Góc nhìn văn hóa
Về nguồn gốc Nam Á của chữ Đạo 稻 tức cây lúa

Trong một bài viết trước trên vanhoanghean.com.vn người viết đã nêu khả năng chữ đả Hán 打có nguồn gốc Nam Á, thiết âm Trung cổ của đả 打là đô đĩnh thiết, âm đảnh/đỉnh 頂, gần trùng với từ đánh tiếng Việt vốn chính gốc Nam Á.
Trường hợp từ giang 江tức là sông thì giới ngôn ngữ học đều thừa nhận là từ gốc Nam Á nên không cần bàn thêm, âm thượng cổ của nó là/krông/, trùng khớp từ chỉ sông ở các ngôn ngữ phương Nam hiện nay, như Krông Pha tức Sông Pha ở Ninh Thuận…
Bây giờ hãy lưu ý là cả giang và đả đều là những từ phổ thông của Hán ngữ hiện đại, vậy theo lẽ tự nhiên thì có thể còn nhiều từ khác gốc Nam Á mà giới nghiên cứu Hán ngữ chưa tìm hiểu kỹ (hay cố tình lờ đi?). Sau đây người viết xin đề xuất một từ nữa gốc Nam Á, đó là chữ đạo 稻 có nghĩa là cây lúa nước, phân biệt với lúa mì, lúa mạch ở phía Bắc, đây cũng là từ khá thông thường của Hán ngữ, xuất hiện 5 lần trong Kinh Thi. Chữ này Tự điển Thiều Chửu chú rất ngắn gọn và không có hai nghĩa:
稻Đạo: lúa gie, một thứ lúa ưa cấy ruộng có nước, một năm chín hai mùa.
Cuốn từ điển vào càng cổ nhất của Trung quốc là sách Thuyết văn giải tự của Hứa Thận thời Đông Hán, thường gọi tắt là Thuyết văn, cũng chú giải ngắn gọn “稌也 đồ dã”, nghĩa là một thứ lúa nếp.
Phục nguyên âm thượng cổ Hán của chữ này theo hai nhà Hán ngữ học nổi tiếng Baxter và Sagart là luʔ, đọc gần như lúa tiếng Việt (không xét thanh điệu vì thời thượng cổ chưa có thanh điệu), âm cuối tắc họng -ʔ có vị trí phát âm gần như âm cuối - a ở từ “lúa”, khác chỗ là luồng hơi bị chặn lại không tống ra. Như vậy cả ý nghĩa lẫn âm đọc đều cho thấy “đạo 稻” chính là “lúa” tiếng Việt.
Quan hệ biến âm đ<=>l còn lưu tích khá rõ ở tiếng Việt trong các trường hợp sau:
- Trường hợp từ lưỡng lập tức có cả hai dạng âm đọc, ví dụ cái đạc ngựa cũng gọi là lạc ngựa (thứ chuông nhỏ đeo ở cương ngựa). Hay “đéo” với “lẹo”, v.v… Từ điển Việt Bồ La của A.D.Rhodes (1651) cũng ghi chép trường hợp dây lòi tói (xích sắt) âm đọc chính thời đó là đòi tói, còn âm lòi tói chỉ được phụ chú thêm là “cùng một nghĩa”.
- Trường hợp từ Hán Việt là đ-, từ thuần Việt là l- ví dụ:
Đạo 稻- Lúa
Đà 柁- Lái
Đồn 豚(㹠豘) -Lợn
…
3.Lưu tích ở hệ thống từ láy đ/l của tiếng Việt: lác đác, lục đục, long đong, lênh đênh, lờ đờ, lù đù, lảo đảo .v.v…Còn ở phía tiếng Hán thì nhiều nhà ngôn ngữ học phục nguyên nhiều chữ ở thanh mẫu định 定(phụ âm đầu đ-) về phụ âm đầu thượng cổ là l-, nhiều từ Hán gần nghĩa cũng có phân ra hai dạng đ/l như đầu 頭/ lâu 髏, đỉnh 頂/ lĩnh 嶺.v.v...
Tham khảo phục nguyên chữ đạo 稻 của các nhà nghiên cứu khác nhau:
Chữ Hán đạo: 稻, Thanh mẫu trung cổ định: 定, Vận mẫu hào: 豪, Thượng Thanh: 上, Khai khẩu nhất đẳng (开一),Nhiếp hiệu: 效, Thiết âm đồ hạo: 徒晧
Phục nguyên âm thượng cổ:
Karlgren: dʹʊg
Lí Phương Quế: dəgwx
Vương Lực: du
Baxter: luʔ
Trịnh Trương Thượng Phương: lʹuuʔ
Phan Ngộ Vân: luuʔ
Chữ “đạo 稻” theo người viết có khả năng là từ gốc Nam Á căn cứ nhiều luận chứng sau.
