Góc nhìn văn hóa

Du hành và Giao thông: Về địa-tiểu sử của Cộng đồng tưởng tượng*

Đã gần một phần tư thế kỷ trôi qua kể từ khi ấn hành bản đầu Cộng đồng tưởng tượng, giờ đây chúng ta có thể phác thảo lịch sử du hành của nó dưới ánh sáng một số chủ đề trọng tâm của cuốn sách: chủ nghĩa tư bản in ấn, nhân bản lậu hiểu theo nghĩa ẩn dụ tích cực, phong trào phương ngữ hóa, sự gắn kết chặt chẽ giữa chủ nghĩa dân tộc và chủ nghĩa quốc tế.

Những nghiên cứu về sự phổ biến thư tịch xuyên quốc gia nhìn chung vẫn còn rất ít, ngoại trừ lĩnh vực lịch sử văn chương nơi Franco Moretti từng thực hiện một công trình mẫu mực xuất sắc.1Liên quan đến Cộng đồng tưởng tượng, ở đây tôi đã có trong tay một số tư liệu phục vụ cho các suy tư so sánh sơ bộ. Đến cuối năm 2007 cuốn sách sẽ được xuất bản tại 33 quốc gia, bằng 29 thứ tiếng.2Sự lan tỏa này chủ yếu không phải do chất lượng cuốn sách mà do nó vốn được xuất bản ở London bằng tiếng Anh -một ngôn ngữ ngày nay có vai trò bá chủ toàn cầu tương tự tiếng Latin của kỷ nguyên hậu tăng lữ. (Nếu Cộng đồng tưởng tượng được xuất bản ở Tirana bằng tiếng Albania hoặc ở Thành phố Hồ Chí Minh bằng tiếng Việt, hoặc thậm chí ở Malbourne bằng tiếng Úc, thì chắc hẳn nó không thể du hành quá xa). Mặt khác sự phổ biến các bản dịch của cuốn sách cũng chứng tỏ rằng sức mạnh của quá trình phương ngữ hóa -nhân tố kết hợp cùng chủ nghĩa tư bản in ấn rốt cuộc đã triệt tiêu tính bá quyền của tiếng Latin nhà thờ và thúc đẩy sự ra đời của chủ nghĩa dân tộc – vẫn còn mạnh mẽ sau năm trăm năm.

Trước hết tôi muốn tường thuật những gì mà tôi có thể phát hiện, nhờ sự giúp đỡ rộng lượng của nhiều đồng nghiệp, thân hữu và bạn bè, về những bản dịch này: những nhà xuất bản nào liên quan, động cơ và chiến lược của chúng là gì và đâu là bối cảnh chính trị, trong nước cũng như quốc tế, cho việc ấn hành các bản dịch. Cuối cùng tôi sẽ cố gắng đưa ra một vài kết luận tạm thời.

Nhưng trước tiên cần phải nói về các ý đồ ban đầu, tất nhiên có tính tranh luận của tôi, bởi những ý đồ này đã tác động, thường là theo những đường hướng không lường trước được, tới sự tiếp nhận cuốn sách và các bản dịch của nó. Trước hết, trong những năm 1960 và 1970, Vương quốc Anh -vì một số lý do quá phức tạp nếu nêu ra ở đây -là nước duy nhất trên thế giới cho ra đời những công trình xuất sắc nghiên cứu một cách tổng thể bản chất và nguồn gốc của chủ nghĩa dân tộc, được tiến hành theo những đường hướng khác nhau bởi bốn trí thức Do Thái có ảnh hưởng -sử gia bảo thủ Elie Kedourie,3triết gia, nhà xã hội học Khai sáng theo chủ nghĩa tự do Ernest Gellner, sử gia theo Marxist lúc đó Eric Hobsbawm và sử gia truyền thống chủ nghĩa Anthony Smith.4Thế nhưng không có một tranh luận thực sự công khai nào cho đến năm 1977, thời điểm Tom Nairn, nhà Marxist, nhà dân tộc chủ nghĩa Scotland, xuất bản công trình giải thiêng của ông Sự tan rã của Vương quốc Anh.5Nhà dân tộc chủ nghĩa Scotland này đã coi Vương quốc Anh -đối tượng nghiên cứu mà Gellner, Hobsbawm và Smith gắn bó chặt chẽ -là một di sản đổ nát của kỷ nguyên tiền dân tộc và tiền cộng hòa và do đó phải chịu chung số phận diệt vong với đế chế Áo - Hung. Nhà Marxist xét lại này đã chĩa súng vào những gì mà ông coi là nông cạn hoặc lảng tránh của chủ nghĩa Marx cổ điển trong việc lý giải tầm quan trọng về mặt lịch sử - chính trị của chủ nghĩa dân tộc xét theo nghĩa rộng nhất. Trong cuộc tranh luận sau đó, tôi đã dành nhiều đồng cảm cho Nairn.

Bởi vậy một mục đích tranh luận quan trọng đằng sau Cộng đồng tưởng tượng là ủng hộ (tất nhiên có “phê phán”) lập trường của Nairn ở cả hai điểm trên. Có thể thấy được dấu vết ủng hộ rõ ràng đó nếu nhìn vào số trang tương đối thiếu cân xứng mà tôi dành cho Vương quốc Anh, Đế chế Anh, thậm chí Scotland (có lẽ bởi tôi đã sống và làm việc tại Mỹ từ năm 1958): rất nhiều trích dẫn (quotation) và ám chỉ (allusion) của văn học “Anh” có thể khó hiểu đối với nhiều độc giả không được học tập tại Anh quốc; những khiêu khích địa phương dựa trên một tinh thần cộng hòa (tất cả nhà cai trị của Vương quốc Anh đều bị tôigọi tên như thể họ là những người hàng xóm lân cận [Anne Stuart], trong khi những nhà cai trị ngoại quốc lại được để tước hiệu theo cách truyền thống [Louis XIV]; và một số đề cập liên quan đến Eric Hobsbawm -đối thủ tranh luận của Nairn -điều mà tôi lấy làm tiếc vì đã gây phật lòng ông.

Mục đích tranh luận thứ hai là mở rộng phạm vi những phê bình lý thuyết của Nairn, bởi lẽ Nairn gần như chỉ tập trung vào chủ nghĩa Marx cổ điển. Theo tôi “thất bại” trong việc nắm bắt một cách sâu sắc chủ nghĩa dân tộc không chỉ là đặc trưng của chủ nghĩa Marx. Sự phê phán tương tự cũng có thể và nên chĩa vào chủ nghĩa tự do cổ điển, và ở ngoại vi, vào chủ nghĩa bảo thủ cổ điển. (Điều này giải thích tại sao Cộng đồng tưởng tượng lại chế nhạo sự đáng ngờ của Mộ những nhà Marxist vô danh và đài tưởng niệm những Nhà tự do chủ nghĩa đã ngã xuống). Chắc chắn phải có một nguyên nhân chung nào đó dẫn tới thiếu sót phổ biến này, nhưng để tìm ra nó thì chủ nghĩa Marx (với một khác biệt) có vẻ khả dĩ hơn chủ nghĩa Tự do. Tuy nhiên đặt vấn đề theo cách này, Cộng đồng tưởng tượng có thể gây chú ý cho các nhà Marxist cũng như các nhà Tự do chủ nghĩa có đầu óc phê phán, bởi nó chỉ cho cả hai thấy được tính cần thiết của rất nhiều suy tư và nghiên cứu thực sự mới. Bởi vậy tôi không hề thấy thất vọng khi một nhà phê bình sách đại khái có thiện chí vẫn bình luận có phần phẫn nộ rằng cuốn sách quá Marxist đối với một nhà tự do chủ nghĩa và quá tự do đối với một nhà Marxist.

 Mục đích tranh luận thứ ba là giải châu Âu (de-Europeanize) những nghiên cứu lý thuyết về chủ nghĩa dân tộc. Thôi thúc này không liên quan tới Nairn mà xuất phát từ sự thâm nhập lâu dài của tôi vào các xã hội, các nền văn hóa và ngôn ngữ của Indonesia và Thái Lan/Xiêm vẫn còn rất xa lạ với phương Tây lúc đó. Bất chấp phạm vi lan tỏa đáng ngạc nhiên của những công trình đa ngữ của Gellner, Hobsbawm và Smith, chúng dường như vẫn dĩ Âu vi trung không thể tránh khỏi nếu ta nhìn từ Jakarta và Bangkok. Gellner trên thực tế đã từng tiến hành nghiên cứu ở Maghreb,6nhưng Edward Said có lẽ đúng khi công kích ông không hiểu tiếng Ả rập -dù sự gay gắt về đại thể trong cuộc tranh luận giữa họ không hề nhã nhặn chút nào.7Vấn đề là làm thế nào tránh được những huyễn tưởng lãng mạn (bắt nguồn từ châu Âu thế kỷ XIX) về hàng ngàn năm dân tộc Trung Hoa, Nhật Bản, Việt Nam v.v…, đồng thời vượt qua được sự phê phán đầy phẫn nộ sau đó của Partha Chatterjee -ông cho rằng toàn bộ chủ nghĩa dân tộc chống thực dân ngoài châu Âu đều là các “diễn ngôn phái sinh” (derivative discourse).8Trước tình thế khó xử này, nhiều nhà nước dân tộc được tạo ra ở Nam Mỹ và Trung Mỹ giai đoạn 1810-1838 đã cứu tôi (dù năm 1983 tôi không đọc được tiếng Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha). Sự đa dạng của những nhà nước này có vai trò quan trọng không kém sự xuất hiện ngay từ sớm và có ý nghĩa lịch sử thế giới của chúng. Những cuộc “cách mạng” ở Mỹ và Haiti diễn ra trước các phong trào dân tộc ở châu Mỹ Tây Ban Nha, còn nước Brazil dân tộc thì phải rất muộn về sau mới ra đời, nhưng mỗi trường hợp đều có đặc thù rõ rệt có thể giúp chúng ta đưa ra những lý giải riêng. (Cách đây ít ngày, tờ báo địa phương mà tôi đặt mua ở Bangkok đã mỉa mai Mỹ là Mảnh đất Tự do [coi mình là trung tâm]). Nhưng rõ ràng châu Mỹ Tây Ban Nha là khu vực của những thuộc địa tương đồng, có thể đối sánh nhau, và điều quan trọng là mặc dù có chung ngôn ngữ và tôn giáo với Tây Ban Nha đế chế, chúng đã đấu tranh qua nhiều năm đổ máu để giành độc lập cho nhiều nước cộng hòa -từ lâu trước khi người Magyar, người Czech, người Na Uy, người Scotland và người Ý đứng lên giành độc lập.

Châu Mỹ Tây Ban Nha cung cấp những luận cứ hoàn hảo chống lại chủ nghĩa châu Âu trung tâm và quan niệm cho rằng việc so sánh giữa các dân tộc là bất khả. Nó cho phép tôi coi Hoa Kỳ giai đoạn đầu, trong bối cảnh xuyên châu Mỹ, chỉ là một nhà nước cách mạng khác do di dân châu Âu đứng đầu, hơn nữa trong một số khía cạnh còn phản động hơn những nhà nước chị em của nó ở phía Nam. (Khác với Washington, nhà Giải phóng Bolívar đã dần dần xóa bỏ chế độ nô lệ, và khác với Jefferson, San Martin không nói các cư dân bản địa của đất nước ông là những kẻ man rợ mà đề nghị họ trở thành người Peru). Tôi có cảm tưởng rằng nỗ lực giải châu Âu này trên thực tế không để lại nhiều ấn tượng ở châu Âu, nhưng có thể khiến cho Cộng đồng tưởng tượng trở nên hấp dẫn hơn đối với bạn đọc ở các nước Thế giới thứ ba.

Mục đích tranh luận cuối cùng của tôi là Mỹ. Đây không đơn thuần chỉ là chuyện phản đối những can thiệp đẫm máu của đế quốc Mỹ ở Mỹ Latin, châu Á và châu Phi. Về cơ bản đây cũng không phải là một phản ứng trước thực tế khó hiểu rằng trước khiCộng đồng tưởng tượng được xuất bản, hầu như không có một khóa học nào dạy về chủ nghĩa dân tộc ở các trường đại học Mỹ -chưa nói đến chủ nghĩa dân tộc Mỹ vốn được coi là một biến tướng của thuyết “Vận mệnh hiển nhiên”9cuối thế kỷ XIX. Mục đích của tôi là chống lại thuyết duy ngã khác thường của người Mỹ -ngày nay vẫn có thể thấy rất rõ ngay cả trong tờ báo có tư tưởng tự do New York Times -và chống lại thiên kiến “nước lớn” vẫn thể hiện một cách rõ ràng đối với độc giả của New York Review of Books. (Sau này tôi cũng nhận thấy một thứ chủ nghĩa địa phương tương tự ở các “nước lớn” khác -Ấn Độ, Trung Quốc, Nga, Indonesia và Brazil). Tôi vẫn nhớ câu châm ngôn mỉa mai của Karl Deutch10“Đã quyền lực thì không phải lắng nghe”. Điều này giải thích tại sao chiến lược tranh luận của tôi trong Cộng đồng tưởng tượng là nêu bật vị thế của những “nước nhỏ” -Hungary, Thái Lan, Thụy Sĩ, Việt Nam, Scotland và Philippines.

