Góc nhìn văn hóa
Câu chuyện viễn đông của B. RIFTIN ở Việt Nam

Đặt vấn đề
B. Riftin là nhà nghiên cứu người Nga gắn bó cả cuộc đời với Trung Quốc học và để lại những di sản vô cùng ý nghĩa nên đương nhiên sự nghiệp của ông đã được giới nghiên cứu Nga và Trung Quốc quan tâm và đánh giá kỹ lưỡng. Bài viết này là góc nhìn khác về B. Riftin, từ Việt Nam và từ hình dung theo kiểu tự sự học(narratology) hiện đại.
Dẫn nhập
B. Riftin đặt chân lần đầu đến Việt Nam năm 1973. Một năm sau, năm 1974, độc giả Việt lần đầu được biết đến nghiên cứu của ông. Và ngót 40 năm sau, năm 2012, tin ông qua đời được đăng cùng chuyên san của Tạp chí Nghiên cứu Văn học - số dự định dành cho kỷ niệm 80 năm ngày sinh ông - gồm bản dịch một số nghiên cứu, hồi ức của ông, và bài phỏng vấn ông mới nhất. Như vậy là trong “50 năm nghiên cứu văn học Trung Quốc” của mình, thành quả làm việc của B. Riftin đã có gần 40 năm hiện diện trong giới nghiên cứu Việt Nam, dù không liên tục. Nhìn lại khoảng thời gian “B. Riftin ở Việt Nam” bằng một thống kê cụ thể (xin xem Phụ lục ở cuối bài viết) có thể thấy:
- Về thời gian: Việc giới thiệu các nghiên cứu của B. Riftin ở Việt Nam tập trung từ những năm 1980 trở đi.
- Về ngôn ngữ: Các nghiên cứu của B. Riftin được chuyển dịch sang tiếng Việt từ 3 nguồn: Nga, Trung, Anh, trong đó các văn bản tiếng Nga và Trung là những văn bản gốc.
- Về người dịch: đều là các nhà nghiên cứu văn học hoặc văn hoá học.
- Về hình thức công bố: hoặc trên tạp chí chuyên ngành (căn bản là tạp chí của Viện Văn học), hoặc là ấn phẩm của các nhà xuất bản Việt Nam có tên tuổi.
- Về nội dung: Thông tin về 4 phần công việc mà B. Riftin thực hiện trong suốt sự nghiệp của ông và giới thiệu một số công trình được chính ông coi là trọng điểm.
Những chi tiết trên cho thấy các nghiên cứu của B. Riftin đã được dẫn nhập một cách chuyên nghiệp và khá cập nhật tại Việt Nam. Và đây cũng là cơ sở để bài viết tìm hiểu vấn đề: với giới nghiên cứu văn hoá văn chương ở Việt Nam, B. Riftin là ai?
1. Người tìm kiếm văn bản và nhà thư mục học
Bản tự thuật nghề nghiệp của chính B. Riftin cùng các bài viết mang tính giới thiệu (của Phạm Tú Châu, Bùi Thiên Thai) và bài phỏng vấn (do Đào Tuấn Ảnh thực hiện) đã thống nhất phác họa ông là một người sưu tầm tư liệu miệt mài, tỉ mỉ: “trong 40 năm, tôi sưu tập được rất nhiều tư liệu”. Kết quả của công việc này được đúc kết trong những công trình chủ chốt như: Chủ đề và tình tiết trong văn học dân gian các dân tộc Siberi, Trung Á, và Viễn Đông (tiếng Nga, Moscow, 1982, tập 13), Tuyển tập chuyện kể các dân tộc Trung Quốc (tiếng Nga, Moscow, 2002), Tuyển tập ba loại độc bản hý khúc cuối đời Minh ở hải ngoại (tiếng Trung 《海外孤本晚明戏剧选集三种》,Thượng Hải, 1993, hợp tác với Lý Bình), Tuyển tập tác phẩm tranh tết dân gian Trung Quốc quý hiếm lưu giữ tại Liên Xô (tiếng Trung, Bắc Kinh, 1990; tiếng Nga, Moscow, 2002), và Tiểu thuyết, hý khúc, tục văn học Trung Quốc cất giữ ở hải ngoại (hợp tác cùng Vương Trường Hữu),… Như vậy, B. Riftin đã sưu tập và xây dựng mục lục văn bản tập trung vào văn học dân gian và văn học cổ điển Trung Hoa được lưu giữ ở cả Trung Hoa và thế giới, với các thao tác chuyên nghiệp, “sưu tập tư liệu truyền miệng về văn học dân gian rồi ghi chép lại vừa bằng phiên âm vừa bằng chữ Hán”. Hệ thống tư liệu và thư mục này không những đã thành cơ sở quan trọng cho các chuyên luận hoặc bài viết của ông mà còn đóng góp lớn cho việc phục dựng các giá trị văn hoá phương Đông cổ xưa. Và đối với giới nghiên cứu folklore và văn học cổ Việt Nam, đây là một kinh nghiệm vô cùng thiết thực.
