Góc nhìn văn hóa
Đóng góp của triều Nguyễn trong cải cách trường học ở Trung Kỳ, 1896-1919

Tóm tắt
Những năm đầu thế kỷ XX đã chứng kiến quá trình cải cách giáo dục diễn ra ở Bắc Kỳ và Trung Kỳ, đặc biệt nhằm vào các trường lớp và thi cử Nho học, vốn là các thiết chế giáo dục chủ đạo ở Trung Kỳ trước năm 1919. Trong cải cách này, các trường làng và giáo làng được đặt dưới sự quản lý của nhà nước. Thày đồ được thay bằng hương sư, những người phải trải qua một khoá học sư phạm ngắn hạn. Trên các trường hương sư (trường Ấu học), là các trường huấn đạo hoặc giáo thụ (trường Tiểu học); và cao nhất là trường đốc học (trường Trung học). Chương trình và sách giáo khoa cho những trường này được đổi mới theo hướng tiếp cận dần với các trường Pháp-Việt. Bài viết trình bày về quá trình cải cách giáo dục ở Trung Kỳ từ năm 1896 đến năm 1919, đặc biệt tập trung vào cải cách trường lớp và các kỳ thi Nho học. Khác với Bắc Kỳ, nơi mọi quyết định cải cách đều được thông qua bởi chính quyền Pháp; ở Trung Kỳ, triều đình nhà Nguyễn được trao quyền ban hành các đạo dụ và chia sẻ việc quản lý, giám sát trường học với các cơ quan của Pháp. Qua tìm hiểu một số chính sách đối với nhà trường, nguồn kinh phí, đào tạo giáo viên, soạn thảo sách giáo khoa mới, đóng góp của triều đình nhà Nguyễn đối với cải cách trường Nho học trước năm 1919 sẽ được thảo luận trong bài.
Trường Tiểu học Pháp - Việt ở Vinh được xây dựng năm 1905
Cùng với việc đặt bộ máy cai trị ở Trung Kỳ, thực dân Pháp tìm cách thay đổi và thực hành chính sách giáo dục mới ở xứ này, tiến hành cải cách trường học và thi cử Nho học, với bước đi chậm hơn so với hai xứ Nam Kỳ và Bắc Kỳ. Ở bài viết này, chúng tôi chú trọng đến tìm hiểu những chính sách mới, hệ thống trường, nguồn ngân sách, đào tạo giáo viên, biên soạn sách giáo khoa và đặc biệt là việc đưa các môn học mới vào trường học và thi cử Nho học. Riêng ở Trung Kỳ, triều đình nhà Nguyễn được trao quyền trực tiếp tham gia vào quá trình cải cách và đã có vai trò và đóng góp nhất định.
Trong nghiên cứu về mười cuộc cải cách trong lịch sử Việt Nam, Giáo sư Văn Tạo tổng kết sáu cải cách được đề xuất và tiến hành bởi những nhân vật giữ chức vụ đầu triều, và bốn tư tưởng đổi mới đưa ra bởi các cá nhân được nhóm thành những phong trào cải cách có ảnh hưởng xã hội to lớn (Văn Tạo, 2002). Riêng thời kỳ Pháp thuộc đã nổi lên hai thời điểm xuất hiện các đề xuất cải cách và tư tưởng đổi mới mang tính cách mạng: “tư duy đổi mới” của Nguyễn Trường Tộ và làn sóng Duy Tân do các chí sĩ Phan Bội Châu và Phan Chu Trinh khởi xướng. Trong bối cảnh hình thành những “cơ hội cải cách” do Nguyễn Trường Tộ đề xuất, triều đình nhà Nguyễn bị coi là “phản động trong việc gạt bỏ những đề nghị duy tân… chặn đứng sự phát triển bình thường của nền kinh tế nước ta” (Văn Tân, 1961, 26; Đặng Huy Vận và Chương Thâu 1961, 58); và sau đó, dường như cả bộ máy triều đình đứng ngoài trào lưu Duy tân, dù có sự hưởng ứng của Vua Duy Tân và hoàng thân Cường Để nhưng vai trò lãnh đạo của họ chưa thể hiện rõ mà chủ yếu mang tính biểu tượng. Lê Thị Lan khi nghiên cứu về cải cách ở Việt Nam cuối thế kỷ XIX đã đưa ra những nguyên nhân thúc đẩy các đề xuất cải cách, trong đó không thấy bóng dáng của những cải cách “từ trên xuống” mà chủ yếu là đề xuất của các cá nhân, dưới ảnh hưởng của bên ngoài, đặc biệt của những trào lưu tư tưởng và thực tiễn xã hội từ phương Tây, qua nhiều con đường thâm nhập vào Việt Nam (Lê Thị Lan, 2002). Tập thể các tác giả trong cuốn sách do Đỗ Bang chủ biên đã đề cập đến vai trò của triều đình Huế trong trào lưu canh tân đất nước nửa sau thế kỷ XIX và đã đưa ra những đánh giá ban đầu về sự quan tâm cũng như hoạt động thực tiễn của triều đình trong phát triển kinh tế, cải thiện công nghệ, cử người ra nước ngoài. Tuy nhiên, ý kiến chủ đạo vẫn là trách nhiệm của triều Nguyễn trong việc bỏ lỡ các cơ hội cải cách dẫn đến hoạ để đất nước rơi vào tay thực dân Pháp (Đỗ Bang, Nguyễn Quang Trung Tiến, Đinh Xuân Lâm, 1999). Những nghiên cứu về cải cách của triều Nguyễn đầu thế kỷ XX thì còn hiếm hoi hơn nữa vì thời kỳ này đất nước đã hoàn toàn nằm dưới ách đô hộ thực dân, và triều đình chịu sự chi phối của chính quyền Pháp về mọi mặt, đặc biệt từ khi chức vụ Kinh lược bị Toàn quyền Doumer bãi bỏ.
