tiên, và Phan Huy Ích với Chinh phụ ngâm khúc bản dịch hiện hành?). Xét về chất lượng, Truyện Kiều của Nguyễn Du là một đỉnh cao sáng chói của truyện Nôm, phải kết tinh tiếng nói nghệ thuật của nhiều vùng miền mới tạo nên được, song về số lượng mà nói, đã nơi nào hơn được con số truyện Nôm của vùng đất Kinh đô? Chỉ tính riêng Lý Văn Phức (1785-1849) người phường Hà Khẩu thôi, số truyện và diễn ca của ông đã có đến ngót một chục, một cây bút có thể gọi là vô địch của thể loại truyện thơ ưu việt và hiện đại nhất  bấy giờ, trong đó Truyện Tây Sương, Ngọc Kiều Lê, Nhị độ mai, Nhị thập tứ hiếu diễn ca... đều thuộc hàng danh tác. Truyện ký văn xuôi thì Hoàng Lê nhất thống chí chắc chắn chiếm đầu bảng, xét ở kết cấu nghệ thuật chương hồi và nhất là ở góc nhìn hướng tới hiện đại của ngòi bút xây dựng nhân vật và khắc họa bức tranh xã hội, đặt con người vào những biến đổi cùng cực về tâm lý và trong tác động nhiều chiều của những kịch biến lịch sử.
Nếu vào thế kỷ XVII, hai bài vãn của Đào Duy Từ đánh dấu sự thành công của thể vãn lục bát Đàng Trong thiên về tự sự, thì sang thế kỷ XVIII, Ngọc Hân Công chúa lại giành về cho văn học Thăng Long một bước đổi mới của thể vãn: bài Ai tư vãn của bà bỏ nhịp thơ lục bát đều đều mà thay bằng âm điệu réo rắt của song thất, tạo nên một thành công lớn trong việc phối hợp tự sự với trữ tình. Cũng vậy, nếu văn học tuồng là đặc sản của văn học Đàng Trong ở thế kỷ XIX thì hát nói là đặc sản của văn học Đàng Ngoài trong cùng thời gian, và bên cạnh cái giọng thị tài, ngất ngưởng rất đặc trưng của hát nói Nguyễn Công Trứ (Nghệ Tĩnh), còn có cái giọng tình tứ, ngạo đời khó lẫn của hát nói Cao Bá Quát (Thăng Long). Phải trong môi trường thị dân phát triển lâu đời của mảnh đất Hà Nội, hát nói mới quyến được người nghe vào âm hưởng nồng nàn dính kết giữa lời thơ và nhạc điệu, nó đẩy tới những cung bậc cảm xúc nhuốm màu sắc dục mà vẫn khéo léo giữ được hương vị thanh tao.
Cuối thế kỷ XIX vắt sang nửa đầu thế kỷ XX, công cuộc hiện đại hóa văn học quốc ngữ theo mô hình nghệ thuật phương Tây bắt đầu dấy lên ở miền Nam một cách rầm rộ, sôi nổi và có nhiều thành tựu đáng ghi nhận. Nhưng để có được một trào lưu thơ mới bột phát và toàn thắng thì ngọn cờ vẫn là Thế Lữ (1907-1989). Để có một hình thức tiểu thuyết hiện đại, cuốn hút được cả một thế hệ độc giả đông đảo khắp nước đại diện cho lớp người mới trong văn học thì vẫn phải nhường các cây bút chủ lực của Tự lực văn đoàn (1932-1940). Và trong khi tiểu thuyết Lục tỉnh đang vướng mắc trong ngôn từ biền ngẫu chưa có cách nào gỡ được thì tiểu thuyết Hà Nội lại đã tiến thêm một bước không ngờ: năm 1936, cây bút hiện thực Vũ Trọng Phụng (1912-1939) đặt cược tên mình vào năm tác phẩm ra đời liên tiếp trong vòng một năm, trong đó có Số đỏ, cuốn “tiểu thuyết hoạt kê” có thể gọi là không tiền khoáng hậu. Ngoài ra, nói đến văn học kịch của cả nước cũng không thể quên Vũ Đình Long (1896-1960), Thế Lữ, Đoàn Phú Tứ (1910-1989) là những đóng góp đi đầu và sáng giá của Hà Nội, bên cạnh Vi Huyền Đắc (1899-1976), một tên tuổi lớn sinh ở Quảng Ninh nhưng hoạt động sân khấu ở Hải Phòng.
Rõ  ràng, trên tiến trình phát triển của thể loại trong văn học Việt Nam tính từ khi dựng nền độc lập đến 1945 - thời điểm xẩy ra những biến cố lịch sử lớn lao làm đất nước chia đôi trong nhiều thập kỷ và văn học cũng vận hành không còn theo thông lệ như nó vẫn có - mảnh đất Thăng Long - Hà Nội chưa bao giờ chịu đánh mất vị trí là một vùng văn học có sức thu hút kỳ lạ mọi nhân tố năng động bậc nhất để sản sinh những hạt giống khỏe mạnh, đáp ứng yêu cầu của các thể loại tiên phong. Bên cạnh tính nhiều màu nhiều vẻ của một dòng văn học đã có sự phân phái phức tạp theo khuynh hướng tư tưởng và quan niệm thẩm mỹ, không còn dấu vết đơn nhất của loại văn chương tỉnh lẻ, tính tiên phong trong tìm tòi thể loại cũng chứng tỏ, từ sớm, khả năng tổng hợp và đột phá về chất của văn học Thăng Long đã tới một trình độ rất cao. 


(Còn nữa - Kỳ sau đăng tiếp) 

 

tin tức liên quan

Thống kê truy cập

114442889

Hôm nay

285

Hôm qua

2318

Tuần này

2702

Tháng này

218063

Tháng qua

112676

Tất cả

114442889