Vì những lý do đã nêu ra trên đây cũng như một số lý do khác, bản đầu -được xuất bản đồng thời ở London và New York -đã được đón nhận hoàn toàn khác nhau tại Anh và Mỹ. Vào thời điểm xa xôi đó, Vương quốc Anh vẫn có một “giới báo chí chất lượng” (quality press)11và Cộng đồng tưởng tượng gần như ngay lập tức được Edmund Leach, Conor Cruise O’Brien, Neal Ascherson và nhà Marxist người Jamaica Winston James viết bài điểm sách.12Ở Mỹ, nơi chưa từng có một “giới báo chí chất lượng”, cuốn sách ít khi được để mắt tới. Các tạp chí học thuật cũng không khác là bao. Phải tới đầu những năm 1990, sau sự sụp đổ của Liên Xô, sự giải thể mạnh mẽ của Nam Tư và sự trỗi dậy nhanh chóng của chính trị bản sắc ở Mỹ thì tình hình này mới thay đổi.

Bản dịch đầu tiên của Cộng đồng tưởng tượng xuất hiện ở Tokyo năm 1987 với tiêu đề tiếng Nhật Sozo no kyodotai. Đây là công trình của hai cựu sinh viên tài năng của tôi, Shiraishi Takashi và Shiraishi Saya. Họ tin cuốn sách có thể góp phần vào cuộc đấu tranh lâu dài trong lĩnh vực giáo dục nhằm chống lại sự thiển cận của người Nhật và chống lại tín điều bảo thủ cho rằng sự độc đáo của lịch sử và văn hóa Nhật Bản đã khiến việc so sánh với các quốc gia khác là không thể hoặc không liên quan. Bản thân bản dịch cũng rất sáng tạo, bởi các dịch giả bám vào chủ đích tranh luận hơn là trung thành với nghĩa mặt chữ của ấn bản London. Nhiều tham chiếu (reference) hoặc trích dẫn (quotation) văn học Anh của bản gốc được thay thế khéo léo bằng các “đối tác” Nhật Bản. Chẳng hạn, trích đoạn dài của Urne-Buriall đã nhường chỗ cho một đoạn văn lấy từ Truyện Heike. Về nhà xuất bản ở Tokyo, Libroport – một nhà xuất bản có xu hướng cánh tả ôn hòa  -Takashigần đây có cho tôi biết: “Giám đốc nhà xuất bản, Tsutsumi, là con một nhà tài phiệt. Ông đã chống lại cha mình và chọn nghiệp viết văn làm thơ. Nhưng rốt cuộc sau khi cha mất ông lại kế thừa một phần sự nghiệp của cha. Vì vậy ông đã nói với các biên tập viên hãy xuất bản những cuốn sách tốt mà không cần phải lo lắng về lợi nhuận… Điều này giải thích tại sao nhà xuất bản này lại phá sản trong những năm 1990”. Song Libroport vẫn tồn tại đủ lâu để chứng kiến Cộng đồng tưởng tượng trở thành một cuốn giáo khoa chuẩn mực dành cho các khóa học nâng cao về chủ nghĩa dân tộc ở hầu khắp các trường đại học hàng đầu Nhật Bản.

Trong bốn năm trước khi Verso tái bản bổ sung Cộng đồng tưởng tượng, đã xuất hiện thêm các bản dịch bằng tiếng Đức, tiếng Bồ Đào Nha và tiếng Serbo-Croat. Bản dịch tiếng Đức xuất sắc (Die Erfindung der Nation) được xuất bản năm 1988 tại Frankfurt, với một bìa sách đáng chú ý mô tả tượng đài Hermann khổng lồ và tầm thường ở Rừng Đen, một công trình được xây dựng vào thế kỷ XIX nhằm tôn vinh Arminius, thủ lĩnh quân đội “Giéc-manh” từng gây khốn đốn cho các hoàng đế La Mã Augustus và Tiberus. Thành lập năm 1975, nhà xuất bản độc lập Campus Verlag nhanh chóng khuếch trương danh tiếng nhờ in những cuốn sách nghiêm túc về lịch sử và chính trị. Có lẽ một nguyên nhân khiến bản dịch Đức ngữ xuất hiện sớm như vậy là do tờ Frankfurter Zeitung “uy tín” thường xuyên theo dõi những bài điểm sách trên các “tờ báo chất lượng” của Vương quốc Anh.13Bản dịch tiếng Bồ Đào Nha (Nação y consciência nacional) được Ática xuất bản năm 1989 tại SãoPaulo (không phải tại Lisbon). Nhà xuất bản này có một lịch sử đặc biệt thú vị. Theo thông tin từ website hiện nay của Ática, sự ra đời của nhà xuất bản này manh nha vào năm 1956 -thời điểm Curso de Madureza (Khóa học giáo dục tuổi thành niên) có tên Santa Inês được thành lập theo sáng kiến của một nhóm trí thức và học giả cấp tiến, bao gồm Anderson Fernandes Dias, Vasco Fernandes Dias Filho và Antonio Narvaes Filho. Đây là thời kỳ của chủ nghĩa lạc quan và tinh thần sáng tạo dồi dào trong đời sống chính trị và văn hóa Brazil -kỷ nguyên của bossa nova, Cinema Novo và Bienniale đầu tiên ở Brasilia.14Năm 1962 sự gia tăng ồ ạt số lượng người đăng kí vào Khóa học và ảnh hưởng tri thức rộng rãi của đội ngũ giáo sư giảng dạy đã dẫn đến sự thành lập Nhà xuất bản Santa Inês. Hai năm sau, không lâu trước khi nổ ra đảo chính quân sự lật đổ Tổng thống Goulart, theo sáng kiến của Anderson Fernandes Dias, Santa Inês được tổ chức lại thành một nhà xuất bản được điều hành chuyên nghiệp và có tinh thần phê phán lấy tên theo Attica, cái nôi của nền văn minh Hy Lạp cổ đại. Năm 1965, Ática xuất bản những cuốn sách đầu tiên và tìm cách tồn tại dưới chính thể độc tài quân sự hà khắc kéo dài hai thập niên. Năm 1999 nó bị hai tập đoàn thân cận là Editora Abril của Brazil và Vivendi của Pháp chung tay bán đi; năm 2004, sau một cuộc đấu tranh lâu dài, Abril -vốn là nhà nhập khẩu truyện tranh Disney, nay là nhà xuất bản của Time Playboy phiên bản Brazil -trở thành cổ đông chính. Nhưng Ática dường như vẫn nắm quyền tự chủ nhất định.

Mùa hè năm 1989, nhận lời mời của Ivo Banac (Đại học Yale), tôi đảm nhiệm vai trò người bình luận “so sánh” cho một hội thảo được tổ chức tại Dubrovnik lấy chủ đề chủ nghĩa dân tộc ở Balkan và Đông Âu. Tại đây tôi đã gặp và thảo luận sôi nổi với Silva Meznaric, dịch giả chịu trách nhiệm chính cho bản dịch tiếng Serbo-Croat năm 1990 (Nacija: Zamišljena zajednica) và cũng là người viết một lời giới thiệu đặc biệt cho bản dịch đó. Bà được đào tạo tại Khoa luật của Đại học Zagreb và Đại học Chicago; năm 1984 bà nhận học vị tiến sĩ xã hội học tại Đại học Ljubljana; cùng năm trở thành thành viên của Trung tâm Woodrow Wilson (Woodrow Wilson Centre), nơi bà tiếp xúc với Cộng đồng tưởng tượng lần đầu. Khi viết thư cho tôi gần đây, bà cho biết lúc đó bà tin rằng việc dịch cuốn sách sẽ có ích cho cuộc đấu tranh chống lại chủ nghĩa sô vanh hiếu chiến và thói cường điệu đang ngày một dâng cao của người Croatia và Serbia -từ đó góp phần duy trì tính thống nhất của Nam Tư. Tiếc rằng niềm hy vọng này đã tiêu tan vào mùa xuân năm sau. Vào thời điểm đó Školska knjiga là một nhà xuất bản quốc doanh quy mô lớn chuyên về sách giáo khoa. Sau khi Nam Tư sụp đổ, nó bị tư nhân hóa và gần đây, thật khủng khiếp, nó đã bán đi nhà xuất bản sách giáo khoa lớn nhất của Serbia.15

Mặc dù ấn bản bổ sung của Cộng đồng tưởng tượng đã được xuất bản vào năm 1991, nhưng một năm sau nhà xuất bản Hàn Quốc Naman vẫn ấn hành một bản dịch không xin bản quyền (Sang Sang Ui Kongdong Che) được chuyển ngữ dựa trên bản đầu 1983. Naman được Cho Sangho thành lập năm 1979. Tuy không phải là một nhà hoạt động chính trị nhưng Cho Sangho lại xuất thân từ tỉnh Kwangju “chống đối”, nơi sản sinh ra nhiều trí thức cánh tả. Từ những năm 1980 đến đầu những năm 1990, Naman làm ăn phát đạt nhờ xuất bản sách khoa học xã hội có xu hướng “bình dân” cánh tả; nhưng sau đó vì đi theo khuynh hướng của thị trường, nó đã chuyển sang dòng sách tân tự do và thủ cựu. Cộng đồng tưởng tượng có vẻ đã tồn tại qua làn sóng mới này, bởi vào năm 2000 (tức mười năm sau) Naman đã ấn hành một bản dịch không vi phạm bản quyền, được chuyển ngữ dựa trên ấn bản bổ sung năm 1991. (Bìa của bản dịch này -có lẽ tiêu biểu cho bầu không khí của Hàn Quốc lúc đó -là một bức ảnh sặc sỡ chụp đám đông thanh niên đang vẫy cờ, khả năng là những người ủng hộ đội tuyển bóng đá Hàn Quốc đạt được thành tích đáng kinh ngạc trong kỳ World Cup được tổ chức vào tháng sáu năm 2002). Đối với nhiều nhà văn và nhà xuất bản nghiêm túc, Naman nổi tiếng là một nhà xuất bản sản xuất hàng loạt, ấn hành nhanh chóng, thỉnh thoảng biên tập sơ sài và dịch vụng. Nó cũng nổi tiếng vì không trả nhuận bút cho nhiều tác giả.16Lý do khiến Naman thủ cựu ngày nay ấn hành bản dịch mới Cộng đồng tưởng tượng có thể giải thích từ ý thức của nó về thành công thương mại của bản dịch Nhật ngữ của Shiraishi Takashi và Shiraishi Saya. Tình cờ trong một chuyến đi ngắn sang Seoul năm 2005, tôi được gặp Giáo sư Yun Hyung-sook kiều diễm và khiêm nhường, tác giả của bản dịch tiếng Hàn. Bà không ngớt xin lỗi về chất lượng của bản dịch không xin bản quyền và cho biết lúc đó bà phải làm việc để kịp các deadline dồn dập.

Từ 1987 đến 1992, mô hình các bản dịch dường như vẫn mang tính ngẫu nhiên về mặt địa lý -Tokyo, Frankfurt, SãoPaulo, Zagreb và Seoul. Nhưng từ 1992 cho đến cuối thập niên 1990 tình hình hoàn toàn khác. Trong số mười lăm bản dịch ra đời trong giai đoạn này, có tới mười một bản được in tại châu Âu từ 1995 đến 1999. Tuy nhiên hai bản dịch đầu tiên lại xuất hiện ở Ciudad México (Comunidades imaginadas) và Istanbul (Hayali Cemaatler), vào năm 1993.

Quỹ kinh tế văn hóa (Fondo de Cultura Económica) được nhà kinh tế học, nhà ngoại giao Daniel Cosío Vilegas thành lập vào năm 1934 với mục đích ban đầu là cung cấp sách giáo khoa bằng tiếng Tây Ban Nha cho Trường Kinh tế Quốc gia mới thành lập. Tuy nhiên phạm vi xuất bản của nó nhanh chóng mở rộng sang các lĩnh vực khác như lịch sử, văn hóa, văn chương v.v… Là một doanh nghiệp quốc doanh ngay từ khi mới bắt đầu hoạt động, nó vẫn trực thuộc bộ máy quan liêu nhà nước về văn hóa (trong những năm 1990 nó hoạt động dưới sự quản lý của cựu tổng thống Miguel de la Madrid). Sau Thế chiến thứ hai, nó mở rộng “đế chế” của mình sang Argentina (1945), Chile (1954), Mẫu quốc Tây Ban Nha (1963), rồi sang Brazil, Colombia, Hoa Kỳ (San Diego), Guatemala, Peru và Venezuela. Lượng sách của nó cũng hết sức dồi dào trong những năm 1990: 2.300 đầu sách mới và 5.000 đầu sách tái bản. Có vẻ như tác nhân kích thích sự xuất hiện của bản dịch này là đội ngũ đông đảo các học giả và tri thức Mexico nghiên cứu và giảng dạy tại các đại học Mỹ, bởi vào thời điểm đó [năm 1993 -ND] Cộng đồng tưởng tượng đang trở thành một dạng sách giáo khoa được sử dụng rộng rãi tại các khoa lịch sử, nhân học, xã hội học và văn học so sánh của Mỹ. Năm 1986 tôi được mời tham dự một hội thảo lớn về chủ nghĩa dân tộc Mexico tổ chức tại Zamora. Điều ngạc nhiên là ngoài tôi ra chỉ có một cử tọa nước ngoài khác là David Brading, sử gia uy tín chuyên về Mexico và Peru và sau này, về lịch sử châu Mỹ Tây Ban Nha nói chung. Khi đó tôi rất lúng túng bởi mình là khách mời duy nhất không nói được tiếng Tây Ban Nha, nhưng sau đấy tôi đã nhận được sự giúp đỡ nhiệt tình của Enrique Krauze, cánh tay phải trẻ tuổi thạo song ngữ của Octavio Paz, một tri thức có ảnh hưởng lâu dài và nổi trội đối với Quỹ kinh tế văn hóa.