Bài viết này tìm hiểu một trong những lĩnh vực cải cách có sự tham gia tích cực của triều Nguyễn vào đầu thế kỷ XX là giáo dục, vốn là một địa phận mà thực dân Pháp vẫn có sự e dè đáng kể và luôn tìm kiếm sự tham vấn từ phía chính quyền và người dân bản xứ. Cho đến năm 1919, khi cải cách chủ yếu tập trung vào các trường Nho học và thi cử truyền thống thì triều đình nhà Nguyễn cũng đã tận dụng quyền lực và khả năng của mình trong ban hành chính sách, đóng góp ngân sách, biên soạn sách giáo khoa theo hướng mới, đưa chữ quốc ngữ và chữ Pháp vào kỳ thi, đào tạo giáo viên.
1. Chính sách cải cách giáo dục của chính quyền Pháp và triều đình Nguyễn trước năm 1919
Là tổng trú sứ đầu tiên của Bắc và Trung Kỳ, Paul Bert đã coi giáo dục là công cụ quan trọng trong việc chinh phục người bản xứ. Ông ta nhận định “Bắc Kỳ giàu có với người dân hiền hòa, chăm chỉ lao động…: họ sẽ làm việc, thu hoạch mùa màng, trả thuế, cần giữ yên nông dân”; trong khi đó đối với Trung Kỳ, một xứ “nghèo và hay gây gổ”, cần “trấn an các nho sĩ, duy trì uy tín nhà Vua, lập một giới chính trị quý tộc, giữ yên giới nho sĩ” (Kotovtchkhine). Giữ một thái độ cầu thị và tôn trọng quyền quyết định của Triều đình An Nam, các cải cách giáo dục mà Pháp định hướng đều có sự tham vấn và trực tiếp điều hành của triều đình.
Trước khi Sở Học chính Trung Kỳ lập năm 1906, người Pháp chỉ kiểm soát một cách lỏng lẻo việc học ở xứ này. Việc mở các trường dạy tiếng Pháp và quốc ngữ chủ yếu nhờ vào các giáo sĩ người Pháp, đặc biệt các sư huynh dòng La San[1]đã sớm lập trường học ở một số thành phố lớn Trung Kỳ. Theo Charles Keith những trường thuộc dòng La San bao gồm Collège d'Adran và Institut Taberd tại Sài Gòn, École Pellerin ở Huế, và Lycée Puginier ở Hà Nội. Các khóa học tại các trường này được giảng dạy bằng cả tiếng Pháp và tiếng Việt cho học sinh người Pháp, người Việt, và con lai, bao gồm hầu hết các môn học có trong giáo dục phổ thông trung học của Pháp như lịch sử, triết học, văn học, toán học, khoa học vật lý, sinh học, và một số giáo dục tôn giáo. Thời kỳ thuộc địa, hầu hết các trường Công giáo cho nam sinh đều nằm dưới sự chỉ đạo của các sư huynh Dòng La San. Các trường nữ như Ecole Saint Paul ở Sài Gòn, Ecole Jeanne D'Arc ở Huế, và École Sainte Marie ở Hà Nội (Keith 2012,33). Năm 1895, theo khảo sát trên khắp các thuộc địa và xứ bảo hộ của Pháp, ở Trung Kỳ có khoảng 1200 trẻ em học các trường dòng; ngoài ra các sơ của trường Saint Paul tổ chức các lớp học cho trẻ mồ côi ở gần Huế, Hội phổ biến Pháp ngữ Alliance francaise mở 1 trường Pháp ở Đà Nẵng (Organisation des colonies francaises.. 1895)
Dấu ấn đầu tiên của chính quyền Pháp trong việc tham gia trực tiếp vào cải cách giáo dục ở Trung Kỳ là mở hai cơ sở giáo dục mới: trường Quốc học năm 1896 và trường nghề Huế năm 1899. Một hệ thống văn bản pháp lý song song đã được sử dụng liên quan đến việc thành lập hai trường này. Các nghị định của chính quyền Pháp cũng như của các Hoàng đế Việt Nam đều tham chiếu lẫn nhau với thái độ cầu thị.