1. Từ lúa vốn đã có trong các nhóm ngôn ngữ thuộc ngữ hệ Môn-Khmer tức Nam Á.
Lúa tiếng Mường: ló, tiếng Bru-Vân Kiều: saro, tiếng Katu: haroo… cách đọc đa âm tiết của Vân Kiều và Katu cho thấy đây là từ bản địa, vì nếu vay mượn của Hán ngữ thông qua người Việt, còn người Việt mượn của tiếng Hán trong thời Bắc thuộc, thì lẽ ra đã đơn tiết hóa hết và không thể có phụ âm -r- , vì theo cố GS Nguyễn Tài Cẩn thì quá trình -r- chuyển hóa thành -l- ở Hán ngữ đến thời Hán đã căn bản hoàn thành.
2. Lúa nước là loài mọc ở phương Nam, ưa nước, ưa nắng, một năm có thể trồng hai mùa như Thiều Chửu đã chú, khác với lúa mì hay lúa mạch ở phương Bắc một năm chỉ trồng được một vụ, chính bộ từ điển lớn của Trung Quốc là Khang Hy tự điển cũng chú rõ nguồn gốc phương Nam của chữ đạo “稻….卽今南方所食之米- đạo … tức kim Nam phương sở thực chi mễ” (đạo tức là giống lúa mà người phương Nam thường ăn). Các thông tin nghiên cứu khoa học về AND của cây lúa mới công bố gần đây cho thấy nguồn gốc của giống lúa đang trồng trên khắp thế giới là ở vùng châu thổ sông Châu Giang ở Quảng Đông, Quảng Tây hiện nay, mà đây vốn là đất Lạc Việt cổ. Vậy về logic thì đạo/lúa ít có khả năng là từ gốc Hán - Tạng ở phương Bắc mà là gốc Nam Á hay Thái-Kadai. Nhưng lúa tiếng Thái là “khảu”, tiếng Tày là “khẩu”, tiếng Nùng (tức Choang) cũng tương tự, âm đọc khác “đạo” hay “lúa” nhiều nên phải loại trừ gốc Thái-Kadai ra, chỉ còn gốc Nam Á là khả dĩ nhất.
Tài liệu nghiên cứu về AND cây lúa của nhóm Xuehui Huang, Nori Kurata … có thể tham khảo ở đây: https://www.nature.com/articles/nature11532
3. Về chữ viết thì chính xác mà nói cách viết chữ đạo 稻có bộ hòa 禾chỉ các loài lúa mới có vào thời kim văn, tức cuối Thương qua Chu ở Trung Quốc. Thời giáp cốt văn thì chưa có chữ này mà dùng bộ phận bên phải của nó là chữ yểu 舀. Chữ yểu còn đọc là diểu 舀 là một chữ biểu ý, nhưng ý nghĩa lại không mấy liên quan tới cây lúa, theo sách Thuyết văn thì yểu 舀là 抒臼 (trữ cữu) tức là xúc hay dốc ở cối ra, là động từ chứ không phải danh từ, vả lại trong cái cối của dân Hán Tạng gốc Hoàng Hà đa phần là lúa mạch hay lúa mì chứ đâu phải lúa nước? Cái ý chỉ lúa nước có lẽ là mượn âm chữ 舀 mà thôi vì chữ 舀 phục nguyên âm thượng cổ theo Baxter là ljawʔ cũng có đôi chút giống với luʔ của chữ đạo 稻- cũng theo Baxter.
Tham khảo diễn biến tự hình chữ đạo 稻 ở trang http://vividict.com/WordInfo.aspx?id=2713
Tượng hình chữ đạo 稻 thời giáp cốt văn chính là chữ yểu 舀 gồm cái cối (chữ cữu 臼) phía trên có cái rổ đựng gạo và trấu đã giã biểu thị ý nghĩa “xúc ở cối ra”, “tháo cối” … như cách giải thích của sách Thuyết văn, chứ sách Thuyết văn không hề nói “yểu 舀 là đạo 稻”, cũng không đề cập chi đến các loài lúa khi chú giải chữ yểu 舀.
Tóm lại chữ viết của Trung quốc cho thấy cái nghĩa “lúa nước” của chữ đạo 稻 xuất hiện trong Hán Ngữ tương đối muộn, sau chữ hòa 禾thời giáp cốt văn, điều đó gián tiếp chỉ ra nguồn gốc vay mượn Nam Á của chữ này.
Thảo luận rộng ra từ cây lúa đến nghề nông:
Người Việt phân biệt lúa với gạo, gạo có thể chính là khảu trong tiếng Thái-Kadai, ở tiếng Mường thì gạo là cảo (ký âm quốc tế kaw3), so với khảu của tiếng Thái chỉ khác một chút là nguyên âm a ngắn hơn (=ă) và phụ âm đầu k- có bật hơi (ký âm quốc tế xăw3). Người Việt cũng phân biệt từng bộ phận cụ thể của cây lúa từ cây mạ, cây lúa, hạt lúa, hạt gạo, phân biệt rơm với rạ, trấu với tấm, gạo với cơm, trong khi đó “khảu” của Thái chỉ cả cây lúa lẫn hạt lúa, cả gạo và cả “cơm” ăn luôn. Người Việt cũng phân biệt trâu với nghé, bò với bê (người Thái Việt Nam gọi trâu là quãi, bò là ngũa, còn nghé với bê thì không rõ có từ riêng không)… Nói chung những sự vật liên quan nghề nông, nghề trồng lúa nước thì người Việt phân biệt khá tỉ mỉ, nên người viết bài này rất nghi ngờ cái thuyết cho rằng người Việt học nghề nông từ Thái-Kadai.
Chính người Việt thì nhận Thần Nông, ông tổ nghề trồng lúa theo truyền thuyết của Trung Hoa là tổ của mình, giới khoa học rất dị ứng với mấy cái truyền thuyết “vớ vẩn” này, nhưng nếu lọc bỏ các yếu tố hoang đường thì truyền thuyết đôi khi cũng ẩn chứa sự chút thực lịch sử nào đó, chẳng hạn như tại sao lăng Viêm Đế (dòng Thần Nông thị) lại ở huyện Viêm Lăng, tỉnh Hồ Nam hiện nay, tức ở trên đất Lạc Việt cổ mà không phải ở Hồ Bắc là nơi phát tích họ Thần Nông, cũng không phải ở đất Trần hay đất Khúc Phụ, như sách của Trung Quốc từng chép là dòng Thần Nông ban đầu định đô ở đất Trần, sau rời về Khúc Phụ ở nước Lỗ là đất quê hương Khổng Tử. Tham khảo thêm bài của người viết về chữ lang là làng tức ấp ở nước Lỗ và địa danh Lang Gia cũng ở đất Tề-Lỗ. Tề-Lỗ ở bán đảo Sơn Đông, dân cư vùng này vốn là Đông Di chứ không phải gốc Hán Tạng ở Hoàng Hà, các phát hiện gần đây về AND của gia tộc Tào Tháo ở lăng Ngụy Văn Đế Tào Phi thì thấy thuộc haplogroup O2a* chứ không thuộc nhóm Hán Tạng O3, có vẻ phù hợp việc tổ tiên họ Tào là Tào Tham là dân huyện Bái, thuộc đất Di Hoài. Ngay cả Hán Cao Tổ Lưu Bang cũng là dân đất Bái, Tào Tham tôn phò Lưu Bang từ thuở ban đầu khởi nghĩa, vậy không chừng ADN họ Lưu Hán cũng là O2a* như họ Tào Ngụy? Họ tuy đã theo ngôn ngữ Hán Tạng từ lâu nhưng có lẽ vẫn còn lưu giữ nhiều từ gốc Nam Á, điển hình chính là chữ đả 打dẫn ở đầu bài này. Xin nhắc lại dữ liệu thống kê văn tự của chúng tôi cho thấy chữ đả 打không có ở sách Tiên Tần mà chỉ mới trở nên phổ thông sau thời Hán, có thể nhờ vào sự lên ngôi của họ Lưu chăng? chữ đả xuất hiện sớm nhất là ở sách Cốc Lương truyện là sách của người nước Lỗ, cũng tức là gốc Đông Di chứ không phải Hán Tạng.
…
Còn nhiều chữ nữa có nghi vấn về nguồn gốc Nam Á, chúng tôi đang tiếp tục tìm hiểu.
tin tức liên quan
Videos
Khai hội “Phúc lục ngoạt” đền Yên Lương, thị xã Cửa Lò
Tư tưởng Hồ Chí Minh về tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật cho Nhân dân
Đêm cảm xúc từ “Mạch nguồn Ví, Giặm”
Tính cách người các tỉnh tại Trung Quốc
Lần đầu tiên Festival Dân ca Ví, Giặm Nghệ Tĩnh được tổ chức tại thành phố Vinh, Nghệ An
Thống kê truy cập
114576886

285

2299

285

223943

130677

114576886