2. Người kể những câu chuyện Viễn Đông
Trong 2 mảng di sản của Riftin là tư liệu-thư mục và nghiên cứu, chỉ có mảng thứ hai được dịch tại Việt Nam.Thêm nữa, việc giới thiệu này tập trung vào: folklore Trung Hoa, văn xuôi cổ điển Trung Hoa, văn xuôi cổ điển Viễn Đông (bao gồm Việt Nam, Nhật Bản, Triều Tiên - tức Đông Á), và sự dịch chuyển của folklore, của văn xuôi cổ điển Trung Hoa trong các vùng văn hoá khác. Không khó để nhận ra rằng trọng tâm nghiên cứu của Riftin là Trung Hoa và so sánh Trung Hoa - Viễn Đông.
Các bản dịch này đã cung cấp cho các nhà nghiên cứu Việt Nam nhiều thông tin văn bản vô cùng quý giá, bởi vào những năm trước khi có sự bùng nổ của internet và phát triển kinh tế thì điều kiện tiếp cận tư liệu của Việt Nam là vô cùng hạn chế. Nhưng quan trọng hơn, việc Riftin chỉ ra những tương tác giữa văn học dân gian và văn học viết, những tương tác giữa các nền văn hoá dân tộc (tập trung ở vùng Đông Á, mà Riftin gọi là Viễn Đông) đã gợi mở cho các nhà nghiên cứu folklore và văn học cổ Việt Nam một hướng diễn giải hữu ích và lý thú, bởi ông đã nhận ra đúng bản chất vùng của những văn bản này trong thời kỳ trung đại. Nói cách khác, Riftin đã “nhắc” đồng nghiệp Việt Nam rằng: ở thời kỳ tiền hiện đại, quá trình hình thành văn học viết, bên cạnh việc mô phỏng Trung Hoa còn có nguồn quan trọng là folklore, và ở thời kỳ phát triển của văn học viết, folklore thậm chí còn có thể là nhân tố góp phần kiến tạo các giá trị cổ điển, giá trị dân tộc. Ông cũng “nhắc” học giới Việt Nam lưu ý đến thực tế: có một vùng văn hoá chịu ảnh hưởng của Trung Hoa, bao gồm ba dân tộc Đông Á. Hướng đi này của Riftin đã để lại ảnh hưởng không nhỏ đến các nghiên cứu cùng chủ đề tại Việt Nam (ví dụ: truyện kể dân gian, truyện truyền kỳ, hay tiểu thuyết cổ điển). Nói theo thuật ngữ hiện đại, đó là những nghiên cứu khu vực học (area studies). Cùng với thao tác so sánh quen thuộc trong mọi công trình nghiên cứu của Riftin, đó là lý do vì sao tại Việt Nam Riftin được gọi là nhà nghiên cứu phương Đông nhiều hơn là nhà Trung Quốc học/Hán học (sinologist).