Một trong những cơ sở cho Nghị định ngày 18-11-1896 của Toàn quyền Đông Dương Rousseau về lập trường Quốc học là Chỉ dụ của Vua Thành Thái ngày 23-10-1896 (tức ngày 17-9 năm thứ Tám Thành Thái) (Bulletin officiel de l’Indochine francaise, 1896,1453). Trường thay thế cho Ty Hành Nhân (còn gọi là Ty Thông ngôn), vốn là một trường đào tạo ngoại ngữ cho các sứ thần, phiên dịch của triều đình (Quốc sử quán 2007,323)
Sau khi Nghị định 18-11-1896 của Toàn quyền ban hành được 2 tháng, Vua Thành Thái ra Dụ tuyên chính thức lập trường, nội dung chiểu theo Nghị định của Pháp (Quốc sử quán 2011, 264). Ngay phần mở đầu Dụ đã đề cập đến vai trò của Khâm sứ Pháp trong sáng kiến đề xuất mở trường này “Trước là Khâm sứ Bière bàn về các khoản sinh viên Quốc tử giám nên học thêm chữ Tây, phép thi nên thêm phần thi chữ Tây cùng quy thức học tập ở Ty Hành nhân ..Bèn đặt hội đồng cùng bàn, kế Nghị định ban dụ thi hành” (Quốc sử quán 2011, 264)
Việc dạy chữ Hán và tiếng Pháp được cả hai văn bản đề cập đến như một vấn đề ngôn ngữ quan trọng. Nghị định của Toàn quyền nêu “Trường Quốc học dạy học sinh tiếng Pháp và cả chữ Hán để sau này ra làm quan có thể sử dụng cả hai ngôn ngữ” (Bulletin officiel de l’Indochine francaise, 1896, 1453). Dụ của Vua Thành Thái “việc giao thiệp hiện nay thì hiểu rõ ngôn ngữ thông suốt tình lý đang là điều cốt yếu, các viên Chưởng học đều nên cẩn thận theo đúng khoá trình gia tâm đào tạo để người học thông hiểu cả chữ Tây chữ Hán” (Quốc sử quán.. 2011, 266) Cả hai văn bản đều nêu rõ ba đối tượng được vào học trong trường: 1) Diện có học bổng của triều đình và được tuyển thẳng gồm các công tử (con của các hoàng tử), tôn sinh (con cái gia đình hoàng gia), ấm tử (con quan), học sinh trường Hành Nhân, học sinh trường Quốc Tử Giám; 2) tất cả thanh niên người Việt muốn theo học và đủ điều kiện sau khi đỗ kỳ thi sát hạch, đủ trình độ chữ Hán để hiểu bài giảng; 3) trẻ em từ 8 đến 15 tuổi có thể theo học các khoá đặc biệt, phụ huynh phải có sự đồng ý của trưởng giáo. Nghị định nêu rõ Giám đốc trường do Khâm sứ Trung Kỳ bổ nhiệm và thành phần nhân sự phải do Khâm sứ thông qua, trong khi ngân sách hoạt động của trường hoàn toàn do Triều đình Huế chịu trách nhiệm (Đại Nam thực lục 2011). Một Nghị định cùng ngày của Toàn quyền Đông Dương bổ nhiệm ông Ngô Đình Khả làm Hiệu trưởng nhà trường. Đây cũng là vị hiệu trưởng người Việt duy nhất cho đến năm 1945. Kể từ năm 1902 cho đến năm 1945, tất cả các hiệu trưởng đều là người Pháp. Tháng 3-1897 (tính theo âm lịch), trường Quốc học có Đốc học và trợ giáo dạy tiếng Pháp, đều là người Việt (Quốc sử quán, 2011, 275)
Năm 1899 Vua Thành Thái ra Dụ lập trường dạy nghề Huế. Đại Nam thực lục ghi: “Năm Thành thái thứ 11 (1899), tháng 10[2]. Bắt đầu đặt Trường Bách công ở kinh thành”. Đây cũng là trường dạy nghề duy nhất do triều đình nhà Nguyễn lập ra ở Việt Nam thời Pháp thuộc. Đạo Dụ này cũng không quên nhắc tới vai trò của người Pháp “Khâm sứ đại thần Boulloche bàn nói hiện nay việc xây dựng ngày càng gấp rút, cần nhiều loại thợ, nên lập một trường học tập kỹ nghệ để ngày sau gặp việc ứng biện có người mà dung” (Quốc sử quán, 2011, 334)
