Góc nhìn văn hóa

Tìm hiểu tộc phả và sắc phong họ Hồ tại xã Sơn Bằng, huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh

Người xưa gọi quốc gia là trăm họ, quốc gia cần bộ sử tốt để cố kết lòng người; các họ cũng cần có tộc phả lưu lại cho con cháu. Tộc phả họ Hồ xưa soạn bằng chữ Nho, nay chúng tôi xin giới thiệu tiểu sử vị tổ đầu tiên, cùng sắc phong, và bài thơ cầu tổ do người cháu đời thứ 9 là ông Hồ Mậu Hòe soạn:

Họ Hồ tại xã Sơn Bằng, tức xã Hữu Bằng xưa; thuộc dòng dõi Hồ tộc tại huyện Quỳnh Lưu. Có thể nói tất cả họ Hồ trong nước đều gốc tại Quỳnh Lưu, nên sử chép “Đại Nam nhất Hồ”, nghĩa là cả nước Việt Nam chỉ có một họ Hồ mà thôi. Thủy tổ họ Hồ là cụ Hồ Hưng Dật, gốc tại tỉnh Chiết Giang, Trung Quốc, sang làm quan tại Giao Châu dưới thời Ngũ Đại; sau khi Khúc Tiên chúa Thừa Dụ dành được nền độc lập, cụ bèn tình nguyện lưu lại, góp công xây dựng nước Việt. 

Vị tổ chi họ Hồ tại xã Sơn Bằng tên là Hồ Đắc Thọ, gốc tại xã Hoàng Mai, huyện Quỳnh Lưu; là một võ quan dưới thời Lê mạt. Ngài phò Hoàng thân Lê Duy Mật, chống lại họ Trịnh chuyên quyền, với hoài bão dành lại quyền cho nhà Lê. Sau khi nghĩa quân Lê Duy Mật mưu đánh chiếm kinh thành bị thất bại, bèn rút quân về Thanh Hóa, Nghệ An rồi sang Ai Lao; cuối cùng bị tấn công tại cao nguyên Trấn Ninh. Khi Hoàng thân Lê Duy Mật mất, cuộc khởi nghĩa tan, cụ Lê Đắc Thọ ngầm trở về nước, mai danh ẩn tích, khai khẩn đất hoang, lập nên thôn Đông xã Hữu Bằng. Hiện nay tộc phả họ còn lưu lại “Tỵ tổ thần tích”, bản dịch và nguyên văn chữ Nho như sau:

Thần tích về tỵ tổ.

Cụ người thôn Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu tỉnh Nghệ An; thuộc dòng dõi quan Thái thú phủ Diễn Châu Hồ Hưng Dật thời Ngũ Đại, gốc phương Bắc, tỉnh Chiết Giang, và Trạng nguyên đời Trần Hô Tông Thốc.

Hấp thụ khí thiêng của vùng quê hương núi Tùng sông Mai (1)hun đúc, võ nghệ côn đao xuất chúng, thao lược hơn người. Với tư cách con nhà quan, cụ được tập ấm bổ ra làm quan dưới triều Lê, giữ chức Khâm sai cai đội đô chỉ huy sứ và được thụ phong Mậu xuân bá.

Lúc bấy giờ họ Trịnh chuyên quyền, cụ bèn đem Hoàng thân Lê Duy Mật tiến chiếm trấn Sơn Nam rồi đóng đồn tại phủ Trấn Ninh, để lo việc đánh dẹp Trịnh. Đến lúc Hoàng thân Lê Duy Mật mất, thế lực không thể chống nỗi, cụ bèn mang một khẩu súng điểu thương, cùng đồ đệ hơn 10 người, trốn về phủ Tương Dương Nghệ An, qua xã Nam Hoa huyện Nam Đàn, rồi bí mật từ Rú Chuối (2)đếnngụ cư phía nam xứ Đông Sơn, xã Hữu Bằng, lập trại sống tại đây. Sau đó xây dựng nhà cửa, lập gia đình, sinh dược 4 con trai, nay thành 4 chi họ. Hưởng thọ 87 tuổi, mất vào ngày 20 tháng 10 năm Quí Sửu đời Chiêu Thống thứ 7 [1793]; cụ chính là tỵ tổ họ Hồ chúng ta vậy.”

Phiên âm

Thủy tổ thần tích.

Công hệ Quỳnh Lưu huyện, Quỳnh Đôi thôn nhân. Ngũ Quí thời Diễn Châu Thái thú Hồ Hưng Dật, bắc quốc Chiết Giang nhân; Trần triều Trạng nguyên Hồ Tôn Thốc chi miêu duệ dã. Bẩm Tùng Lĩnh Mai Giang chi tú khí, côn đao xuất chúng, thao lược siêu quần; dĩ tiền quan viên tử xuất sĩ Lê triều, chức chưởng Khâm sai cai đội Đô chỉ huy sứ, thụ phong Mậu xuân bá. Thời nhân Trịnh thị chuyên quyền, Công hiệp Hoàng thân Lê Duy Mật, tiến cứ Sơn Nam, đồn thủ

Trấn Ninh, dĩ đồ diệt Trịnh. Cập Mật thốt, thế lực nan chi, Công nãi trì nhất điểu thương, huề tương tử đệ thập dư nhân, độn hồi Tương Dương địa, Nam Hoa xứ, tiềm Tiêu Sơn nhi lai, cứ vu Hữu Bằng xã, Đông Sơn xứ chi nam, thiết trại cư chi, thành lập cơ chỉ. Sinh tứ nam, kim thành tứ chi, thọ hưởng bát thập thất tuế, thốt ư Quí Sửu Chiêu Thống nhất niên [1793] thất nguyệt nhị thập nhật; thị ngã tộc chi tỵ tổ dã.