Nhà xuất bản Metis Yayinlari của Istanbul lại có một lịch sử hoàn toàn khác. Tiền thân của Metis vốn được Müge Gürsoy -“đại diện” của Verso tại Thổ Nhĩ Kỳ -và một vài người bạn cánh tả lập ra vào năm 1983. Để tránh nguy cơ toàn bộ nhân viên bị nhà cầm quyền bắt, Metis đã được đăng ký về mặt pháp lý dưới danh nghĩa của một cá nhân; trong trường hợp bị đàn áp, chỉ cá nhân này mới chịu các mức phạt tù do chính quyền ấn định. Tuy khởi đầu bấp bênh nhưng công ty lại rất thành công trong những năm 1990 cởi mở hơn -xuất bản tiểu thuyết Thổ Nhĩ Kỳ và tiểu thuyết dịch (từ Tolkien đến Perec), triết học (Adorno, Benjamin, Lukács), lý thuyết chính trị và nữ quyền (Badiou, Arrighi, MacKinnon),17thời sự (Oliver Roy)18và những sách cập nhật nhất về chống toàn cầu hóa và các phong trào phản đối chiến tranh Iraq. Sự thành công của Metis dường như xuất phát từ ba nhân tố độc lập: cư dân trẻ và ngày càng có học của Thổ Nhĩ Kỳ, trong đó có nhiều người ủng hộ cuộc vận động tham gia Ủy ban châu Âu của Ankara; những mối quan hệ hữu hảo lâu dài giữa công ty với các học giả Hồi giáo; và chính sách văn hóa của các ngân hàng lớn -những ngân hàng này sẽ đánh giá hoạt động của các nhà xuất bản mà chúng ủng hộ dựa vào các bài phê bình sách hơn là vào lợi nhuận và chúng sẽ hài lòng nếu chi phí điều hành các công ty này thấp hơn chi phí quảng cáo.19Có lẽ cần phải nói thêm rằng vào cuối những năm 1990 thỉnh thoảng tôi có gặp một số sinh viên đến từ các nước cộng hòa nói tiếng Thổ thuộc Liên Xô cũ, họ cho tôi biết đã đọc Cộng đồng tưởng tượng lần đầu qua bản dịch của Metis.

Sau hai bản dịch của Mexico và Thổ Nhĩ Kỳ, Cộng đồng tưởng tượng mới thực sự xuất hiện tại châu Âu: Thụy Điển (1993); Hà Lan (1995); Na Uy, Pháp và Ý (1996); Hy Lạp và Ba Lan (1997); Bulgaria, Slovenia, Macedonia và Serbia (1998). Bản dịch tiếng Thụy Điển (Den föreställdagemen-skapen) được Daidslos xuất bản tại Göteborg. Thành lập năm 1982, Daidalos là một nhà xuất bản cánh tả độc lập có quy mô khá nhỏ nhưng uy tín, vốn ra đời từ phong trào sinh viên. Đây là một nhà xuất bản nghiêm túc, từng cho in cả những luận án tiến sĩ (dưới sự tài trợ kinh phí của nhà nước). Nó ấn hành rất nhiều sách triết học -từ các tác giả kinh điển cho đến Arendt, Gadamer, Habermas, Heidegger, Rawls và Taylor. Về lịch sử và phân tích xã hội nó đã xuất bản tác phẩm của Marx, Bauman, Bourdieu, Castells và Giddens.20

Bản dịch tiếng Hà Lan (Verbeelde gemeenschappen) rất thú vị, nhưng lại xuất phát từ hai lý do hoàn toàn khác nhau. Trước năm 1995, bìa của các bản dịch nhìn chung khá giản dị, thậm chí không có gì nổi bật. (Chỉ bản dịch Nhật ngữ sử dụng bức ảnh Indonesia thời thuộc địa đầy thủ thuật mà tôi đã đề nghị Verso cho in). Một ngoại lệ duy nhất là tượng đài Hermann của Campusverlag, với chủ đích châm biếm rõ rệt. Nhưng kể từ 1995, các ấn bản bắt đầu có xu hướng tạo ra các bìa sách “dân tộc chủ nghĩa” -chẳng hạn bìa bản dịch tiếng Hà Lan đã tái hiện tuyệt đẹp một bức tranh khắc gỗ mô tả quang cảnh bên trong một xưởng in Hà Lan thời kỳ đầu. Điều đáng chú ý thứ hai là cái cách mà bản dịch xuất hiện. Trong những năm 1970, tôi bắt đầu thư từ thường xuyên với Soerjono, một nhà Cộng sản Indonesia lão thành đang cư trú ở Moscow. Ông là một người bền bỉ, hóm hỉnh và khác thường, từng hoạt động năng nổ trong giai đoạn Cách mạng Indonesia (1945-1949). Sau khi Indonesia giành được độc lập, ông làm việc cho tờ báo Đảng Harian Rakjat (Nhân dân nhật báo). Có lẽ vì thái độ cá nhân mạnh mẽ và một vài sơ suất do bê bối tình dục, ông dần dần bị gạt ra ngoài lề. Rất may cho ông là vào đúng thời điểm nổ ra cuộc đảo chính ngày 1 tháng mười năm 1965, ông đang có chuyến thăm Trung Quốc. Sau cuộc đảo chính này, Đảng cộng sản Indonesia bị tiêu diệt, trong khi hàng ngàn đảng viên bị giết hại hoặc bỏ tù trong nhiều năm mà không qua xét xử. Ác cảm trước những thực tế mà ông nhận ra trong Cách mạng Văn hóa của Mao và bất bình trước sự đấu đá phe phái trong hàng ngũ những người cộng sản Indonesia lưu vong, ông đã tìm đường sang Moscow và làm phiên dịch tại đây trong nhiều năm. Sau đó ông đối đầu với một đám lưu vong được KGB hỗ trợ và điều khiển. Sau khi trải qua một cơn đột quỵ rất nặng, ông không còn lấy lại được sức khỏe và phải điều trị dài ngày trong những bệnh viện tăm tối dành cho cựu chiến binh ở ngoại ô Moscow. Cuối cùng ông được một nhóm nhỏ những phần tử Hà Lan cánh tả có liên hệ với Moscow cứu thoát và đưa sang Amsterdam. Ông cư ngụ tại nhà của một cụ già ở ven thành phố, nơi tôi từng tới thăm ông nhiều lần. Nhờ tình bạn chung với người tàn phế này -người vẫn chịu đựng bệnh tật bằng một tinh thần bất khuất cho đến khi qua đời -tôi đã được gặp Jan Mets,một nhà xuất bản độc lập, đồng thời cũng là khách vãng lai thường xuyên tại đây. Tuy nhiên quyết định dịch Cộng đồng tưởng tượng lại không phải là một nghĩa cử tình cảm. Mets ý thức rất rõ về thành công đáng kể về mặt thương mại của cuốn sách ở London. Bản dịch tiếng Hà Lan là trải nghiệm đầu tiên của tôi trong việc tham gia trực tiếp vào quá trình dịch thuật. Vì khá thạo tiếng Hà Lan, tôi đã đòi kiểm tra lại bản dịch trước khi đem in. Nhà xuất bản bất đắc dĩ phải đồng ý, nhưng vẫn cảnh báo tôi rằng tiếng Anh của dịch giả tốt hơn nhiều so với tiếng Hà Lan của tôi. Ngay ở trang đầu, tôi phát hiện trong câu “Nhưng sau khi lần về tìm hiểu những bùng nổ dân tộc chủ nghĩa đã triệt tiêu các vương quốc đa ngữ và đa tộc người rộng lớn nằm dưới sự cai trị của Vienna, London, Constantinople, Paris và Madrid, tôi vẫn không thể nhận ra rằng ngòi nổ này chí ít đã được đặt ở tận Moscow”, “train” (tức “ngòi nổ”) đã bị dịch nhầm thành “đường ray”. Một số đề nghị điều chỉnh của tôi -tuy không phải là tất cả -rốt cuộc đã được nhà xuất bản chấp nhận, dù chấp nhận một cách miễn cưỡng.

Bản dịch tiếng Na Uy (Forestilte fellesskap) có thể là kết quả của tình bạn giữa tôi và Giáo sư Harald Bøckman. Ông là một nhà Hán học xuất sắc chuyên về các tộc người thiểu số của Cộng hòa nhân dân Trung Hoa cư trú dọc biên giới với Đông Nam Á và từng có vài năm làm học giả thỉnh giảng tại Đại học Cornell. Ông có một khiếu hài hước đặc biệt, một sự điềm tĩnh đáng ngưỡng mộ và một thái độ khách quan đối với chính quyền Maoist và những người kế tục nó. Bất luận thế nào, cuốn sách vẫn được nhà xuất bản Spartacus Vorlag ấn hành. Đây là một công ty sách nhỏ (20 đến 30 đầu sách mỗi năm) thành lập năm 1989 và có quan hệ cá nhân rất tốt với Bøckman. Thiết kế bìa sách cho thấy một khuynh hướng mới: tái hiện một cách thú vị và sinh động lễ diễu hành nhân ngày quốc khánh Na Uy, với hình ảnh chủ đạo là những em nhỏ đáng yêu trong trang phục dân tộc. Khi tôi hỏi Bøckman tại sao lại cần một bản dịch tiếng Na Uy trong khi Na Uy là một nước có dân số ít và hầu hết mọi người đều không gặp trở ngại khi đọc bản dịch tiếng Thụy Điển, thì ông cười và trả lời: “Ông hiểu chúng tôi nghĩ như thế nào về người Thụy Điển và tiếng Thụy Điển mà. Nếu phải đọc bản dịch tiếng Thụy Điển thì thà chúng tôi đọc nguyên bản tiếng Anh còn hơn. Nhưng tốt nhất là nên có một bản dịch bằng thứ tiếng của dân tộc chúng tôi”.

Sự xuất hiện của bản dịch tiếng Ý (Communità immaginate) có lẽ khởi sự từ một cuộc gặp tình cờ với Marco d’Eramo trong thời gian tôi được mời đến Chicago thuyết trình. Marco d’Eramo là một trí thức xuất sắc của Rome, đồng thời là ký giả của Il Manifesto, một tờ báo cực tả có uy tín (tờ báo cực tả cuối cùng ở châu Âu chăng?). Ông đã xin nghỉ phép ở tòa soạn để đến Đại học Chicago viết một công trình về lịch sử thành phố này, công trình đã được Verso cho in vào năm 2002.21Chúng tôi trở thành bạn thân của nhau chỉ trong một thời gian rất ngắn. Nhờ mối thân tình này, bản tiếng Ý của Cộng đồng tưởng tượng đã được nhà xuất bản Manifestolibri ấn hành tại Rome. Nhà xuất bản này được Il Manifesto -vốn có liên kết với tập đoàn xuất bản Feltrinelli -thành lập năm 1991. Tuy chỉ in khoảng 40 đầu sách một năm, nhưng do chú trọng chất lượng và ủng hộ các nhà văn trẻ tài năng nên sách của công ty đã được sử dụng rộng rãi làm tài liệu giảng dạy đại học. Bìa sách vui nhộn như thể được lấy từ một bộ phim của Fellini thời kỳ sau. Có thể hiểu bìa sách này lấy chủ đề “dân tộc chủ nghĩa”, song tôi lại muốn coi nó có chủ ý châm biếm như tinh thần bìa sách in tượng đài Hermann của bản dịch tiếng Đức.

Bản dịch tiếng Pháp (L’imaginaire national) được phát hành bởi nhà xuất bản La Découverte của François Gèze. Đây là một nhà xuất bản “cánh tả độc lập” có quy mô trung bình (80 đến 100 đầu sách một năm), chú trọng xuất bản các dịch phẩm. Tiền thân của La Découverte là nhà xuất bản nổi tiếng François Maspero thành lập vào năm 1959. Khi trao quyền quản lý cho Gèze vào năm 1983, Maspero đã yêu cầu đổi tên của công ty thành La Découverte. Năm 1996, ngay sau khi xuất hiện bản dịch tiếng Pháp của Cộng đồng tưởng tượng, công ty đã sát nhập với nhà xuất bản Syros (Syros được thành lập năm 1974, đóng vai trò tích cực trong cuộc đấu tranh đòi cải cách chính trị và xã hội của phe cánh tả Pháp). Bìa cuốn sách là một bức ảnh giản dị, trong ảnh là phiến mảnh của một tòa nhà Paris được xây theo phong cách tân cổ điển, trông như thể vừa được Malrauxlàm sạch.22Phải chăng bìa sách có ý châm biếm? Có thể, nhưng là thứ châm biếm ý nhị của người Pháp. Lần đầu tiên và cũng là lần duy nhất, tôi tham gia một cách trực tiếp và đầy hào hứng vào quá trình dịch thuật. Pierre-Emmanuel Dauzat, một trong những dịch giả xuất sắc nhất của nước Pháp, không chỉ tạo ra một văn bản hay hơn bản gốc tiếng Anh ở nhiều chỗ mà còn rà soát toàn bộ tài liệu tham khảo tiếng Pháp và chỉ ra một số sai sót cho tôi. Nhờ có ông tôi mới phát hiện ramột điều thú vị. Khi tôi trình bày những lấn cấncủa mình về tiêu đề tiếng Pháp L’imaginaire national(Tưởng tượng dân tộc), ông trả lời rằng tiếng Pháp không có từ tương đương nào ngầm chỉ sự thân ái và cố kết xã hội như “community” (cộng đồng) trong tiếng Anh. “Communauté” trong tiếng Pháp (như trong Communauté Européenne) mang một cảm giác lạnh lùng và quan liêu khó tránh (Marco d’Erano sau này có viết vui cho tôi rằng “communità” trong tiếng Ý thường chỉ một cơ sở hồi phục dành cho những người nghiện hút).