Trường Bách công dạy các nghề thợ sắt, thợ mộc, thợ rèn. Theo đạo dụ, trường tuyển khoảng 200 học trò, mỗi tháng được 3 đồng học bổng. Để tốt nghiệp, học sinh phải dự một kỳ thi tay nghề, ai đỗ được cấp cho một sổ thợ, một tấm bằng. Trường hoạt động dựa trên nguyên tắc chia sẻ ngân sách giữa triều đình Việt Nam và ngân sách Trung Kỳ, trong đó ngân sách triều đình chiếm phần lớn. Việc giảng dạy chủ yếu do các giáo viên người Việt đảm nhiệm, chính quyền Pháp tham gia quản lý chi tiêu cũng như lập hội đồng giám sát. (Quốc sử quán 2011, 334)
Năm 1900, Vua ra tiếp đạo dụ điều chỉnh quy định về học sinh và nhân lực nhà trường. Theo đó trường có 13 giáo viên, 151 công nhân, 72 học trò tổng học bổng mỗi tháng 897 đồng, 100 giản binh giúp việc. Niên hạn nhà trường là 3 năm, học sinh sau khi tốt nghiệp được cấp bằng thợ, được bố trí việc làm hoặc tự lo công việc. (Quốc sử quán 2011, 343)
Trường tổ chức dạy các ngành truyền thống như mộc, rèn, sắt và hoạt động như một trường học-xưởng nghề với sự chỉ dẫn của các đốc công người Việt. Tuy nhiên, trong bối cảnh hạ tầng cơ sở phát triển, giao thông vận tải đường bộ và đường thuỷ tăng, dẫn tới phát sinh nhu cầu phải có thợ sửa chữa các loại xe cộ và máy móc. Năm 1907, theo gợi ý của Khâm sứ Levecque, Vua Thành Thái ra Dụ về việc mở rộng các ngành nghề đào tạo và hướng tới những ngành trực tiếp phục vụ cho nhu cầu thị trường. (Quốc sử quán 2011, 477)
Sau khi Toàn quyền Paul Beau lên nắm quyền, chính sách giáo dục được định hình rõ ràng hơn. Một loạt nghị định về việc thành lập các cơ quan quản lý giáo dục cho thấy chủ trương nhà nước nắm giữ vai trò kiểm soát và hướng tới một hệ thống giáo dục thống nhất toàn Đông Dương. Triều Nguyễn cũng tích cực hưởng ứng cải cách thi cử và đổi mới trường Nho học, tạo nên một sự chuyển mình mạnh mẽ trong giáo dục thời kỳ này.
Ngày 27 tháng 4 năm 1904, Tòan quyền Đông Dương Paul Beau ra một loạt nghị định, chủ yếu tập trung vào việc lập cơ quan quản lý giáo dục và tổ chức trường Pháp và Pháp-Việt ở Bắc Kỳ. (Trần Thị Phương Hoa 2012) Cũng trong số các văn bản phê chuẩn dịp này, Nghị định về vị trí thanh tra trường công và trường tư toàn Đông Dương đã được ban hành, cho thấy chính quyền Pháp chủ trương dần dần thâu tóm việc kiểm soát giáo dục ở tất cả các xứ. Trong khi Nam Kỳ và Bắc Kỳ đã có các Sở Giáo dục và sớm phát triển các trường Pháp-Việt thì ở Trung Kỳ, thư ký Toàn quyền Broni cho rằng “những nguồn tài nguyên phục vụ giáo dục còn thiếu thốn, và tất cả vẫn đang trong quá trình thực hiện” (Bulletin officiel de l’Indochine francaise 1904, 353). Trong bối cảnh hoạt động của các trường học Pháp-Việt mới được lập ra còn chuệch choạc thiếu sự thống nhất, các thanh tra sẽ có nhiệm vụ thị sát tất cả các trường học ở Đông Dương, báo cáo lại với Toàn quyền và nhận chỉ dẫn để giúp trường học ngày càng hoàn thiện.
Quá trình nhất thể hoá nền học chính Đông Dương được củng cố thêm bởi Nghị định ra ngày 20 tháng 6 năm 1905 về thành lập Tổng nha Học chính Đông Dương. Sở Học chính Trung Kỳ được thành lập năm 1906, muộn nhất so với hai xứ Nam Kỳ và Bắc Kỳ. Trong khi đó, Triều đình An Nam đã có sáng kiến tạo ra một cơ quan giáo dục riêng, thay cho Bộ Lễ vốn vẫn quản lý hoạt động học và thi. Năm 1907, Vua ban Dụ lập ra Bộ Học, hưởng ứng trào lưu tân học đang trở nên rầm rộ “phong hội vừa mới mở ra, văn minh ngày càng tiến triển, cách học cách thi đều đã lần lượt cải lương, mà bộ Học chưa từng đặt riêng, thì không phải là hợp với thời nghi..Đặt thêm một bộ cạnh Lục bộ, gọi là bộ Học” (Quốc sử quán 2011,486) đứng đầu là Thượng thư Cao Xuân Dục.