Bên cạnh đó, không khó để nhận ra là việc dịch các nghiên cứu của Riftin sang tiếng Việt hầu hết là tiểu luận hoặc trích đoạn các chuyên khảo. Duy nhất một (trong số 5?) chuyên khảo của Riftin được chuyển ngữ tại Việt Nam, là Sử thi lịch sử và truyền thống văn học dân gian Trung Quốc. 15 dịch phẩm tiếng Việt rõ ràng là một con số quá khiêm tốn so với lượng công bố hết sức ấn tượng của ông cả ở Nga và các khu vực nói tiếng Trung cũng như so với tiếng vang của các nghiên cứu đó trong cộng đồng Trung Quốc học và Đông phương học thế giới. Chính vì nhận thức được điều này mà giữa năm 2011 một nhóm các nhà nghiên cứu của Viện Văn học (với hai thành viên chủ chốt là PGS. Phạm Vĩnh Cư và TS. Trần Hải Yến) đã phác thảo một dự án dịch và nghiên cứu các công trình của Riftin mang tên “Những vấn đề của nghiên cứu phương Đông và văn học so sánh trong các công trình nghiên cứu của B. L. Riftin”. Phác thảo này hình dung các nghiên cứu của Riftin theo 3 khu vực: 1/các nghiên cứu về thần thoại Trung Hoa và Đông Á, 2/về văn học thành văn của Trung Quốc và Đông Á, 3/ về các loại hình văn học, tiếp xúc văn học và văn học so sánh. Theo dự kiến sẽ có một ấn bản khoảng 1.200 trang bao gồm dịch và các chuyên đề nghiên cứu. Trong hy vọng của nhóm, đề tài này sẽ là một món quà mừng sinh nhật 80 của nhà nghiên cứu đáng kính vào năm 2012. Tiếc là vì một số khó khăn, dự án đã phải lui lại. Thay vào đó, Viện Văn học quyết định dành trọn vẹn một số của năm 2012 cho chuyên san về Boris Lvovitch Riftin. Đúng lúc số tạp chí chuẩn bị lên khuôn thì tin Viện sĩ B. L. Riftin qua đời đến Hà Nội. Thế là quà sinh nhật đã trở thành nén tâm hương tưởng nhớ ông, như đã nói ở phần đầu bài viết này.
Tóm lại, có thể nói rằng, chuyện kể của Riftin ở Việt Nam về thế giới văn hoá cổ phương Đông mới chỉ là những “tiểu truyện” và như một bức tranh đang còn thiếu nhiều mảnh ghép, trong đó có những mảnh ghép quan trọng (như: Quan Công, tranh dân gian tết Trung Hoa, thần thoại Đài Loan), hoặc những nghiên cứu trực tiếp về Việt Nam (chẳng hạn: thần thoại về Nữ Oa ở Việt Nam, thơ Cao Bá Quát, thơ Hồ Xuân Hương).