Bản dịch tiếng Ba Lan và tiếng Hy Lạp xuất hiện năm 1997. Bản dịch tiếng Ba Lan (Wspólnoty wyobrażone) được Viện xuất bản xã hội Znak (Spoleczny Instytut Wydawniczy Znak) ấn hành tại Kraków (không phải Warsaw). Tôi hầu như không biết gì về cơ quan này ngoại trừ thông tin rằng đây là một nhà xuất bản rất có tiếng trong mảng sách học thuật và tiểu thuyết.

Bản dịch tiếng Hy Lạp (Phantasiakés Koinótites) thì tôi có biết một ít thông tin. Nhà xuất bản Nepheli được Yannis Douvitsas quá cố, một trí thức cánh tả tự do, thành lập chỉ vài năm sau sự sụp đổ của chính quyền quân phiệt Papadopoulos-Ioannides (tức sau 1974). Là một nhà xuất bản nhỏ nhưng uy tín, Nepheli chủ yếu xuất bản tiểu thuyết và các công trình dịch thuật công phu trong lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn. Bên cạnh sách nó còn xuất bản ba tạp chí, Poiesis (Thơ), Cogito (Triết học) và Historein (Lịch sử, Nhìn lại quá khứ và những câu chuyện khác -in bằng tiếng Anh). Linh hồn của Historein là Giáo sư Antonis Liakos của Đại học Athens. Ông được đào tạo tại Salonika, sau đó tại Rome (nơi ông tiến hành một nghiên cứu về quá trình tái thống nhất nước Ý), cuối cùng tại Birmingham khoảng năm 1989, nơi ông tham gia Nhóm nghiên cứu Chủ nghĩa duy vật lịch sử (Historical Materialism Group). Tại thời điểm này, nghiên cứu chủ nghĩa dân tộc đang tác động đến nghị trình của nhóm do những thành công của chủ nghĩa Thatcher. Nepheli cũng xuất bản sách của Carlo Ginzburg, Natalia Zemon Davis23và nhiều tác giả khác. Đối tượng chủ yếu của những cuốn sách này là sinh viên và các học giả trẻ trong lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn. Nhưng Historein, như tiêu đề phụ mỉa mai của nó cho thấy, cũng có chủ đích chính trị rõ ràng, là“gây hấn với ý thức hệ thăm căn cố đế của 3.000 năm dân tộc Hy Lạp”.24

Theo dịch giả Pothiti Hantzaroula,25ý tưởng dịch Cộng đồng tưởng tượng xuất hiện vào đầu những năm 1990, thời điểm các nhà dân tộc chủ nghĩa tổ chức nhiều cuộc tuần hành nhằm đòi lại tên Macedoniacho Hy Lạp.26Việc xuất bản cuốn sách có mục đích xác lập một tiếng nói bất đồng và một phương thức suy tư khác về cái cách mà dân tộc Hy Lạp được tạo nên. Cuốn sách hướng đến đông đảo bạn đọc, nhưng thực tế đối tượng chính của nó là sinh viên, bởi lẽ lúc đó chương trình lịch sử tại các trường đại học Hy Lạp vẫn chịu ảnh hưởng nặng nề của chủ nghĩa lãng mạn thế kỷ XIX.27

 Điều đáng chú ý là đối tượng gây hấn của Historein không phải là phe cánh hữu truyền thống của Hy Lạp mà là những chính đảng chủ yếu của phe cánh tả, bởi những chính đảng này, ít nhất từ đầu những năm 1990, ngày càng tự quảng bámình là kẻ bảo vệ của dân tộc Hy Lạp “3000 năm lịch sử”, thậm chí kẻ bảo vệ của Chính thống giáo. Giáo sư Liakos cho biết, riêng trường hợp Cộng đồng tưởng tượng, Historein đã bị [phe cánh tả] cáo buộc khuyến khích, ấn hành và giảng dạy một cuốn sách chứa đầy thông tin sai lệch về lịch sử Hy Lạp và mang nặng khuynh hướng duy tâm chủ nghĩa, không suy xét thấu đáo đến những chuyển biến kinh tế đã tạo nên các dân tộc hiện đại.28

Có thể nói cùng với sự xuất hiện của bản dịch tiếng Hy Lạp, một “kỷ nguyên” đã khép lại để mở ra một kỷ nguyên mới. Vào giữa những năm 1990 George Sorosđã triệu tập một nhóm học giả và quản lý viên thư viện, yêu cầu họ lập ra danh mục 100 cuốn sách (mới xuất bản) quan trọng nhất trong lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn.29(May lẫn không may, Cộng đồng tưởng tượng nằm trong những lựa chọn cuối cùng). Kế hoạch của ông là cấp một phần kinh phícho các nhà xuất bản tại những nước Cộng sản cũ của Đông Âu và những nước cộng hòa ra đời sau sự sụp đổ của Liên Xô để họ tiến hành dịch những tác phẩm này. Nhờ dự án xuyên quốc gia được sự hậu thuẫn lớn về kinh phí này, Cộng đồng tưởng tượng đã được dịch sang tiếng Slovenia (Zamišljene skupnosti), tiếng Macedonia (Zamisleni zayednisti), tiếng Serbia (Natsia: zamislenja zayednitsa), tiếng Bulgaria (Vobrazenije obshchnosti) năm 1998, tiếng Romania (Comunitti imaginate), tiếng Nga (Voobrazhayemie soobshchestva), tiếng Ukraine (Uyavleni spilnoti) năm 2001 và tiếng Lithuania (Isivaizduojamos bendruomenés) năm 2002.

Do phạm vi lan tỏa rất rộng của dự án này nên ở đây chúng ta sẽ chỉ tóm lược một cách tổng quát thay vì trình bày các trường hợp theo trật tự thời gian như đã làm.

Điều may mắn là Yana Genova, người phụ tráchdự án phiên dịch này -dự án do Viện xã hội mở (Open Society Institute) của Soros cầm trịch-cũng là người đích thân dịch Cộng đồng tưởng tượng sang tiếng Bulgaria. Gần đây cô đã tận tìnhkể lại với tôi rằng:

“Dự án dịch của Viện xã hội mở…khởi động quãng 1994, có mục đích cung cấp bản dịch bằng phương ngữ Đông Âu các công trình cơ bản của khoa học xã hội (ít nhất ở mức tối thiểu), phục vụ cho nhu cầu đổi mới giáo dục đại học và duy trì những thảo luận công khai và hiểu biết về các vấn đề xã hội và chính trị. Những đợt xét hồ sơ trợ cấpđầu tiên được tiến hành tại Romania và Bulgaria vào năm 1995, rồi nhanh chóng triển khai tại các quốc gia khác trong những năm tiếp theo. Viện xã hội mở đã chi khoảng 5 triệu đô lacho gần 2000 bản dịch. Danh mục các đầu sách mà Viện đề xuất…dùng để tham khảo cho các nhà xuất bản, nhưng các nhà xuất bản cũng có thể đề nghị những đầu sách khác trong lĩnh vực khoa học nhân văn… Tùy thuộc vào từng nước, tiền trợ cấp có thể chi từ 30% đến 80% tổng chi phí xuất bản. Hiệu quả của dự án này mỗi nơi một khác, bởi số lượng đầu sách xuất bản tại mỗi địa phương rất khác nhau và việc quản lý dự án ở tất cả các nước đều không thực sự tốt. Nhưng tôi có thể tự tin khẳng định rằng dự án đã có tác động to lớn đến cách thức giảng dạy khoa học xã hội và nhân văn trong khu vực. Chẳng hạn, tại các trường đại học lớn của Bulgaria và Ukraine, sách dịch do dự án tài trợ đã chiếm tới 40% đầu sách cần phải đọc của 11 chuyên ngành... Tất cả các nhà xuất bản [in sách của ông] đều là các công ty nhỏ (2 đến 10 nhân công) độc lập, được thành lập vào đầu những năm 1990. Chúng xuất bản sách khoa học và tồn tại chủ yếu nhờ tài trợ của các nhà hảo tâm tư nhân như Soros, các cơ quan chính phủ nước ngoài như Viện văn hóa Pháp và -gần đây -các chương trình văn hóa của EU”.

Ngoài những gì mà Yana Genova đã rộng lượng cung cấp, tôi hầu như không có thông tin nào về những bản dịch này. Nhà xuất bản của Slovenia là Studia Humanitatis, của Macedonia là Kultura, của Serbia là Biblio-teka Episteme Plato, của Bulgaria là Kritika i Humanizm, của Romania là Integral, của Nga là Kanon-Press, của Ukraine là Kritika và của Lithuania là Baltos Lankos. Tôi chỉ nắm được một ít thông tin về những nhà xuất bản này. Kritika i Humanizm là một công ty độc lập được thành lập tại Sofia năm 1991, hiện là nhà xuất bản Bulgaria duy nhất chuyên in sách khoa học xã hội và nhân văn. Mục đích chính của nó là xuất bản nhiều công trình dịch thuật (có vẻ chủ yếu là của các tác giả Pháp) nhằm cổ xúy một “môi trường đa nguyên trong những ngành khoa học này”. Do bản dịch tiếng Serbia rõ ràng là một phiên bản nối dài,bằng văn tự Cyrillic, bản dịch tiếng Serbo-Croat xuất bản năm 1990 tại Zagreb, nên giữa hai nhà xuất bản có thể có những liên hệ về mặt tài chính hoặc một số liên hệ khác. Bản dịch tiếng Nga có một lịch sử đáng chú ý. Một bản dịch quá tệ, và có lẽ không xin bản quyền, đã được Kanon xuất bản trên thực tế vào năm 1998. Đây là bản dịch nằm trong tủ sáchConditio Humana do Trung tâm xã hội học cơ sở (Centre for Fundamental Sociology) lập ra tại Moscow -tủ sách này cũng xuất bản các tác phẩm của Montesquieu, Burke, Marx, Weber, Bergson và Schmitt. Sau khi dịch lại hoàn chỉnh và chuyên nghiệp, nó được Kanon xuất bản hợp pháp vào năm 2001 “dưới sự tài trợ của Viện xã hội mở, trong khuôn khổ siêu dự án ‘thư viện Pushkin’”. Cần nói thêm rằng bìa của tất cả những bản dịch “Soros” này đều giản dị và mộc mạc, không hề chiều theo tiếp thịthương mại hay tưởng tượng dân tộc chủ nghĩa rõ ràng.

Tây Âu đầu thế kỷ XXI cũng cho ra đời một số bản dịch thú vị. Năm 2001 bản dịch tiếng Đan Mạch (Forestillede foellesskaber) được Nhà xuất bản đại học Roskilde (Roskilde Universi-tetsforlag) ấn hành, với một bìa sách “hậu hiện đại” hấp dẫn nhưng khó hiểu. Đây là bản dịch Cộng đồng tưởng tượng đầu tiên được phát hành bởi một nhà xuất bản trực thuộc đại học. Khi tôi hỏi dịch giả, giáo sư Lars Jensen trẻ tuổi và nhiệt huyết, tại sao lại cần một bản dịch tiếng Đan Mạch trong khi đã có bản dịch tiếng Na Uy và tiếng Thụy Điển, thì ông trả lời ít nhiều giống cách mà Harald Bøckman từng trả lời tôi trước đó. Trên thực tế, ông nói “Đúng là chúng tôi có thể đọc được những bản dịch này, nhưng chúng tôi nên có bản dịch của dân tộc mình”. Năm 2003, Miroslav Hroch đã đưa hai chương đầu bản dịch tiếng Czech của Cộng đồng tưởng tượng vào phần trích yếu cuốn sách giáo khoa của ông Những quan điểm về dân tộc và chủ nghĩa dân tộc (Pohledy na narod a nacionalismus), một công trình được xuất bản tại Prague bởi nhà xuất bản “xã hội học” Plon. Năm 2005 xuất hiện một bản dịch tiếng Catalan (Comunitats imaginades), do Editorial Afers và Đại học Valencia hợp tác xuất bản. Cùng năm ở Lisbon, nhà xuất bản Edições 70 đã cho in một bản dịch xuất sắc, tròn mười sáu năm sau khi bản dịch tiếng Bồ đầu tiên (một bản dịch không thật sự tốt) được ấn hành tại SãoPaulo. Nhưng do chính sách thuế vô tội vạ đánh vào dòng sách “hải ngoại” tại Brazil, bản dịch mới này đã bị thổi giá quá cao khi đến tay bạn đọc Brazil. Gần đây nhất, năm 2007, bản dịch tiếng Phần Lan của Joel Kuortti (Kuvitellut Yhteisöt) cũng được Vastapaino, một nhà xuất bản độc lập về mặt tri thức, phát hành.

Cuối cùng cần phải nói sơ qua về câu chuyện bảy bản dịch được xuất bản tại phía đông châu Âu sau năm 1998. Năm 1999, các bản dịch đã xuất hiện tại Đài Bắc, Tel Aiv và Cairo. Dịch giả của bản dịch Đài Bắc (Tưởng tượng đích cộng đồng thể) là Ngô Duệ Nhân, một người anh hùng trẻ tuổi của cuộc đấu tranh chống lại nền độc tài Quốc dân đảng, một nhà dân tộc chủ nghĩa mạnh mẽ nhưng có đầu óc khai phóng của Đài Loan, đồng thời là tác giả của một luận án tiến sĩ xuất sắc và cấp tiến bảo vệ tại Đại học Chicago làm về những nguồn gốc phức hợp và sự phát triển của chủ nghĩa dân tộc Đài Loan. Giống như Shiraishi Takashi và Shiraishi Saya, Ngô Duệ Nhân đã chuyển “tranh luận Anh quốc” trong bản gốc thành luận đề liên quan đến thanh niên Đài Loan ngày nay, bằng cách thêm vào nhiều cước chú giải thích và viết một lời tựa dài có tính học thuật. In Cộng đồng tưởng tượng là Thời báo Trung Hoa, nhà xuất bản thương mại lớn nhất của Đài Loan, nhưng tiếc rằng, như ta sẽ thấy, nó không hề có một chút liêm chính và cam kết chính trị nào như Ngô Duệ Nhân.