Ngày 8-3-1906 Toàn quyền Paul Beau ký nghị định thành lập Hội đồng hoàn thiện giáo dục bản xứ Đông Dương nhằm tổ chức lại các trường Nho giáo theo lối mới với mục tiêu cuối cùng là chuyển các trường Nho giáo thành trường Pháp-Việt. Cơ sở cho việc thành lập Hội đồng này được Tổng thư ký Phủ Toàn quyền Broni đưa ra « Vào thời điểm khi mà cải cách nền giáo dục bản xứ là bắt buộc, những quyết định của chính quyền địa phương trở nên đặc biệt quan trọng, chính là nhờ vào năng lực nhân sự, Pháp cũng như châu Á, vốn đã có kinh nghiệm về đạo đức và tâm lý người bản xứ, hiểu biết về lịch sử, triết học và ngôn ngữ Viễn Đông, hoặc nhờ những nghiên cứu của họ về phương pháp sư phạm ở các vùng lân cận. Họ cần phải nhóm họp lại với nhau để lập ra một Hội đồng hoàn thiện giáo dục bản xứ, trực thuộc Toàn quyền và khởi xướng các hoạt động » (Bulletin officiel de l’Indochine francaise1906, 345-346) Ngày 16-5 cùng năm, Toàn quyền ra nghị định lập ở mỗi xứ một Uỷ ban hoàn thiện giáo dục bản xứ (Bulletin officiel de l’Indochine francaise 1906, 694); đồng thời ra nghị định về biên soạn sách giáo khoa cho các trường này (Bulletin officiel de l’Indochine francaise1906)
Kết quả của những thảo luận diễn ra hơn một tháng của Hội đồng này là một chương trình cải cách giáo dục Bản xứ. Ngày 31-5-1906 (tức ngày 9-4 năm Thành Thái thứ 18), Hội đồng Cơ mật trình Bản Quy chế giáo dục về cải cách trường Nho học và các kỳ thi Hương (Bản Quy chế giáo dục, 2008). Nội dung chủ yếu của Bản quy chế giáo dục là đưa các trường bản xứ vào hệ thống giáo dục công, gồm có ba bậc: 1) Bậc Ấu học lập ở làng, ngân sách và việc thuê thầy do làng tự tổ chức lấy, các Giáo thụ (truờng Phủ), Huấn đạo (trường Huyện) trong vùng có trách nhiệm giám sát việc học ở trường này; trường Ấu học dạy chữ Hán và chữ Quốc ngữ; tốt nghiệp Ấu học, học sinh dự thi Tuyển, đỗ gọi là “Tuyển sinh”; 2) Bậc Tiểu học dạy ở phủ, huyện (trường Giáo thụ, trường Huấn đạo). Ở bậc này, học sinh học chữ Hán và chữ Quốc ngữ, thêm môn số học và địa lý, lịch sử đơn giản; tốt nghiệp Tiểu học, học sinh dự thi Khảo khóa, đỗ gọi là “Khóa sinh”; 3) Bậc Trung học dạy ở các trường tỉnh (trường Đốc học). Trường dạy chữ Hán, chữ Quốc ngữ và tiếng Pháp. Chữ Hán do Đốc học dạy, chữ Quốc ngữ và tiếng Pháp do giáo viên trường Pháp-Việt sở tại dạy. Tốt nghiệp Trung học, học sinh thi “Hạch”, đỗ gọi là “Thí sinh”. Kể từ năm 1909, chỉ những người có bằng “Thí sinh” mới được dự thi Hương.
Chương cuối cùng của Bản Quy chế giáo dục dành cho việc học Pháp-Việt, theo đó mối quan hệ giữa trường Nho giáo bản xứ và trường học mới đã được quy định rõ ràng “chỉ những người nào có bằng Tuyển sinh mới được vào học trường Tiểu học Pháp-Việt”. Bản Quy chế này đã được Toàn quyền Broni phê chuẩn ngày 14-9-1906 và được coi là chuẩn mực cho việc học và thi cử cho đến năm 1918 (Bulletin officiel de l’Indochine francaise1906, 1209)
Cuộc cải cách mà Paul Beau đề ra làm thay đổi tận gốc rễ hệ thống trường Nho học, nhưng yếu tố hiện đại của một nền giáo dục mới vẫn chưa được định hình rõ nét. Với một nguồn kinh phí hạn hẹp, các trường học Pháp-Việt vẫn chưa thật sự phát triển.
Bảng 1:Ngân sách cho học chính Trung Kỳ, 1907-1910 |
|||||||
Năm |
|
|
Ngân sách Triều đình |
Ngân sách chính quyền Pháp |
|||
1906 |
Thành lập Sở học chính |
80.000 |
34.116 |
||||
1907 |
80.000 |
45.35 |
|||||
1908 |
80.000 |
55.176 |
|||||
1909 |
80.000 |
56.298 |
|||||
1910 |
80.000 |
59.265 |
|||||
Nguồn: Les Annales Coloniales, 1913, “Enseignement en Annam”, 3-6-1913
Năm 1906 là năm bắt đầu thực hiện cải cách cũng là năm thành lập Sở học chính Trung Kỳ, ngân sách của chính quyền Trung Kỳ chi cho giáo dục là hơn 34 ngàn đồng Đông Dương. Trong khi đó lương của Hiệu trưởng trường Quốc học là 5 ngàn đồng (11ngàn fr), lương giáo viên người Pháp từ 1.700 đên 4 ngàn đồng, theo quy định của Nghị định 27-4-1904. Như vậy, chi phí dành cho học chính chỉ đủ trả lương cho bộ máy quản lý và giáo viên. Thời gian này, Triều đình Nguyễn hàng năm vẫn dành một khoản ngân sách là 80 ngàn đồng cho giáo dục (Les Annales coloniales 1913) chủ yếu phục vụ cho cải cách trường Nho học, hỗ trợ cho việc dạy và học quốc ngữ, chữ Pháp, các môn khoa học.