3. Nhà văn bản học và nghiên cứu loại hình học
Trong đánh giá của học giới Trung Hoa, B. Riftin không giỏi tư biện và không có những đề xuất ý tưởng táo bạo; phương pháp mà ông sử dụng cũng được coi là cổ xưa, giản đơn; và ông là người có đầu óc thực tế, cụ thể… Nhận xét đó là có cơ sở. B. Riftin quả thực đã là một nhà điền dã thuần thục, coi văn bản là điểm xuất phát của nghiên cứu, và lập luận theo cách phân tích ngữ văn (tức là theo hướng nghiên cứu ngữ văn cổ điển). Nhìn từ không gian “thế giới phẳng” (flat world) hôm nay với ảnh hưởng áp đảo của Âu Mỹ, thì đó là một xu hướng đã cũ.Tuy nhiên, nếu chúng ta nhớ lại rằng đối tượng quan tâm chủ yếu của Riftin là folklore Trung Hoa, nơi mà “không một nước nào trên thế giới có thể có một khối lượng chứng tích bằng văn bản từ thời thượng cổ cho tới ngày nay lớn như vậy”, rằng B. Riftin được đào tạo và khởi nghiệp ở hai trung tâm nghiên cứu phương Đông hàng đầu của Nga (lúc đó là Liên Xô) là Đại học Leningrad tại St Petersburg và Viện hàn lâm khoa học Nga tại Moscow vào những năm 1950 thì sẽ thấy con đường đó là một thực tế, có tính lịch sử, và khả thủ. Tính khả thủ của phương pháp ngữ văn cho đến cuối những năm 1970 còn được học giả Mỹ Ed. W. Said đánh giá theo cách khẳng định rằng “trên thực tế, ngữ văn là ngành học thuật cơ bản và sáng tạo nhất trong các ngành học thuật giải thích”. Không chỉ thế, quan sát và luận giải văn bản trong sự dịch chuyển của nó dưới góc so sánh như cách Riftin đã làm, vô hình trung, lại gần với cách nhìn liên văn bản (intertextual approach) do học giới Tây Âu và Hoa Kỳ tạo ra và tỏ ra đầy tiềm năng sau này. Nghĩa là quan niệm lấy văn bản làm gốc, đồng thời nhìn nó như một hiện tượng không đơn lẻ, không cố định chính là một trong những nguyên tắc cố hữu của khoa học nhân văn (science of humanities). Riftin không phải là người tạo ra hướng đi này, cũng không tham gia luận bàn về nó từ góc độ lý thuyết hoặc phương pháp. Các nghiên cứu của Riftin cho thấy ông là người dùng nguyên tắc đó làm công cụ và đã sử dụng một cách thuần thục, hữu hiệu.
Bên cạnh đó, Riftin còn tập hợp và phân tích văn bản theo cái nhìn loại hình học. Nói cách khác, Riftin còn “kể chuyện” theo từng chủng loại: thần thoại, truyền thuyết (folklore), hay tiểu thuyết cổ điển, truyện truyền kỳ (văn học viết),… và nhìn ra sự dịch chuyển của motif giữa văn bản folklore và văn bản thành văn, phát hiện ra một số kiểu khắc họa chân dung nhân vật trong tiểu thuyết cổ điển Trung Quốc.
Sự xuất hiện của bản dịch Sử thi lịch sử và truyền thống văn học dân gian Trung Quốc tại Việt Nam năm 2004, cùng với việc dẫn nhập các khuynh hướng tiếp cận folklore của Âu Mỹ, đã cung cấp một điểm tựa vững chãi cho các nghiên cứu folklore và văn hoá văn chương trung đại ở Việt Nam và thúc đẩy các khu vực nghiên cứu này khởi sắc mạnh mẽ.
4. Câu chuyện Viễn Đông của B. Riftin trong mạng thông tin về nghiên cứu phương Đông ở Việt Nam
Ở vị trí “ngã ba” giao thông cả về địa lý và văn hoá, Việt Nam đã tiếp nhận những ảnh hưởng đa dạng, “Việt Nam chưa bao giờ sống trong một thế giới biệt lập, do những quan hệ với Trung Hoa và phần còn lại của bán đảo Đông Dương, cũng như giao thoa quy mô với phương Tây”. Trong hoàn cảnh địa-chính trị thế giới sau 1954, ảnh hưởng văn hoá Xô Viết là một trong hai luồng tác động mạnh mẽ đến Việt Nam. Trong nghiên cứu nhân văn (science of humanities) ở phía Bắc Việt Nam quãng những năm 1954-1986, từ tư tưởng đến phương pháp đều đi theo hoặc vận dụng một cách hăng hái đường hướng của Liên Xô. Tuy nhiên, riêng trong nghiên cứu phương Đông, khu vực mà Nga/Liên Xô có truyền thống và sở hữu một lực lượng nghiên cứu hùng hậu, chỉ có ba cái tên được biết đến ở Việt Nam: N. Konrad, I. S. Lisevich, và B. Riftin. Đặc biệt là, nghiên cứu của cả ba có nhiều điểm giống nhau và đó là truyền thống của nghiên cứu phương Đông ở Nga: dùng phương pháp ngữ văn cổ điển và đi ngược lại quan điểm “dĩ Âu vi trung” do học giới Tây Âu và Hoa Kỳ tạo ra.