Bản dịch tiếng Hebrew (Qehiliot madumaynot) được xuất bản dưới sự bảo trợ của Đại học mở Israel (Open University of Israel). Mục đích của nó là can thiệp có phê phán vào ý thức hệ chính thống của chủ nghĩa phục quốc Do Thái và Đảng cánh hữu Likud đang ngự trị tại Israel. Bản dịch có lời tựa của Azmi Bishara, chính trị gia Israel gốc Palestine lỗi lạc, một học giả chuyên về Marx và Hegel, từng nhận học vị tiến sĩ tại Đại học Jena khi Đông Đức vẫn còn tồn tại. Điều kỳ lạ là thiết kế bìa sách khiến ta nghĩ tới cảnh tuyết rơi ở Vermont vào kỳ Giáng sinh. Trong khi đó bản dịch tiếng Ả rập (Al Jama’at Al Khayaliah) lại có lai nguyên và chủ đích hoàn toàn khác. Năm 1995, có lẽ do phản ứng trước những báo cáo của Liên hợp quốc cho biết số lượng các tác phẩm dịch thuật trong “Thế giới Ả rập” ít hơn nhiều so với các khu vực lớn khác trên hành tinh, Hội đồng văn hóa tối cao (Majlis al-’Ala lil-Thaqafah) trực thuộc Bộ giáo dục Ai Cập đã phát động một Dự án dịch thuật lớn dưới sự chỉ đạo của Tiến sĩ Gaber Asfour.30Trải qua một thập kỷ, Dự án đã xuất bản không dưới một nghìn đầu sách dịch (thường phát hành 1000 bản mỗi cuốn), bao gồm tác phẩm của Neruda, Rousseau, Trotsky, Pessoa, Kafka, Eliot, Hegel, Sartre, Woolf, Foucault, Cavafy, Chomsky, Freud và các công trình nghiên cứu về những tác giả này. Hầu hết sách dịch thời kỳ đầu đều vi phạm bản quyền, trong đó có Cộng đồng tưởng tượng (số 81). Được bán với giá thấp và có trợ giá, những đầu sách này được phát hành rộng rãi gần như trên toàn Ai Cập. Sự thành công của dự án có thể giúp nó nhanh chóng trở thành một phân ban thường trực của Hội đồng văn hóa tối cao.

Sau sự sụp đổ của chính quyền Suharto ở Indonesia (kéo dài từ tháng 3 năm 1968 đến tháng 5 năm 1998), tình trạng kiểm duyệt về cơ bản được bãi bỏ. Hàng chục nhà xuất bản cả uy tín lẫn kém uy tín mọc lên như nấm. Nhiều nhà xuất bản tìm cách tái bản những đầu sách bị cấm trong một thời gian dài hoặc những cuốn cố ý làm cho tuyệt bản. Ngay sau khi được phép trở lại Indonesia lần đầu sau 27 năm, tôi phát hiện ra rằng một bản dịch Cộng đồng tưởng tượng vi phạm bản quyền đã được nhà Pustaka Pelajar ở Jogjakarta in vội in vàng. Đây là một nhà xuất bản nổi tiếng cẩu thả, chuyên lợi dụng sự hiếu kỳ và thiếu hiểu biết của sinh viên thành phố đại học này để trục lợi. Tôi có thể buộc nhà xuất bản phải thu hồi cuốn sách, nhưng không phải vì lý do tiền bạc mà vì chất lượng quả thực tồi tệ của bản dịch. Nhờ sự giúp đỡ của nhiều cựu sinh viên của tôi và nhờ khoản trợ cấp của Văn phòng quỹ Ford tại Jakarta, một bản dịch mới về cơ bản (Komunitas-Komunitas Terbayang) cuối cùng đã được xuất bản vào năm 2001. Học theo Ngô Duệ Nhân, tôi cũng thêm nhiều cước chú bổ sung bằng tiếng Indonesia khẩu ngữ nhằm giúp sinh viên ở đây hiểu được nhiều ám chỉ (allusion) và tham chiếu (reference) của cuốn sách mà chỉ độc giả Anh ngữ mới có thể lĩnh hội dễ dàng. Nhà xuất bản của lần in này là INSIT, một tổ chức phi chính phủ tiến bộ chuyên phụ trách vấn đề tự do thông tin -mà tiếc rằng ngày nay đang kiệt quệ vì những xung đột phe phái nội bộ.

Điều đáng nói là khi đưa ra đề nghị tương tự đối với bản tiếng Anh giá rẻ được nhà Anvil – nhà xuất bản nổi tiếng nhất của Manila – in tại Philippines năm 2003, tôi đã bị từ chối đầy phẫn nộ. Tất nhiên những sinh viên Philippines được đào tạo bằng tiếng Anh đều hiểu được tất cả những tham chiếu (reference) của cuốn sách.

Cuối cùng là hai bản dịch rất đặc biệt, một được xuất bản ở Thượng Hải vào năm 2003, một dự kiến in ở Bangkok cuối 2006. Ấn hành Cộng đồng tưởng tượng ở Cộng hòa nhân dân Trung Hoa là nhà xuất bản nhân dân Thượng Hải, một tập đoàn quốc doanh quy mô lớn. Bản dịch Cộng đồng tưởng tượng này hóa ra là kết quả của một thỏa thuận bí mật giữa nhà xuất bản nhân dân Thượng Hải và Thời báo Trung Hoa của Đài Bắc. Công ty của Đài Bắc không chỉ tiếp tay cho cái về bản chất là hành vi xâm phạm tác quyền tiêu cực, mà còn cho phép phía đồng mưu Thượng Hải tự ý kiểm duyệt văn bản của Ngô Duệ Nhân. Một hệ quả đáng chú ý là việc cắt toàn bộ chương 9, chương mà tôi đưa ra một số bình luận châm biếm Người cầm lái vĩ đại [Mao Trạch Đông – ND] và những nỗ lực gần đây của Đảng cộng sản Trung Quốc nhằm xây dựng một “chủ nghĩa dân tộc chính thức” đầy thủ đoạn.31“Ông nên coi đó là một lời khen dành cho mình”, một người bạn Trung Quốc nói, kèm một nụ cười lém lỉnh, “họ hầu như chưa bao giờ cắt hết các chương của một cuốn sách mà họ muốn xuất bản. Ví dụ hãy nhìn sách của Hillary Clinton – bịcắt bỏ chỉ là mấy câu chỗ này chỗ nọ thôi!”. Lời giới thiệu của Ngô Duệ Nhân cũng bị cắt mà không cho ông biết hoặc được ông chấp nhận, mặc dù đây chỉ là một tường thuật cẩn thận và có tính học thuật nền tảng cá nhân của tôi, bối cảnh chính trị và tri thức khi tôi viết Cộng đồng tưởng tượng, những nội dung chính của cuốn sách trong so sánh với các công trình của Gellner và Smith, và những phê phán của Partha Chatterjee và nhà Hán học Prasenjit Duara.32Việc nhắc đến, trong phần kết của nó, đảo Đài Loan “đẹp nhưng tầm thường, nồng nhiệt nhưng phản tri thức” trong khi tương lai vẫn cực kỳ bất định, có lẽ khó mà chấp nhận nổi đối với các nhà kiểm duyệt Bắc Kinh.33

Bản dịch tiếng Thái hiện đang sắp hoàn thiện bản thảo. Đây là sản phẩm của một nhóm giáo sư cấp tiến có đầu óc phê phán, trong đó có vài người từng là sinh viên cũ của tôi. Khi xem xét các chương bản thảo, có một điều khiến tôi hết sức ngạc nhiên. Vì ở Thái chế độ quân chủ có uy tín rất lớn nên tôi nghĩ dịch giả sẽ phải sử dụng các từ vựng “phong kiến” đặc thù khi mô tả hoạt động của các vua Thái trong quá khứ và hiện tại. Điều tôi không ngờ được là những từ vựng đặc thù này được sử dụng cho tất cả các ông vua nước ngoài, trong đó có những nhân vật không nhận được thiện cảm như William Kẻ chinh phục của London, François Icủa Paris, Franz II của Vienna, Wilhelm II của Berlin v.v…Tôi đã phản đối điều này và cho biết toàn bộ tinh thần của Cộng đồng tưởng tượng là tinh thần cộng hòa và hầu hết các vị vua đều được bàn đến bằng thái độ châm biếm hoặc thù địch. Tuy nhiên ý kiến phản đối của tôi nhanh chóng bị gạt đi. “Ông không hiểu được truyền thống và hoàn cảnh của chúng tôi”. Vừa cười vừa lo ngại, tôi chỉ còn biết cách trông chờ vào cái có thể được coi là bản dịch “hoàng gia” đầu tiên của Cộng đồng tưởng tượng!

Trên cơ sở các bằng chứng tương đối tản mác này, chúng ta có thể tạm thời đưa ra những kết luận như thế nào?

Sự phân bố về mặt địa lý. Ngoại trừ các chương trình dịch thuật liên kết của Viện xã hội mở dành cho Đông Âu và Liên Xô cũ được phát động vào nửa sau những năm 1990, hầu như không có bằng chứng nào cho thấy một thứ tự thời gian có tính phân hạng của việc xuất bản Cộng đồng tưởng tượng, tức không thể nói các bản dịch khởi đầu ở “phương Tây” rồi kết thúc sau đó ở các nước từng thuộc Thế giới thứ ba. Trong mười năm đầu sau khi ra mắt bản đầu Cộng đồng tưởng tượng, chúng ta thấy có hai bản dịch ở Tây Âu (Đức và Thụy Điển), một ở Đông Âu (Nam Tư), hai ở Mỹ Latin (Brazil và Mexico), hai ở châu Á (Nhật Bản và Hàn Quốc) và một ở Cận Đông (Thổ Nhĩ Kỳ). Cao trào xuất bản các bản dịch bằng ngôn ngữ châu Âu chỉ bắt đầu vào nửa sau những năm 1990. Trong phạm vi mà tôi biết, tất cả các bản dịch đều dựa vào nguyên tác tiếng Anh, không dựa vào các bản Cộng đồng tưởng tượng đã được dịch từ ngôn ngữ của các nước bá quyền khu vực hoặc bá quyền thực dân. Điều này chứng tỏ tiếng Anh ngày nay đang có được ưu thế đặc biệt trên toàn cầu.

Tuy nhiên cũng có những thiếu sót đáng chú ý nếu ta nghĩ đến các ngôn ngữ có lượng người nói lớn và lượng người đọc -ở một mức độ ít hơn tùy theo từng địa phương -đông đảo. Ví dụ dễ thấy nhất là “Tiểu lục địa” [Ấn Độ -ND] nơi có hàng triệu người đọc của tiếng Urdu, tiếng Hindi, tiếng Bengali, tiếng Tamil v.v…Chắc chắn nguyên nhân dẫn tới khuyết thiếu này là do di sản cai trị của thực dân Anh. Có lẽ điều khiến ta ngạc nhiên là di sản này đã khiến tiếng Anh, ngay cả ngày nay, vẫn là ngôn ngữ chủ đạo của giáo dục “cấp quốc gia” và của diễn ngôn tri thức. Ví dụ thứ hai là châu Phi (nếu ta thích xếpAi Cập vào Cận Đông). Không có một bản dịch nào của tiếng Swahili, tiếng Amharic, tiếng Wolof hay tiếng Hausa. Ta có thể quy nguyên nhân của điều này cho địa vị ngôn ngữ của các nước cựu thực dân (tiếng Pháp, tiếng Anh và tiếng Bồ Đào Nha) -mà ngày nay vẫn được sử dụng làm ngôn ngữ của nhà nước và của giáo dục đại học ở nhiều quốc gia châu Phi. Nhưng bản thân vị thế ưu trội này cần phải được giải thích từ các hoàn cảnh kinh tế, xã hội và chính trị xáo trộn của châu Phi sau khi các quốc gia của nó giành được độc lập dân tộc. Sự vắng mặt của bản dịch tiếng Việt có thể là vấn đề tạm thời, bởi Việt Nam đang phát triển một cách nhanh chóng và dần dần thoát ra khỏi tình trạng tương đối cô lập về mặt tri thức do ba thập kỷ chiến tranh khốc liệt gây ra. Trường hợp kỳ lạ nhất là Mẫu quốc Tây Ban Nha. Hiện vẫn chưa có bản dịch nào xuất hiện tại đây, trong khi Bồ Đào Nha đã quyết định bắt kịp thuộc địa châu Mỹ rộng lớn của nó [Brazil -ND] sau mười lăm năm chờ đợi. Song Tây Ban Nha lại là nước duy nhất xuất hiện bản dịch của một ngôn ngữ “quốc gia thứ yếu” (tiếng Catalan).