Cuối năm 1917, Toàn quyền Albert Sarraut thông qua Học chính Tổng quy, ban hành quy chế giáo dục mới cho toàn Đông Dương, đồng thời gây sức ép với triều đình phải bỏ việc học và thi cử kiểu cũ. Trong nội bộ triều đình có hai ý kiến trái ngược. Thượng thư bộ Học Hồ Đắc Trung ủng hộ việc bỏ thi cũ và đào tạo người tài “như thi tốt nghiệp trong trường học” (Quốc sử quán 2012, 213). Thượng thư bộ Lại Nguyễn Hữu Bài, trái lại, chủ trương duy trì việc chọn người tài thông qua thi cử theo lối cũ vì đó là cách để “người nghèo cũng có đường tiến thân”, do đó “phép thi nên thay đổi chứ không nên đình bãi” (Quốc sử quán 2012, 213). Vua Khải Định có ý muốn phát triển học chữ quốc ngữ và bỏ chữ Hán. Ngày 26-10-1918 (theo Tây lịch) bộ Học dâng tâu đình bãi thi cử, Vua Khải Định phê chuẩn. Kỳ thi Hội cuối cùng diễn ra vào năm 1919 khép lại nền Nho học đã tồn tại gần ngàn năm ở Việt Nam, mở ra một thời kỳ phát triển mới cho giáo dục. Ngày 14-7-1919 Vua ra Dụ cho thi hành Học chính Tổng quy ở Trung Kỳ, theo đó tất cả “Học pháp quy tắc do Chính phủ Bảo hộ tuỳ nghi nghĩ định; học sinh tốt nghiệp do Chính phủ Bảo hộ cấp phát văn bằng; trường Hậu bổ đổi thành một phân hiệu của trường Pháp chính ở Hà Nội, giáo pháp theo chương trình trường Luật học; trường Quốc tử giám thuộc quyền đôn đốc của Nam triều” (Quốc sử quán 2012, 240). Dụ ngày 14-7 cũng quy định cụ thể về việc chuyển đổi các trường Ấu học, Tiểu học, Trung học thành trường công Sơ học. Những trường có 5 lớp (từ lớp Năm tới lớp Nhất) gọi là trường Sơ học bị thể; những trường có hai lớp (lớp Năm, lớp Tư) gọi là trường Sơ học cấp thứ nhất; trường nào có 3 hoặc 4 lớp gọi là trường cấp thứ hai. Tất cả lương giáo viên và chi phí dựng trường đều do làng xã chịu. Xã nào tài chính khó khăn có thể kết hợp với xã bên cùng dựng trường, kinh phí chia đều hai bên. Như vậy, Dụ 14-7-1919 đã hoàn tất một giai đoạn chuyển đổi Nho học sang nền giáo dục mới ở Trung Kỳ.
Kể từ Dụ thành lập trường Quốc học đến Dụ 14 tháng 7 năm 1919 về việc chuyển trường Nho học thành trường Pháp-Việt và bãi bỏ thi cử truyền thống, triều đình nhà Nguyễn đã ban hành những chính sách phù hợp với nhu cầu đổi mới giáo dục Nho học, tạo nên một quá trình cải cách dần dần. Đặc biệt, để các chính sách có thể thực thi hiệu quả, triều đình đã dành kinh phí cho các hoạt động cần thiết như đào tạo giáo viên, mở trường hương học. Bên cạnh đó, việc cải tổ cơ quan quản lý giáo dục, cử người tham gia vào Hội đồng Hoàn thiện giáo dục bản xứ, lập Bộ Học thể hiện sự hưởng ứng tiến trình cải cách của triều đình.
2. Tình hình giáo dục ở Trung Kỳ sau cải cách 1906
Sau cải cách, ở Trung Kỳ tồn tại 3 loại trường, nếu tính theo số lượng có thể sắp xếp theo trật tự: trường bản xứ (Nho học), trường Pháp-Việt, trường Pháp.