Ngày nay, nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng phương Đông hầu như là phát minh của người châu Âu, trong đó giới nghiên cứu Âu Tây có một bộ phận mang cái nhìn thực dân về phương Đông, như Ed. W. Said đã thẳng thắn nhận xét: “Lịch sử … có thể bị phá đi và viết lại,… sao cho miền Đông (East) và phương Đông (Orient)… trở thành “của chúng ta”,… và chịu sự chỉ đạo của chúng ta”. Ở Việt Nam, cái nhìn này đã có mặt cùng với sự xuất hiện chủ nghĩa thực dân Pháp trong văn hoá đầu thế kỷ XX.Tình trạng này đã thay đổi kể từ năm 1945, đặc biệt là từ 1954 ở miền Bắc, với sự hiện diện của các nghiên cứu phương Đông từ Liên Xô, như đã nói ở trên.
Việc B. Riftin lựa chọn và coi điền dã là phương pháp bắt buộc khi tìm hiểu folklore cũng như thao tác văn bản học mà Riftin sử dụng (bao gồm cả sưu tập và phân tích) giống như cách mà Lisevich đã chủ trương “tốt nhất là xuất phát từ các phạm trù đã được hình thành và được sử dụng trong nhiều thế kỷ ở Trung Quốc”. Phương Đông, theo cách phân định của Riftin cũng trùng hợp với cách nhìn thế giới của Konrad. Lựa chọn này giúp ông tránh được định niệm “dĩ Âu vi trung” khi nghiên cứu Trung Quốc hay vùng Viễn Đông - tức phương Đông. Từ văn bản, các câu chuyện của Riftin - một “kẻ khác” (the Other) - kể về phương Đông đã tiệm cận cách người bản địa tự cất tiếng kể về mình.
Sự tiệm cận như vậy còn thể hiện qua cái nhìn loại hình học khi Riftin phân loại và diễn giải các hiện tượng, các văn bản. Nghiên cứu loại hình văn hoá (folklore, khu vực Viễn Đông, motif), loại hình thể loại (thần thoại, truyền thuyết, hay truyện truyền kỳ, tiểu thuyết cổ điển), loại hình chân dung nhân vật,… của Riftin, trên thực tế, đã tương thích với lịch sử phát triển của đối tượng và truyền thống quan niệm của chủ nhân của chúng.
Với tọa độ như vậy, nghiên cứu của Riftin mang ý nghĩa đối thoại hết sức tích cực với “Đông phương luận” (orientalism) của học thuật mang tính thực dân hoặc đế quốc ở phương Tây và Hoa Kỳ.
Lời kết
Như đã nói ở phần “đặt vấn đề”, bài viết này hình dung Riftin chỉ từ những nghiên cứu và thông tin về ông được dẫn nhập vào Việt Nam. Ở không gian này, độc giả và giới nghiên cứu nhân văn Việt Nam đã thấy:
- B. Riftin là người kể chuyện bằng văn bản chứ không tạo dựng những câu chuyện hư cấu (fiction). Chuyện kể của ông được xây dựng từ các chất liệu thuộc nguồn văn bản truyền khẩu (oral) và thành văn (written). Và ông chọn cách kiếm tìm chúng, kể lại, và xác lập những liên hệ hoặc tương tác giữa chúng.
- Khu vực ưa chuộng của người kể chuyện này (narrator) là Viễn Đông với hạt nhân là Trung Hoa, và chủ yếu khoanh lại ở thời kỳ tiền hiện đại.
- B. Riftin cũng là người thường xếp loại chuyện kể của mình theo loại hình và nghiên cứu chúng trong sự đối sánh và tương tác đa dạng.
Với học giới Việt Nam, Riftin là nhà nghiên cứu phương Đông hơn là nhà Trung Quốc học/Hán học.