Nhà xuất bản và người đọc. Các tư liệu chưa hoàn chỉnh mà tôi có trong tay đã cho thấy một số mô thức rất đáng chú ý. Trước hết, ngoại trừ một nhà xuất bản duy nhất (Fondo của Mexico) có lịch sử ra đời trước Thế chiến thứ hai, đại đa số các nhà xuất bản đều được thành lập trong ba thập niên vừa qua hay nói đúng hơn, được thành lập sau khi chấm dứt “những năm 1960 kéo dài” đầy biến động của thế giới. Thứ hai, phần lớn những nhà xuất bản này đều có quy mô vừa và nhỏ, và ở các mức độ khác nhau đều là các nhà xuất bản độc lập. Sự độc lập này cần được nhìn nhận từ ba góc độ. Chỉ trong trường hợp Mexico, Nam Tư, Ai Cập và Cộng hòa nhân dân Trung Hoa (đều là các nhà nước độc đảng toàn trị vào thời điểm xuất bản Cộng đồng tưởng tượng ở mỗi nước), các nhà xuất bản mới là các cơ quan nhà nước. Hơn nữa, ngoại trừ trường hợp Đài Loan, không một nhà xuất bản thương mại có quy mô lớn nào của tư nhân ấn hành Cộng đồng tưởng tượng, và cũng không có trường hợp can thiệp nào từ các tập đoàn lớn xuyên quốc gia. Có lẽ điều khiến ta ngạc nhiên hơn là mặc dù người đọc của Cộng đồng tưởng tượng có đặc thù riêng (sẽ thảo luận chi tiết hơn dưới đây), nhưng các nhà xuất bản trực thuộc đại học lại tương đối ít ỏi: chỉ có thể kể đến Đại học mở của Israel, Đại học Roskidle, Đại học Valencia và có lẽ cả Viện xuất bản xã hội Znak của Kraków.34Thứ ba, trong phạm vi mà tôi biết, có thể thấy định hướng chính trị của các nhà xuất bản chủ yếu đi từ khai phóng (xét theo nghĩa chính trị) sang các dạng thức cánh tả độc lập khác nhau. Có thể nói, nhìn từ lập trường chính trị của Verso và những khuynh hướng chính trị của tôi, điều này không có gì đáng ngạc nhiên.

 Như tôi đã chỉ ra, trong hình thức ban đầu của mình, Cộng đồng tưởng tượng chủ yếu hướng tới đông đảo độc giả có học, trước hết ở Anh, sau ở Mỹ. Cộng đồng tưởng tượng không được viết từ hoặc viết cho chuyên ngành khoa học của tôi (người ta sẽ gọi đây là “khoa học chính trị”) hay bất cứ chuyên ngành nào khác. Tôi cũng cố gắng không sử dụng các thuật ngữ học thuật khi chấp bút. Lúc đó tôi không hề nghĩ rằng Cộng đồng tưởng tượng sẽ trở thành một cuốn sách giáo khoa được sử dụng ở bậc đại học. Nhưng xét về đại thể, dù là nguyên bản tiếng Anh hay bản dịch, việc trở thành sách giáo khoa đại học có lẽ là định mệnh của nó. Tuy nhiên không nên hiểu số phận này một cách quá Anglo-Saxon. So với Anh và Mỹ, sinh viên và giảng viên ở nhiều khu vực trên thế giới có vai trò chính trị và xã hội quan trọng hơn nhiều, và vai trò này, ở một mức độ nhất định, luôn có tính chất phản kháng điển hình. Nhưng vai trò này chỉ mới bắt đầu gần đây (đầu thế kỷ XX) – một lý do giải thích tại sao “sinh viên” lại chỉ xuất hiện một cách lác đác trong Cộng đồng tưởng tượng.

Khi thử lý giải tại sao Cộng đồng tưởng tượng rốt cuộc lại được chuyển thành hình thức “sách giáo khoa” một cách rộng rãi và nhanh chóng như vậy, tôi đã tìm ra một số câu trả lời khả dĩ nhất như sau.

Trước hết, những công kích tranh luận của nó có sức hấp dẫn rộng rãi ngoài dự đoán. Trong những năm 1980, Cộng đồng tưởng tượng là công trình nghiên cứu so sánh duy nhất về lịch sử chủ nghĩa dân tộc có mục đích tấn công chủ nghĩa châu Âu trung tâm và sử dụng tư liệu của các ngôn ngữ phi châu Âu. Nó cũng là công trình duy nhất công khai bênh vực các “nước nhỏ” (xét về địa lý, dân số hoặc tầm ảnh hưởng đến chính trị thế giới). Ở nhiều nơi trên thế giới, các giảng viên và sinh viên, khi đứng trên một lập trường chính trị nào đó, thường đi theo quan điểm cánh tả hoặc tự do - cánh tả, vì vậy họ rất dễ tán thành mục tiêu chính trị của Cộng đồng tưởng tượng. Có thể một nguyên nhân nữa dẫn đến sự đón nhận là do cuốn sách có một phần mục đích phê phán đế quốc Anh và Mỹ, dù nó được viết bằng tiếng Anh. Thứ hai, bằng cách đề xuất khái niệm “cộng đồng tưởng tượng”, cuốn sách đã làm một việc nghịch lý là đem một dạng gắn kết xã hội (gemeinschaft)35có sức hấp dẫn đối với tất cả các nhà dân tộc chủ nghĩa đặt cạnh một thứ bất an, không “huyễn tưởng” như “kỳ lân” cũng không “chân thực” đến giản dị như tivi, mà là một thứ giống như Madame Bovary và Queequeg,36những nhân vật chỉ có thể tồn tại nhờ khoảnh khắc Flaubert và Melville tưởng tượng nên chúng cho chúng ta. Việc đặt ra khái niệm này đã mở ra một cánh cửa rộng mở cho phép chúng ta đánh giá có phê phán chủ nghĩa dân tộc “lưu cữu” vẫn được tuyên truyền ở hầu hết các quốc gia hiện đại bằng phương tiện truyền thông đại chúng và các thiết chế giáo dục do nhà nước kiểm soát. Cũng trong một cách thức nghịch lý, Cộng đồng tưởng tượng công nhiên ủng hộ nhiều dạng thức của chủ nghĩa dân tộc, nhưng quan tâm một cách có chủ ý đến hình thái chung của ý thức dân tộc hơn là các huyền thoại dân tộc cụ thể vốn có ý nghĩa cực kỳ quan trọng đối với các nhà dân tộc chủ nghĩa. Cuối cùng, cuốn sách thử kết hợp một dạng chủ nghĩa duy vật lịch sử với cái về sau được gọi là phân tích diễn ngôn;tứckết hợp giữa chủ nghĩa hiện đại Marxist và chủ nghĩa hậu hiện đại trước khi khái niệm hậu hiện đại ra đời. Tôi nghĩ rằng điều này sẽ giúp giải thích tại sao trên bìa sách của nhiều bản dịch Cộng đồng tưởng tượng sau 1995, những hình ảnh dân tộc chủ nghĩa lại thường được hiểu là thuần túy hoặc có ý giễu nhại (thuần túy như bìa bản dịch tiếng Na Uy và giễu nhại như bìa bản dịch tiếng Ý).

Hơn nữa, đối với những giáo viên mong muốn phát triển ý thức công dân của sinh viên theo tinh thần cấp tiến và phê phán, một lợi thế về mặt giáo dục của Cộng đồng tưởng tượng chính là phương thức so sánh khác thường mà nó sử dụng: Mỹ được đặt cạnh Venezuela mà không phải cạnh Anh, Nhật Bản được đặt trong quan hệ đối đầu với Đế quốc Nga và Ukania37mà không phải với những hàng xóm Đông Á theo Khổng giáo như Trung Hoa, Indonesia ngay cạnh Thụy Sĩ mà không phải Malaysia. Những đối sánh như vậy rất hữu ích cho những giáo viên nào muốn đánh đổ chủ nghĩa dân tộc biệt lệ (national exceptionalism) ngây thơ và dẹp bỏ những sáo ngữ “văn hóa - khu vực” bịa tạc, chẳng hạn các “Giá trị châu Á” nổi tiếng.

Những tác nhân kích thích. Trong nhiều trường hợp, chúng ta không dễ chỉ ra những tác nhân ban đầu kích thích việc dịch Cộng đồng tưởng tượng. Rõ ràng Verso không thực sự nỗ lực khuyến khích các bản dịch, trong khi các cựu sinh viên của tôi (Nhật, Indonesia, Thái Lan) lại tiến hành dịch cuốn sách theo sáng kiến của họ, không phải sáng kiến của tôi.

Thực tế này, xét ở một phạm vi tương đối hẹp, có vẻ đã chứng thực cho việc sử dụng theo nghĩa ẩn dụ khái niệm “nhân bản lậu” (piracy) trong Cộng đồng tưởng tượng – khái niệm nhấn mạnh vào sáng kiến địa phương hơn là áp lực bên ngoài hay bắt chước nô lệ, được tôi dùng để mô tả các quá trình phát tán nhanh chóng của chủ nghĩa dân tộc trong những hình thức khác nhau trên khắp hành tinh. Nhưng trong những trường hợp có thể thấy rõ tác nhân kích thích, rõ ràng chiến dịch quy mô của Viện xã hội mở nhằm thay đổi văn hóa chính trị của Đông Âu và các quốc gia Liên Xô cũ theo hướng đa nguyên và tự do chính là trường hợp nổi bật nhất. Giáo viên và sinh viên từng có thời gian ở Mỹ hoặc Anh chắc chắn cũng đóng một vai trò quan trọng, bởi ngay từ đầu những năm 1990 Cộng đồng tưởng tượng đã được sử dụng rộng rãi làm sách giáo khoa tại hai quốc gia này. Nhưng đáng chú ý nhất là những trường hợp mà dịch giả và nhà xuất bản có những động cơ nằm ngoài mục đích sư phạm trực tiếp. Bản dịch tiếng Serbo-Croat năm 1990 sở dĩ được xuất bản là vì Silva Meznaric và các cộng sự của bà hy vọng cuốn sách có thể giúp ích cho cuộc đấu tranh cứu “Nam Tư” thoát khỏi sự tự diệt vong đẫm máu. Bản dịch của Ngô Duệ Nhân có mục đích cổ xúy chủ nghĩa dân tộc Đài Loan, thông qua việc giải thích sự xuất hiện khá muộn của nó và phủ nhận hành động của Bắc Kinh nhân danh chủ nghĩa dân tộc Trung Quốc và nhân danh “truyền thống tổ tiên” thừa hưởng từ các hoàng đế Mãn Châu để tuyên bố chủ quyền đối với hòn đảo. Bản dịch tiếng Hy Lạp, như chúng ta đã thấy, là một phần của nỗ lực kiềm chế chủ nghĩa sô vanh địa phương mù quáng đối với “Macedonia” và phê phán các chính đảng cánh tả đã chấp nhận một cách hèn nhát và vô liêm sỉ những lập trường về bản chất thuộc về chủ nghĩa dân tộc cánh hữu. Tương tự, bản dịch tiếng Hebrew của Đại học mở Israel, với lời dẫn nhập của một người Israel gốc Palestine danh tiếng, là một nỗ lực chống lại sự trượt dài vào tệ phân biệt chủng tộc trong nhà nước do đảng cánh hữu Likud lãnh đạo. Bản dịch tiếng Catalan rõ ràng cũng nhằm mục đích giúp Catalonia giành được quyền tự trị tối đa trong cái từng được gọi một cách khéo léo bằng mỹ từ Las España (Các xứ Tây Ban Nha).