2.1. Hệ thống trường bản xứ (Nho học)
Mặc dù Nho học đang trong thời kỳ tàn lụi, trước khi thi cử truyền thống chấm dứt, các sĩ tử vẫn kiên trì theo đuổi Nho học và số này vẫn đông hơn số vào trường Pháp-Việt. Năm 1908, ở Bắc Kỳ và Trung Kỳ có 239 quan học chính (đốc học, giáo thụ, huấn đạo) giảng dạy cho 9,738 học sinh trong các trường Nho học nhà nước (Ấu học, Tiểu học, Trung học). Thời gian này, các trường Ấu học nhà nước ở làng chưa phát triển mà chủ yếu vẫn là trường thày đồ, với khoảng 15 ngàn trường và 200 ngàn học sinh ở cả Bắc Kỳ và Trung Kỳ. Trong khi đó, năm 1908, số trường Pháp-Việt ở hai xứ này là 123 với hơn 5000 học sinh (La Depêche colonial 1908)
Các trường Ấu học ở Trung Kỳ được gọi là trường Hương học, do các Hương sư phụ trách. Những trường này chuẩn bị cho học sinh đủ trình độ để thi Hương nên bên cạnh dạy chữ Hán, Hương sư phải dạy cả chữ quốc ngữ, làm tính, các môn khoa học như địa lý, vạn vật học… Nhằm đảm bảo đủ số lượng giáo viên cho trường Ấu học, các khoá học đào tạo hương sư được mở cấp tốc ở Huế và Quy Nhơn, nơi họ học toán, các môn khoa học, vệ sinh bằng quốc ngữ (Les Annales coloniales 1913). Tiếng là trường Ấu học nhưng học sinh đa phần lớn tuổi, đã có trình độ để đi thi Hương, chỉ bổ sung thêm chữ quốc ngữ và các môn khoa học mới như toán, địa lý, lịch sử, vệ sinh..Cuốn Ấu học quốc ngữ tân thư của ông Trần Văn Thông, được Hội đồng hoàn thiện giáo dục bản xứ phê chuẩn và xuất bản năm 1908, cung cấp cho học sinh kiến thức phổ quát về vạn vật học, về vệ sinh thân thể, địa lý, các chất hoá học.. Những bài học này có độ phức tạp khác hẳn với bài của lớp Đồng ấu[3] trong hệ Pháp-Việt dành cho học sinh 7 tuổi, trong đó nhưng bài học đầu tiên là về chữ cái và cách đánh vần chữ quốc ngữ.
Có thể nói điểm mới quan trọng nhất của cải cách năm 1906 là đặt quản lý nhà nước đối với trường làng, vốndo thày đồ dạy dỗ giờ được đưa vào hệ thống trường công, do làng xã quản lý nhưng chịu sự giám sát của Nha Học chính, bộ Học của triều đình Huế và chính quyền Pháp. Làng xã có nhiệm vụ duy trì trường học, chịu trách nhiệm trả lương tháng cho các hương sư và thông qua đội ngũ giảng dạy này, thực hiện các chỉ dẫn chung về chương trình, sách giáo khoa. Lần đầu tiên trong lịch sử giáo dục Việt Nam, nhà nước trực tiếp can thiệp giám sát hoạt động của trường học ở làng, vốn hiện diện như một đơn vị hành chính tự trị. Theo Quy chế giáo dục 1906, vai trò của triều đình thể hiện qua việc đầu tư đào tạo, nâng cao trình độ, đồng thời định kỳ kiểm tra, giám sát chất lượng hương sư; chính quyền làng xã có chức năng tuyển chọn hương sư và tìm nguồn kinh phí ổn định để duy trì trường học, trong đó có việc trả lương. Từ năm 1910 đến năm 1916, số hương trường (Ấu học) đã tăng đáng kể, từ 398 lên 1.553 (Gouvernement Général de l’Indochine 1917,140)
Tháng 12 năm 1913, Bộ Học quy định mới về trường Ấu học, theo đó xã lớn có thể đặt riêng 1 trường; xã vừa và nhỏ có thể cho hai ba thôn lập một trường. Thày giáo chọn từ các Cử nhân, Tú tài có bằng Sư phạm hoặc thí sinh đã qua kỳ thứ nhất, kỳ thứ hai thi Hương, hoặc chọn người thông thạo cả chữ Hán và chữ quốc ngữ (Quốc sử quán 2011, 594). Năm 1914 Bộ Học ra tiếp quy định về lương giáo viên cho trường Ấu học. Theo đó, lương thày giáo từ 6 đồng trở lên một tháng, ghi rõ trong hợp đồng với thày, hạn 6 năm ký một lần. Lương thày do làng xã tự trả, có thể lấy từ công điền công thổ, hoặc chia bổ trong dân làng “nếu xã nào không cấp lương cho thày giáo sẽ lập tức chiểu luật làm trái lệnh nghĩ trị” (Quốc sử quán 2011, 611). Các thày có thâm niên cao và đóng góp cho việc học của dân có thể được thưởng và phong hàm đến Chánh Bát phẩm. Việc lựa chọn hương sư được tiến hành theo quy trình như sau: làng xã góp tiền xây trường Ấu học và lựa chọn hương sư rồi lập tờ trình lên quan công sứ của Tỉnh. Công sứ chuyển sang Sở Học chính xem xét về trình độ hương sư và cấp cho một giấy chứng nhận đủ điều kiện để làm hương sư trường Ấu học. Trên giấy chứng nhận có dấu của Tổng đốc[4]