(始祖神跡。公系瓊流縣,瓊堆村人。五季時演州太守胡興逸北國浙江人,陳朝狀元胡宗簇之苗裔也。稟松嶺梅江之秀氣,棍刀出眾,韜略超群,以前官員子出士黎朝,職掌欽差該隊都指揮使受封茂春霸. 時因鄭氏專權, 公挾皇親黎維蜜進踞山男屯宇鎮寧以圖滅鄭. 及卒,勢力難之,

公乃持ㄧ鳥槍攜子弟,十餘人盾回相陽地,經過南彈縣,南花處,潛由蕉山而來,既居宇友朋社,東山處之南,設寨居之,成立基址.

生四男,今成四枝,壽享八十七歲,卒於季丑招統一年[1793],十月二十日,是我族之鼻祖也)

Sau đây là bản dịch đạo sắc phong do Hoàng đế Bảo Đại ban cho cụ Hồ Đắc Thọ:

Sắc phong Thần tổ nhất đạo.

Sắc cho thôn Đông xã Hữu Bằng, tổng Hữu Bằng, huyện Hương Sơn tỉnh Hà Tĩnh thờ phụng:

Khâm sai cai đội lãnh chức Đô chỉ huy sứ thăng thụ Mậu xuân bá, ngài họ Hồ tước Linh công là vị Thần đã nhiều phen linh ứng.

Nay ta chịu mệnh lớn của trời, nghĩ đến công đức  của Thần; bèn phong chức Dực bảo trung hưng linh phù tôn thần. Chuẩn cho địa phương cúng tế, ngõ hầu Thần tận tình giúp đỡ bảo hộ con dân của ta. Khâm tai!

Bảo Đại ngày 19 tháng 8 năm thứ 16.”

Phiên âm:

Thần tổ sắc văn nhất đạo.

Sắc Hà Tĩnh tỉnh, Hương Sơn huyện, Hữu Bằng tổng, Hữu Bằng xã, Đông thôn phụng sự:

Khâm sai cai đội kỳ thụ Đô chỉ huy sứ, thăng thụ Mậu xuân bá, Hồ quí tước Linh công nhẫm trước hiển ứng chi thần.

Tứ kim phi thừa cảnh mệnh, miễn niệm thần hưu, trước phong vi Dực bảo trung hưng linh phù tôn thần, chuẩn kỳ phụng sự, thứ cơ tận kỳ tương hữu, bảo ngã lê dân. Khâm tai!

Bảo Đại thập lục niên bát nguyệt thập cửu nhật.

(敕河靜省,香山縣,友朋總,友朋社, 東村,奉事欽差該隊期授都指揮使,升茂春伯,胡貴爵靈公,任著現應之神.斯今丕乘耿命,勉念神休,著封為翼保中興靈扶尊神,庶幾盡其相佑,保我黎民.)

Ông Hồ Mậu Hòe cháu đời thứ 9 soạn bài thơ Cầu tổ họ Hồ như sau:

Lưỡng thế khoa danh tiêu  nhạn tháp.

Nhất gia thịnh sự dật long môn. (3)

Chập chùng Mai thủy, Tùng sơn.

Chung khí ấy đúc nên bậc hào kiệt.

Thần tổ (4) ta vốn dòng Lạc Việt.

Thuở tam hoàng (5) quả quyết anh minh.

Vì dân vì nước quên mình.

Quỳnh Đôi [làng Quỳnh Đôi] phú hậu bẩm sinh khác người.

Tuổi miệng sữa [tuổi còn bú sửa] làu làu kinh sử.

Chí những toan nếm thử khoa danh.

Nhưng nhìn thảm họa chiến tranh.

Phản Lê; Trịnh, Nguyễn mưu dành tam phân.

Nuôi hoài bảo kinh bang tế thế.

Tài lược thao văn vũ  song toàn.

Nhìn ra bắc ngoảnh vào nam.

Đôi bờ cốt nhục tương tàn lẫn nhau.

Nỗi thống khổ kể sao cho xiết.

Dòng sông Gianh [Quảng Bình] thịt đổ máu rơi.

Hôm qua đông đúc vui cười.

Hôm nay nhắm mắt không người nhặt xương.

Vận Lê mạt tang thương biến đổi.

Mối lộng quyền ung thối hoàng cung.

Vua tôi đến lúc vận cùng.

Can qua trận mạc, trung trinh một lòng.

Tiếc một nỗi vận trời Lê mạt.

Bọn phản thần buôn chúa bán cha.