- Hệ quả là, hình dung phương Đông của Riftin mang đầy đủ những đặc điểm của truyền thống Đông phương học Nga: 1/ phân tích từ ngữ văn – khác với lối tiếp cận xã hội học, chính trị, hay nhân học; 2/ quan sát và diễn giải phương Đông như nó hiện hữu, tức là những văn bản đó cần “được đọc đúng như chúng vốn được viết ra và cần phải sống trong địa hạt lịch sử theo tất cả những cách mà tôi gọi là thế tục” – phân biệt với sự áp đặt quyền lực diễn ngôn (power of discourse – khái niệm do M. Foucaul đặt ra) của học thuật thực dân, đế quốc lên các văn bản phương Đông.
- Cuối cùng, như bảng thống kê đã cho thấy, việc giới thiệu các nghiên cứu của Riftin cũng như thành quả nghiên cứu Đông Phương của Nga tại Việt Nam cho đến hiện tại còn thiếu nhiều mảnh ghép, thậm chí là thiếu những mảnh ghép quan trọng.
PHỤ LỤC
Thống kê việc giới thiệu B. Riftin ở Việt Nam
Số TT |
Tên bản dịch |
Dịch giả |
Ngôn ngữ nguồn |
Năm và nơi công bố |
Loại văn bản |
|
1 |
“Mấy vấn đề nghiên cứu những nền văn học trung cổ phương Đông theo phương pháp loại hình” |
Lê Sơn |
Nga |
1974. Tạp chí Văn học, số 2, tr.107-123 |
Tiểu luận |
|
2 |
Hoàng Lê nhất thống chí và truyền thống của tiểu thuyết Viễn Đông |
Chu Nga |
Nga |
1984. Tạp chí Văn học, số 2, tr.31-41 |
Tiểu luận |
|
3 |
Năm mươi năm nghiên cứu văn học Trung Quốc của tôi |
Phạm Tú Châu |
Trung |
- 2000. Nghiên cứu Trung Quốc, số 3, tr.33-38 - 2012. Nghiên cứu Văn học, số 11, tr.5-19 |
Tự thuật |
|
4 |
Sử thi lịch sử và truyền thống văn học dân gian Trung Quốc |
Phan Ngọc |
Nga |
2004. Nxb Thuận Hoá - Trung tâm Văn hoá ngôn ngữ Đông Tây |
Chuyên khảo |
|
5 |
Các bản dịch tiểu thuyết và truyện cổ Trung Hoa sang tiếng Mông Cổ - Khảo sát sơ bộ qua thư mục |
Trần Hải Yến |
Anh |
-2004. Nghiên cứu Văn học, số 2, tr.82-106 - 2005. Tiểu thuyết truyền thống Trung Quốc ở châu Á. Nxb Khoa học xã hội |
Tiểu luận |
Tham khảo bản tiếng Trung
|
6 |
Văn xuôi cổ điển Triều Tiên |
Trần Hải Yến |
Anh |
2005. Tiểu thuyết truyền thống Trung Quốc ở châu Á. Nxb Khoa học xã hội |
Tiểu luận |
Tham khảo bản tiếng Trung |
7 |
Thử so sánh ‘Tiễn đăng tân thoại’ của Cù Hựu (Trung Quốc) với ‘Kim Ngao tân thoại’ của Kim Thời Tập (Triều Tiên) và ‘Truyền kỳ mạn lục’ của Nguyễn Dữ (Việt Nam) và ‘Cà Tỳ Tử’ của Asai Rey (Nhật Bản) |
Phạm Tú Châu |
Trung |
2006. Nghiên cứu Văn học, số 12, tr.46-58 |
Tiểu luận |
Tham luận tại hội thảo quốc tế do Viện Văn học phối hợp với Viện Harvard- Yenhing (Hoa Kỳ) tổ chức |
8 |
Thể loại trong văn học Trung Quốc thời trung đại |
Trần Nho Thìn |
Nga |
2007. Nghiên cứu Văn học, số 11, tr.24-54 |