Cải biến. Ai cũng biết rằng tác giả sẽ đánh mất cuốn sách của y ngay khi nó được xuất bản và gia nhập vào không gian công cộng. Nhưng cảm nhận sự thực buồn đau này không hề giống việc đối diện với một cuốn sách được dịch sang một ngôn ngữ mà tác giả không hiểu. Y hầu như không biết điều gì đã xảy ra với nó: hiểu sai, xuyên tạc, trực dịch, thêm thắt, lược bỏ, hay phóng tác sáng tạo, tái diễn giải hấp dẫn, thay đổi điểm nhấn và dịch hay hơn bản gốc. Bởi vậy lúc đầu tôi có phần bực mình vì không một dịch giả nào của Đức hay Mexico liên hệ với tôi và bản dịch tiếng Hà Lan chỉ gửi cho tôi vào phút chót. Lúc đó tôi tin rằng cuốn sách vẫn là “của tôi” và không nhớ đến câu châm ngôn mỉa mai traduttori traditori: dịch tất nhiên là một sự phản bội hữu ích. Tôi đã rút ra một bài học khi thư từ thân tình trong một thời gian dài với Pierre-Emmanuel Dauzat. Anh và Pháp mặc dù là những hàng xóm rất gần gũi nhưng lại nổi tiếng vì những khó khăn trong việc chuyển ngữ (tiếng Pháp sang tiếng Anh và ngược lại). Trong bản dịch tiếng Pháp, ngoài những câu chữ tinh tế mà tôi không ngờ tới, dịch giả còn điều chỉnh trật tự của nguyên văn cho phép tôi thấy được điều tôi “thực sự” muốn nói mà không biết nói sao cho thỏa đáng. Bản thân thư từ trao đổi cũng là một dịp khai sáng đối với tôi, điển hình là việc phát hiện ra rằng hình thức Latin của từ “community” đã che khuất phần nào mối quan hệ phái sinh với từ “gemeinschaft” trong tiếng Đức và rằng “imaginé” trong tiếng Pháp không thể chuyển tải những khả thể mờ khuất của “imagined” trong tiếng Anh. Bài học cuối cùng mà tôi rút ra là từ bản dịch tiếng Indonesia đầu tiên bị dịch chui. Ngoài tiếng Anh, tiếng Indonesia là ngôn ngữ mà tôi có thể sử dụng rất thành thạo. Sau khi phát hiện có nhiều đoạn khó hiểu trong bản dịch, tôi đã bỏ ra vài ba tháng làm việc cật lực để “hiệu chỉnh” từng dòng một. Kết quả là một bản dịch mà tôi nghĩ sẽ dễ hiểu hơn nhiều đối với sinh viên Indonesia, có thể giúp họ lĩnh hội được cuốn sách về mặt khái niệm; song nó vẫn có phần thiếu sinh động bởi tôi không đủ bất trung để ly khai khỏi bản gốc. Hệ thống phân chia động từ phức tạp và giàu sắc thái trong tiếng Anh và thói quen dùng thể chủ động “quyền uy” rất đặc trưng của nó vốn là những đặc tính xa lạ với tiếng Indonesia tao nhã. Tiếng Indo ưa dùng thể bị động, lại được phú cho động từ có tiền tố ter rất khó dịch, nên trục đối xứng giữa chủ thể và khách thể có thể biến mất trong một đám mây hàm ý mờ nhòe không dễ gì cắt nghĩa. Ngôn ngữ văn xuôi tao nhã của tiếng Indonesia ngày nay vẫn thấm đẫm tính khẩu ngữ, một đặc điểm đã biến mất từ lâu khỏi tiếng Anh chính thức. Điều này giải thích tại sao trước tác học thuật được Anh hóa của Indonesia tuy có thể chấp nhận được nhưng vẫn tệ hơn các đối tác Anh Mỹ của nó. Bởi vậy lúc đầu, khi bổ sung các cước chú mới cho bản dịch, tôi rất thích sử dụng một ngôn ngữ thường nhật có thể thu hút sự chú ý của độc giả mà không làm họ bực bội, khó hiểu hay hoảng sợ. Nhưng cuối cùng tôi nhận thấy rằng tôi đang sắm vai một người Indonesia, đang dùng hành vi nhân bản lậu nhỏ của mình chiến đấu chống lại hành vi “nhân bản lậu” lớn mà không thu được kết quả nào. “Tôi không nên làm thế”, tôi tự dặn mình, “đó chẳng qua chỉ là một cách thế giọng chính trị,38một biện pháp phi thương mại nhằm biện minh cho tính cả quyết lố bịch của người Mỹ về tác quyền ‘tri thức’ (!)”. Điều này giải thích tại sao trong quá trình giám sát bản dịch Cộng đồng tưởng tượng phiên bản tiếng Thái “hoàng gia”, tôi lại quyết định làm một kẻ phản bội dịch thuật. Cộng đồng tưởng tượng bởi vậy không còn là cuốn sách của tôi nữa.

                                                                            Lưu Ngọc An dịch

Nguồn: Benedict Anderson, Imagined communities: Reflections on the origin and spread of nationalism, Revised edition, Verso 2006, pp. 207-229.

Bản dịch có đối chiếu: 1) Bản Trung văn:想像的共同體:民族主義的起源與散布,Ngô Duệ Nhân  吳叡人dịch, Thời báo văn hóa時報文化xuất bản, Đài Bắc, 2016, tr. 283-318; 2) Bản tiếng Nhật:想像の共同体: ナショナリズムの起源と流行, Shiraishi Takashi 白石隆và Shiraishi Saya 白石さやdịch,Shoseki Kōbō Hayama書籍工房早山xuất bản, Tokyo, 2007, tr. 344-380.

 


* Tôi không thể viết được lời bạt này nếu không có sự giúp đỡ quên mình, trước hết của em trai tôi Perry, tiếp đến của Choi Sung-eun, Yana Genova, Pothidi Hantzaroula, Joel Kuortti, Antonis Liakos, Silva Meznaric, Göran Therborn và Tony Wood. Tôi muốn bày tỏ lời cảm ơn sâu sắc nhất đến tất cả.

1. Franco Moretti (sinh 1950): Nhà phê bình văn học Marxist người Ý, giáo sư Khoa Văn học so sánh, Đại học Stanford. Ở đây Anderson đang nhắc tới công trình Bản đồ tiểu thuyết châu Âu, 1800–1900 [Atlas of the European Novel, 1800–1900] được Verso xuất bản năm 1998. Công trình của Franco Moretti tập trung phân tích mối quan hệ giữa địa lý và tiểu thuyết châu Âu thế kỷ XIX, bao quát hai nội dung chính: các không gian trong tiểu thuyết (địa lý của các cốt truyện, các ý tưởng, các nhân vật và sự kiến tạo không gian quốc gia trong tiểu thuyết) và tiểu thuyết trong không gian (sự lan truyền của tiểu thuyết ra ngoài biên giới quốc gia nhờ hoạt động dịch thuật). Cái mà Anderson gọi là “sự phổ biến thư tịch xuyên quốc gia” được Moretti bàn đến trong nội dung thứ hai, tập trung ở chương 3 “Các thị trường tự sự” [Narrative markets] của sách (ND).

2. Bên cạnh ưu thế về sự khúc chiết, Cộng đồng tưởng tượng còn nhẹ nhàng kết hợp một cặp từ [tức “tưởng tượng” và “cộng đồng” -ND] mà những con quái vật của sự sáo rỗng giờ đây đã hút gần như toàn bộ máu.

3. Elie Kedourie (1926-1992):Sinh tại Baghdad, sang Anh từ những năm 1940 và trở thành chuyên gia lớn về lịch sử Trung đông.Ông nổi tiếng với quan điểm bảo thủ và chủ trương ủng hộ Đế quốc Anh. Cuốn sách quan trọng nhất của Kedourie về chủ nghĩa dân tộc là Nationalism, được xuất bản lần đầu năm 1960. Trong công trình này, xuất phát từ lịch sử tư tưởng, Kedourie đã phê phán những sai lầm của nguyên tắc tự quyết dân tộc, coi đây là hệ quả ảnh hưởng của triết học Kant và là nguyên nhân dẫn đến sự đối đầu giữa các dân tộc và những bất ổn trên toàn cầu. Nhà xã hội học Ernest Gellner đã phản bác lập trường mà ông coi là duy tâm này và cho rằng chủ nghĩa dân tộc không phải là hệ quả của những sai lầm trí thức mà là sản phẩm tất yếu của các quá trình kinh tế và công nghệ (ND).

4. Anthony D. Smith (1939-2016): Nhà xã hội học người Anh, giáo sư danh dự của Trường kinh tế London. Ông từng là sinh viên cũ của Ernest Gellner nhưng không theo đường hướng của thầy. Dù vẫn đồng ý chủ nghĩa dân tộc là sản phẩm của xã hội hiện đại, nhưng ông khẳng định các dân tộc có nguồn gốc từ xã hội tiền hiện đại, tức phát triển từ các hạt nhân tộc người. Ông gọi cách tiếp cận của mình đối với chủ nghĩa dân tộc là chủ nghĩa tộc người biểu tượng (ethnosybolism) – nhấn mạnh vào các huyền thoại, các biểu tượng và các truyền thống trong quá trình xây dựng và duy trì nhà nước hiện đại. Các nghiên cứu của ông bắt đầu công bố từ những năm 1970 lại nay, có thể kể đến một số công trình tiêu biểu: Nguồn gốc tộc người của các dân tộc [The Ethnic Origins of Nations], 1986; Chủ nghĩa tộc người biểu tượng và chủ nghĩa dân tộc: Một tiếp cận văn hóa [Ethno-Symbolism and Nationalism: A Cultural Approach], 2009… (ND).

5. Kedourie xuất thân ở Baghdad, Gellner xuất thân ở Prague, trong khi mẹ của Hobsbawm là người Vienna. Có lẽ do những xuất thân này mà Kedourie quan tâm tới Cận Đông và một số khu vực khác ngoài Cận Đông. Cuốn sách của ông về chủ nghĩa dân tộc ở châu Á và châu Phi xuất bản năm 1970 [Chủ nghĩa dân tộc ở châu Á và châu Phi (Nationalism in Asia and Africa), New York, 1970 -ND]. Tiểu luận đầu tiên của Gellner về những vấn đề chủ nghĩa dân tộc phần nào là một câu trả lời đối với Kedourie. Cuốn sách lớn của Hobsbawm về chủ nghĩa dân tộc đến năm 1990 mới được xuất bản [Dân tộc và chủ nghĩa dân tộc từ 1780: Chương trình, huyền thoại, thực tế (Nations and Nationalism since 1780: Programme, Myth, Reality) -ND], song ông đã tấn công các luận điểm của Nairn trên New Left Review vào mùa thu năm 1977 và có vai trò chính trong việc giới thiệu với thế giới Anglo-Saxon công trình so sánh uy tín của Miroslav Hroch về các phong trào dân tộc chủ nghĩa ở Trung và Đông Âu. [Miroslav Hroch (sinh 1932): Sử gia người Czech, giáo sư Đại học Charles, Prague, tác giả của công trình nổi tiếng về chủ nghĩa dân tộc được xuất bản bằng tiếng Czech năm 1968 và được Benfowkes dịch ra tiếng Anh năm 1985: Các điều kiện quyết định về mặt xã hội của việc phục hưng dân tộc ở châu Âu (Social Precondition of National Revival in Europe) -ND].

6. Maghred:Thuật ngữ tiếng Ả rập, nghĩa là “phía Tây” hoặc “mặt trời lặn”, dùng để chỉ khu vực tây bắc Phi châu hay tây Ai Cập, gồm các quốc gia Morroco, Tunisia, Libya, Algeria ngày nay (ND).

7. Kedourie chắc chắn thạo tiếng Ả rập, nhưng công trình của ông không thể hiện rõ điều đó. Cuốn sách in năm 1970 của ông chủ yếu là một tuyển tập văn bản của các trí thức dân tộc chủ nghĩa ở châu Á và châu Phi, kèm một lời giới thiệu bao quát và gay gắt do ông viết.

8. Partha Chatterjee (sinh 1947): Sử gia, lý thuyết gia hậu thực dân người Ấn Độ. Ông cho rằng việc Benedict Anderson lập ra các mô hình (models) chủ nghĩa dân tộc ở châu Âu và châu Mỹ và coi chúng là kinh nghiệm cho các chủ nghĩa dân tộc ngoài châu Âu là biểu hiện của chủ nghĩa phổ quát phương Tây (Western universalism). Đặt trong phối cảnh rộng hơn, ông coi diễn ngôn về chủ nghĩa dân tộc của các xã hội châu Á và châu Phi chỉ là diễn ngôn phái sinh từ châu Âu, hệ quả của quyền lực thực dân và của khoa học xã hội phương Tây giai đoạn hậu Ánh sáng. Chi tiết về phê phán của Chatterjee, xem công trình của ông Tư tưởng dân tộc chủ nghĩa và thế giới thuộc địa: Một diễn ngôn phái sinh [Nationalist Thought and the Colonial World: A Derivative Discourse], University of Minnesota Press, 1986; và Cộng đồng tưởng tượng của ai? [Whose Imagined Community], chương 1 trong Partha Chatterjee, Dân tộc và những phân mảnh của nó: Những lịch sử thuộc địa và hậu thuộc địa [The Nation and Its Fragments: Colonial and Postcolonial Histories], Princeton University Press, 1993(ND).

9. Vận mệnh hiển nhiên (Manifest Destiny): Chủ thuyết ra đời trong những năm 1840 và thịnh hành trong những năm 1890 tại Mỹ, cho rằng Hoa Kỳ có sứ mệnh mở rộng lãnh thổ khắp lục địa Bắc Mỹ và sứ mệnh này là hiển nhiên không cần bàn cãi. Về sau khái niệm này còn được sử dụng để phê phán chính sách của Mỹ trong việc can thiệp vào Trung Đông và các khu vực khác (ND).

10. Karl Deutsch (1912-1992): Nhà chính trị học người Đức gốc Do Thái, tác giả của một trong những công trình kinh điển về chủ nghĩa dân tộc xuất hiện sớm nhất sau Thế chiến thứ hai Chủ nghĩa dân tộc và truyền thông xã hội: Một nghiên cứu về những nền tảng của dân tộc [Nationalism and Social Communication: An Inquiry into Foundations of Nationality], New York, 1953 (ND).

11. Quality Press: Phạm trù của báo chí Anh, chỉ những tờ báo lớn có nội dung nghiêm túc và uy tín (ND).

12. Edmund Leach (1910-1989): Nhà nhân học xã hội người Anh, giảng dạy tại Đại học Cambridge, nổi tiếng với công trình Các hệ thống chính trị vùng cao Miến Điện: Một nghiên cứu về cấu trúc xã hội của người Kachin [Political Systems of highland Burma: A study of Kachin social structure], Havard University Press, 1954. Ông cũng được biết đến với vai trò chính trong việc giới thiệu Claude Lévi-Strauss tại Anh trong những năm 1970. Conor Cruise O’Brien (1917–2008): Nhà báo, chính trị gia người Ireland, bộ trưởng Bộ bưu điện Ireland từ 1973 đến 1977, tổng biên tập tờ The Observer từ 1978 đến 1981. Neal Ascherson (sinh 1932): Nhà báo nổi tiếng người Scotland, từng làm việc cho nhiều tờ báo tại Anh, lâu nhất là tờ The Observer (1960-1990) và The Independent on Sunday(1990-1998). Winston James (sinh 1956): Sử gia người Jamaica, nhận bằng tiến sĩ tại Trường kinh tế và khoa học chính trị, Đại học London, giáo sư lịch sử Đại học California, Irvine, chuyên gia về di dân châu Phi(ND).