Một cơn máu lửa chan hòa.

Nước non tan tác cửa nhà điêu linh.

Thôi đành phận lênh đênh xuất xử (6)

Gót lãng du Sào Phủ, Hứa Do (7).

Sớm bầu rượu tối cuộc cờ.

Trăng thanh gió mát túi thơ đệm vần.

Miền Hương Phố(8) tình xuân man mác.

Đất Hữu Bằng (9) cửi hạc non tiên.

Anh hùng kỳ ngộ thuyền quyên.

Trăm năm hương lửa lưu truyền ngàn sau.

Được phúc lộc bể dâu hun đúc.

Bốn hiền nhân giúp sức bên cha.

Mở mang khai hóa quê nhà.

Bến Nầm sông Phố đơm hoa bốn mùa.

Lấy đạo nghĩa thiện tâm làm gốc.

Lấy tu tề lập đức nuôi con.

Trải bao nước chảy đá mòn.

Vườn cây quả phúc đã trồng tốt tươi.

Đàn con cháu đời đời nối tiếp.

Chí ông cha nhiệt huyết tràn đầy.

Bao phen vận nước đổi thay.

Anh hùng liệt nữ đức tài rền vang.

Trai lẫm liệt hiên ngang khí phách.

Gái dịu dàng kim chỉ nết na.

Chắt chiu dâu rễ hài hòa.

Trong làng ngoài nước người ta nể vì.

Kẻ khoa bảng Cử nhân, Tiến sĩ.

Người ruộng vườn nối chí tiền nhân,

Trải bao cuôc thế thăng trầm.

Trai hùng gái đảm thành nhân với đời.

Ơn thần tổ mạch bồi uy viễn.

Phận cháu con phúc thọ niên trường.

Khấu đầu dâng nén tâm hương.

Cầu xin thần tổ đăng đường hiển linh.

Chúng con vốn người trần mắt thịt.

Chữ họa phúc hơn thiệt khó tìm.

Đắm mình trong cõi u minh.

Nguyện cầu thần tổ linh linh giáng trần.

Đời giả hợp phù vân nước chảy.

Cõi thần tiên diệu biến thiên cơ.

Đường trần lắm nỗi vò tơ.

Nguyện cầu giải thoát qua bờ bến mê.

 

Chú thích:

1.Tùng, Mai: Núi Tùng và sông Hoàng Mai thuộc huyện Quỳnh Lưu, Nghệ An.

2. Rú Chuối: Tức Tiêu Sơn, tại tả ngạn sông Phố huyện Hương Sơn, Hà Tĩnh.

3. Lấy từ câu thơ của Thượng tướng Trần Quang Khải đời Trần mừng cụ Trần Tông Thốc:

Lưỡng thế khoa danh tiêu  nhạn tháp.

Nhất gia thịnh sự dật long môn.

(Hai đời nhạn tháp nêu danh giá,

Một họ sân rồng lắm vẻ vang)

Do con cụ Hồ Tông Thốc là Hồ Đốn, cháu là Hồ Thành đều đậu Thủ Khoa nên được mừng với 2 chữ “nhạn tháp”, chỉ con cháu đều đứng đầu bảng.

4. Chỉ cụ tổ tại Sơn Bằng, Hương Sơn.

5. Thuở tam hoàng: thời tổ Hồ phò Hoàng thân Lê Duy Mật, đất nước chia làm 3 phe: Trịnh, Nguyễn, và Lê Duy Mật.

6. Xuất xử: xuất là xuất chính tức ra làm quan; xử tức xử sĩ, làm kẻ sĩ ở ẩn.

7. Sào Phủ, Hứa Do: Theo truyền thuyết, hai nhân vật này sống đời vua Nghiêu; Hứa Do được tiếng là người hiền, vua Nghiêu vời vào để truyền ngôi.

Hứa Do từ chối, cười mà về rồi ra suối rửa tai. Khi đó, Sào Phủ mới dắt trâu tới suối uống nước, thấy Hứa Do rửa tai, bèn hỏi tại sao. Hứa Do trả lời:

"Tôi rửa tai vì nghe ông Nghiêu biểu tôi làm vua."

Sào Phủ bèn dắt trâu bỏ lên trên dòng nước cho uống. Hứa Do hỏi tại sao, Sào Phủ đáp:

 "Anh rửa tai anh xuống đó tôi sợ trâu tôi uống nhằm."

Sào Phủ lại nói:

"Anh đi đâu cũng muốn cho người ta biết, vua muốn nhường ngôi vua cho anh, ấy là tại bụng anh vẫn còn danh lợi."

8. Hương Phố: cụ tổ lập nghiệp tại huyện Hương Sơn, Hà Tĩnh, bên dòng sông Phố.

9. Đất Hữu Bằng, nay thuộc xã Sơn Bằng, huyện Hương Sơn.

 

 

Hồ Bạch Thảo, cháu đời thứ 10, sao lục và chú thích.

 

tin tức liên quan

Thống kê truy cập

114576521

Hôm nay

219

Hôm qua

2306

Tuần này

21834

Tháng này

223578

Tháng qua

130677

Tất cả

114576521