Tiểu luận |
|
9 |
Lời tựa cho bản dịch tiếng Việt |
Phạm Thị Hảo |
Nga |
2007. Lịch sử văn học thế giới. Tập 1. Nxb Văn học, tr.13-18 |
Mục viết |
|
10 |
Văn xuôi tự sự [Trung Quốc] |
Trịnh Bá Đĩnh |
Nga |
2012. Lịch sử văn học thế giới. Tập 2. Nxb Văn học, tr.187-195 |
Mục viết |
|
11 |
Văn xuôi tự sự [Trung Quốc] |
Trần Thị Phương Phương |
Nga |
2014. Lịch sử văn học thế giới. Tập 3. Nxb Văn học, tr.1084-1094 |
Mục viết |
|
12 |
Văn xuôi cổ điển Viễn Đông |
Trần Thị Phương Phương |
Nga |
2012. Nghiên cứu Văn học, số 11, tr.66-81 |
Tiểu luận |
Chuyên san về B. L. Riftin |
13 |
Một số vấn đề lý thuyết về thần thoại (từ trường hợp thần thoại của thổ dân Đài Loan và thần thoại cổ đại Trung Quốc lục địa) |
Bùi Thiên Thai |
Trung |
2012. Nghiên cứu Văn học, số 11, tr.20-40 |
|
Chuyên san về B. L. Riftin |
14 |
Tính chất ký hiệu của chân dung nhân vật bằng ngôn từ trong văn học cổ điển Trung Quốc
|
Trần Đình Sử |
Nga |
2012. Nghiên cứu Văn học, số 11, tr.41-65 |
Tiểu luận |
Chuyên san về B. L. Riftin |
15 |
Sự ra đời và phát triển của tiểu thuyết cổ điển Việt Nam |
Phạm Tú Châu |
Trung |
2012. Nghiên cứu Văn học, số 11, tr.82-99 |
|
Chuyên san về B. L. Riftin |
* Ngoài ra còn phải kể đến một số thông tin liên quan đến các hoạt động của ông tại Việt Nam và những bài giới thiệu các công trình cũng như sự nghiệp nghiên cứu của ông, chẳng hạn:
- “Nhà Đông phương học B. L. Riftin và văn học cổ Việt Nam” (Tạp chí Văn học, số 5, 1997)
- “Tiểu thuyết cổ điển Triều Tiên qua cách nhìn của B.L. Riftin” (Phạm Thị Tú - tức Phạm Tú Châu, Tạp chí Văn học, số 10, 1995)
- “Viện sĩ B. L. Riftin, người đi từ biển vào ngòi” (Phạm Tú Châu, Nghiên cứu Văn học, số 11, 2012)
- “Boris Riftin, nhà Trung Quốc học xuất sắc” (Bùi Thiên Thai, Nghiên cứu Văn học, số 11, 2012)
- “Trách nhiệm và đam mê” (phỏng vấn của Đào Tuấn Ảnh, Nghiên cứu Văn học, số 11, 2012)
- Mục tin tức của tạp chí Nghiên cứu văn học đưa tin “Viện sĩ B. L. Riftin thuyết trình tại Viện Văn học” số 12, năm 2006.
tin tức liên quan
Videos
Ông nghè Ngô Đức Kế và cô Kiều
Những kỷ vật của Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Bảo tàng Xô viết Nghệ Tĩnh
Huyện Quế Phong, tỉnh Nghệ An: Kỷ niệm 60 năm thành lập huyện và đón nhận bằng xếp hạng di tích lịch sử cấp Quốc gia đền Chín Gian
Quản trị quốc gia: Nên học Nhật Bản
Ngành Văn hóa và Thể thao Nghệ An: 03 tập thể và 02 cá nhân nhận giải thưởng sáng tác, quảng bá tác phẩm văn học nghệ thuật về chủ đề học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh
Thống kê truy cập
114576521

219

2306

21834

223578

130677

114576521