13. Năm 1998, Campusverlag đã cho in một ấn bản mới thay thế tượng đài Hermann bằng một bức ảnh kinh khủng nói về một vụ bạo động quần chúng: nhà cửa bốc cháy, người dân hoảng sợ, những kẻ khởi loạn đốt phá. Năm 2005, nhà xuất bản này quyết định tái bản cuốn sách(trong chuỗi các đầu sách “kinh điển”), nhưng bìa sách thì giản dị và không có gì đặc biệt. Ấn bản này in một lời bạt dài của Thomas Mergel, trong đó ông có đưa ra một số suy ngẫm về tình hình tiếp nhận Cộng đồng tưởng tượng và đề cập đến những tư liệu đáng báo động liên quan đến việc lưu truyền cuốn sách trên mạng.

14. Bossa nova: Một thể loại âm nhạc được các nhạc sĩ trẻ và sinh viên đại học Brazil phát triển và phổ biến trong những năm 1950 và 1960. Bossa nova lấy chủ đề tuổi trẻ, tình yêu, khát vọng và sự lạc quan. Cinema Novo (Điện ảnh mới): Phong trào điện ảnh lưu hành ở Brazil những năm 1960 và 1970 nhằm chống lại điện ảnh Brazil truyền thống, chống văn hóa tiêu dùng, đề cao trí thức, chính trị cá nhân, thị hiếu phong cách và công bằng xã hội. Bienniale: Tức Triển lãm nghệ thuật SãoPaulo, được tổ chức hai năm một lần, do Ciccillo Matarazzo (1898-1977) thành lập năm 1951. Đây là được coi là một trong những triển lãm nghệ thuật quốc tế lớn nhất tại Brazil và Nam Mỹ. Ở đây có thể có chút nhầm lẫn của tác giả, bởi Bienniale được tổ chức tại SãoPaulochứ không phải tại Brasilia (ND).

15. Từ 1992 đến 1996, Meznaric thành lập và điều hành Dự án về di dân cưỡng bức của nhóm chuyên gia nhân đạo (Humannitarian Expert Group Project on Forced Migration). Hiện nay bà đang giảng dạy tại Đại học Ljubljana và là cố vấn cao cấp của Viện nghiên cứu di dân và tộc người tại Zagreb.

16. Cảm ơn Choi Sung-eun đã cung cấp thông tin trên. Điều không may là cha của bà từngcótớihai cuốn sách do Naman xuất bản.

17. Alain Badiou (sinh 1937): Triết gia Pháp theo Marxist cực tả, từng làm trưởng Khoa triết Trường École Normale Supérieure. Giovanni Arrighi (1937-2009): Học giả người Ý, giáo sư kinh tế chính trị và xã hội học Đại học Johns Hopkins, nổi tiếng với các công trình bàn về nguồn gốc và chuyển biến của chủ nghĩa tư bản toàn cầu. Catherin Alice Mackinnon (sinh 1946): Học giả, luật gia, nhà nữ quyền luận người Mỹ, hiện là giáo sư luật tại Trường luật, Đại học Michigan (ND).

18. Oliver Roy (sinh 1949): Nhà khoa học chính trị người Pháp, chuyên gia về Hồi giáo và các nước Trung Á, Trung Đông (ND).

19. Cảm ơn Tony Wood đã cung cấp lịch sử này của Metis.

20. Cảm ơn Göran Therborn đã cung cấp những thông tin này cho tôi.

21. Thành phố đang được nhắc tới đây là Chicago. Bản dịch tiếng Nhật, tr. 359, nhầm thành Rome. Xem công trình của Marco d’Eramo, Lợn và nhà chọc trời: Chicago: Một lịch sử của tương lai chúng ta [The Pig and the Skyscraper: Chicago: A History of Our Future], Verso, 2002 (ND).

22. André Malraux (1901-1976): Tiểu thuyết gia, chính trị gia người Pháp, từng có 10 năm làm Bộ trưởng Bộ văn hóa (1959-1969) dưới thời tổng thống Charles de Gaulle. Ngô Duệ Nhân cho biết, trả lời thư thắc mắc của ông, Anderson đã giải thích việc nhắc đến Malraux trong câu này như sau: “Khi Malraux làm Bộ trưởng (dở) Bộ văn hóa trong nội các thứ nhất của De Gaulle, kế hoạch chính của ông là làm sạch tất cả những tòa nhà nổi tiếng của Paris bị khói bụi bám đen mặt tiền. Thời gian và ô nhiễm công nghiệp đã làm cho bề mặt những tòa nhà này bị ố đen. Mục đích của ông là tốt đẹp, tuy nhiên nhiều người chế giễu rằng những tòa nhà này bị tước mất cảm quan lịch sử, mang vẻ ngoài sạch sẽ có hơi hướng tư sản, giống cách giả trang trong triển lãm của bảo tàng. Giống như lãnh đạo của ông (De Gaulle), Malraux rất hào hứng trước kế hoạch phù phiếm này”. Xem chú thích 36, tr. 317, bản dịch tiếng Trung (ND).

23. Carlo Ginsburg (sinh 1939): Sử gia người Ý, một trong những người tiên phong của nghiên cứu “vi lịch sử” (tiếp cận lịch sử qua những đơn vị nghiên cứu nhỏ), nổi tiếng với công trình xuất bản năm 1976 Pho mát và côn trùng: Vũ trụ của một người thợ xay thế kỷ XVI [The Cheese and the Worms: the Cosmos of a Sixteeth-Century Miller]. Natalic Zemon Davis (sinh 1928): Sử gia người Mỹ, giáo sư lịch sử Đại học Toronto, Canada, chuyên gia về lịch sử văn hóa và xã hội châu Âu giai đoạn sơ kỳ. Bà cũng nổi tiếng với những công trình “vi lịch sử”, đặc biệt là Sự trở về của Martin Guerre [The Return of Martin Guerre] xuất bản năm 1983 (ND).

24. Cảm ơn Antonis Liakos đã cung cấp những thông tin cơ bản này cho tôi.

25. Theo Liakos, Pothiti Hantzaroula là một “học giả xuất sắc, từng viết một cuốn sách bằng tiếng Anh lấy chủ đề Sự hình thành tính lệ thuộc và những người giúp việc gia đình tại Hy Lạp giai đoạn 1900–1950. Hiện cuốn sách của bà vẫn chưa được xuất bản”.

26. Sau khi tách khỏi Liên bang Nam Tư năm 1991, tên gọi Macedonia trở thành một chủ đề tranh cãi giữa Hy Lạp và nước Cộng hòa Macedonia mới thành lập. Lý do là Macedonia cũng là tên khu vực rộng lớn phía bắc Hy Lạp, nơi giáp ranh với Cộng hòa Macedonia. Hy Lạp coi tên Macedonia là một phần văn hóa của mình và giận dữ vì tên gọi này hàm ý Macedonia muốn đòi lại khu vực phía bắc Hy Lạp (ND).

27. Cảm ơn Pothiti Hantzaroula đã cung cấp thông tin này.

28. Tôi dịch ý từ một bức thư mới nhận được gần đây của Liakos.

29. Trong tay tôi chỉ có một danh mục không đầy đủ những đầu sách này. Điều thú vị là sách của các tác giả Mỹ không hề chiếm số lượng áp đảo. Đông nhất là các tác giả Đức, thứ đến là Pháp, Mỹ, rồi mới đến một nhóm tác giả Anh, Ngoài ra còn một người Ý, một người Slovenia, một người Bỉ v.v…

30. Bản dịch tiếng Nhật, tr. 366, bổ sung thêm một số thông tin không có trong bản Anh văn như sau: “Nhờ chính sách này, Cộng đồng tưởng tượng đã được Sabry Hafez -giáo sư văn học hiện đại Ả rập của Trường phương Đông và châu Phi, Đại học London – dịch sang tiếng Ả rập. Tuy nhiên không lâu sau đó, trước sự thù địch của những người theo chủ nghĩa Hồi giáo, Mubarak [tổng thống Ai Cập từ 1981 đến 2011 -ND] đã thay đổi chính sách này. Ngày nay Hội đồng này có lẽ đã bị đình chỉ hoạt động” (ND).

31. Năm 2011 Nhà xuất bản Nhân dân Thượng Hải đã tái bản bổ sung bản dịch của Ngô Duệ Nhân, trong đó đưa trở lại chương 9 và in thêm phần dịch “Du hành và Giao thông”. Tuy nhiên chương 9 vẫn không có được hình thức trọn vẹn của nó: tất cả những đoạn có tính châm biếm liên quan đến nhà cầm quyền Bắc Kinh đều bị cắt. Trong phần dịch “Du hành và Giao thông”, tất cả những câu tác giả phê phán mối liên hệ làm ăn giữa Nhà xuất bản nhân dân Thượng Hải và Thời báo Trung Hoa của Đài Bắc cũng bị cắt. Trong lần tái bản gần đây nhất (2016) của nhà xuất bản này, tình hình kiểm duyệt vẫn không thay đổi. Đáng chú ý trong lần tái bản này là sự xuất hiện một lời giới thiệu thứ hai (bên cạnh lời giới thiệu của Ngô Duệ Nhân) của Wang Hui (Uông Huy) -một giáo sư cấp tiến ở Đại học Thanh Hoa -có tiêu đề “Vấn đề cũ và khó khăn mới của nghiên cứu chủ nghĩa dân tộc: Về nghiên cứu chủ nghĩa dân tộc của Benedict Anderson” và bổ sung thêm hai bài nói chuyện của Anderson tại Đại học Thanh Hoa vào tháng 3 năm 2014 (“Nan đề mới của nghiên cứu chủ nghĩa dân tộc” và “Nghịch lý căn cước của người Hoa ở Đông Nam Á: Trường hợp Thái Lan”). Sự bổ sung này, dĩ nhiên, nằm ngoài kiểm soát của Ngô Duệ Nhân (ND).

32. Prasenjit Duara (sinh 1950): Nhà Hán học người Ấn Độ, giáo sư Khoa lịch sử, Đại học Duke, Hoa Kỳ. Phê phán của Duara tập trung chủ yếu trong công trình Giải cứu lịch sử khỏi dân tộc: Chất vấn các tự sự của Trung Hoa hiện đại [Rescuing History from the Nation: Questioning Narratives of Modern China], University of Chicago Press, 1995.Trong công trình này, sử dụng lịch sử Trung Hoa, Duara phê phán Anderson (cùng với Gellner) đã đặt dân tộc trong tính hiện đại và ấn định một đứt gãy quá rõ đối với các cộng đồng chính trị tiền hiện đại. Việc quá nhấn mạnh vào chủ nghĩa tư bản in ấn (như điều kiện cho sự tưởng tượng một thân phận chung) và khái niệm về tính đồng thời đã bỏ qua mối liên hệ phức hợp giữa ngôn ngữ viết và khẩu ngữ. Trong văn hóa Trung Hoa, mối liên hệ này đã cung cấp một hạng mục văn hóa chung rất phong phú, giúp cư dân có được ý niệm về căn cước trong một trật tự văn hóa và chính trị rộng hơn. Từ phê phán này, Duara nhấn mạnh các cấp độ đa dạng của căn cước và cho rằng cá nhân trong xã hội tiền hiện đại cũng có sự nhận đồng đối với các cộng đồng chung nào đó và khi những nhận đồng này bị chính trị hóa, chúng sẽ giống với cái được gọi là “các căn cước dân tộc” hiện đại. Chi tiết về phê phán của Duara, xem Sđd, chương 2 (ND).

33. Cảm ơn Vương Triệu Hoa đã cung cấp cho tôi nội dung lời giới thiệu này.

34Bản dịch tiếng Nhật cho biết: “Anderson đã nhầm lẫn khi cho Nhà xuất bản xã hội Znak ‘có lẽ’ là nhà xuất bản đại học. Znak là một nhà xuất bản của Thiên chúa giáo được thành lập năm 1959”. Xem Bản dịch tiếng Nhật, chú thích số 2, phần chú của người dịch, tr. 380 (ND).

35. Gemeischaft: Thuật ngữ tiếng Đức do nhà xã hội học người Đức Ferdinand Tönnies (1855–1936) đặt ra nhằm chỉ sự liên kết của những nhóm người dựa trên cảm giác về sự gắn bó và ràng buộc lẫn nhau, tương đương với “community” trong tiếng Anh (ND).

36. Queequeg: Nam nhân vật người Polynesia trong truyện Cá voi trắng [Moby Dick] của nhà văn Mỹ Herman Melville (1819-1891). Xem chương 11 “Ghi nhớ và lãng quên”, tr. 203(ND).

37. Ukania: Chỉ Vương quốc Anh (viết tắt UK), thuật ngữ do Tom Nairn đặt ra dựa trên từ “Kakania” của nhà văn Áo Robert Musil (1880-1942). Trong tiểu thuyết Người không phẩm chất [Man without Qualities] xuất bản năm 1930, Musil đã gọi Đế quốc Áo Hung là “Kakania”. Sở dĩ như thế là vì trong tiếng Đức, Đế quốc Áo Hung được gọi là “k und k”, viết tắt từ “Kaiserlich und Königlich” (đế quốc và hoàng gia), ám chỉ Đế quốc Áo và Hoàng gia Hungary. Tom Nairn đã học theo Musil chế ra từ “Ukania” nhằm châm biếm tham vọng đế quốc của Vương quốc Anh. Bản dịch tiếng Nhật, tr. 373, nhầm Ukania thành Ukraine (ND).

38. Nguyên văn “political ventriloquism” -thuật nói tiếng bụng chính trị, ý tác giả là việc chú giải bản dịch tiếng Indonesia không khác nào mượn tiếng Indo để diễn giải điều mình muốn nói (ND).

 

 

tin tức liên quan

Thống kê truy cập

114600968

Hôm nay

2171

Hôm qua

2394

Tuần này

21569

Tháng này

227585

Tháng qua

131357

Tất cả

114600968