Năm 1916 Hội đồng Cơ mật tâu lên cần thường xuyên sát hạch trình độ hương sư bởi vì có giáo viên “tính hạnh chưa được thuần cẩn, nghĩa lý chưa được tinh thông” (Quốc sử quán 2012, 113) Hội đồng cũng đề xuất chọn các sách chữ Hán rồi dịch ra chữ quốc ngữ để người học giữ vững căn bản, đồng thời tinh thông khoa học thường thức. Liên quan đến nguồn kinh phí hương trường do làng tự trả, năm 1916, triều đình đề xuất làng thu thêm thuế học dựa vào số đất làng có. Cụ thể toàn Trung Kỳ tổng cộng có 1.896.009 mẫu ruộng, và có 1.930 hương trường. Nếu mỗi mẫu ruộng thu 1 hào thì tổng thu được 189.600 đồng, chia đều mỗi trường được 109 đồng/năm, đủ cấp lương cho giáo viên (Quốc sử quán 2012, 114)
Bên cạnh việc hỗ trợ làng xã lập trường Ấu học, triều đình còn có biện pháp khuyến khích người dân tự bỏ tiền ra xây trường. Chẳng hạn những ai xuất 1000 đồng trở lên thưởng hàm Chánh hoặc Tòng Bát phẩm, 500-600 đồng thưởng hàm Chánh hoặc Tòng Cửu phẩm. Năm 1918 Vua ban thưởng cho 13 người từ các tỉnh Khánh Hoà, Phú Yên, Hà Tĩnh đã nguyện góp tiền dựng trường học (Quốc sử quán, 2012, 189). Việc ban thưởng thể hiện dưới nhiều hình thức, có thể là ban cấp giấy chứng nhận, phong phẩm hàm, sắc phong khen tặng, đặc biệt vào các dịp lễ trọng của triều đình.
Ngoài các trường Ấu học công lập do làng xã quản lý vẫn có những trường tư, trường tự do (écoles libres). Năm 1917 có khoảng 561 trường với 3.518 học sinh, nằm rải rác ở một số tỉnh Trung Kỳ (Gouvernement Général de l’Indochine 1917, 140)
Các trường Tiểu học (bậc Hai) do giáo thụ và huấn đạo giảng dạy và trường Trung học (bậc ba) do đốc học giảng dạy vốn vẫn tồn tại trong hệ thống Nho học từ trước, nay bổ sung thêm các môn học mới. Những trường này dạy chữ Hán qua Tứ thư, các sách chữ Hán mới biên soạn về lịch sử, địa lý, khoa học, luân lý; ngoài ra các môn khoa học, toán, vệ sinh còn được giảng bằng quốc ngữ. Phần giảng chữ Hán do đốc học, huấn đạo, giáo thụ đảm nhiệm. Phần chữ quốc ngữ và chữ Pháp mời giáo viên trường Pháp-Việt.
Trường Trung học lớn nhất là trường Quốc Tử Giám và trường Hậu bổ. Năm 1908, trường Hậu bổ tuyển và cấp học bổng cho 187 học sinh gồm có các Cử nhân, Giám sinh (vốn trước là học sinh Quốc Tử giám); Tôn sinh (dòng tôn thất), Ấm sinh (con quan lại) và Học sinh (tuyển từ dân thường). Tất cả học sinh đều phải dưới 18 tuổi, trừ số Cử nhân vào học để chuẩn bị thi Hội (Trung tâm Lưu trữ QG IV, RSA 4482). Trường Quốc Tử Giám đặt ở Huế, nơi các hoàng thân, con quan theo học được coi là đỉnh của bậc Trung học bản xứ.
Bảng 2: Trường Nho học ở Trung Kỳ, 1917
Tỉnh |
Trường Trung học |
Trường Tiểu học |
Trường Ấu học |
||||||
Trường |
Giáo viên |
Học sinh |
Trường |
Giáo viên |
Học sinh |
Trường |
Giáo viên |
Học sinh |
|
Huế, Quốc tử giám |
1 |
8 |
94 |
0 |
0 |
0 |
0 |
0 |
0 |
Thanh Hoá |
1 |
2 |
26 |
15 |
15 |
635 |
265 |
265 |
2.835 |
Nghê An |
1 |
2 |
28 |
8 |
11 |
726 |
128 |
128 |
3.092 |
Hà Tĩnh |
1 |
2 |
32 |
7 |
8 |
234 |
188 |
188 |
2.259 |
Quảng Bình |
1 |
2 |
31 |
5 |
7 |
148 |
54 |
54 |
815 |
Quảng Trị |
1 |
2 |
92 |
6 |
7 |
148 |
111 |
111 |
1.345 |
Thừa Thiên |
1 |
2 |
74 |
6 |
8 |
186 |
201 |
201 |
3.185 |
Quảng Nam |
1 |
2 |
15 |
8 |
11 |
210 |
163 |
163 |
3.185 |
Quảng Ngãi |
1 |
2 |
59 |
7 |
9 |
111 |
91 |
91 |
1.694 |
Bình Định và Phú yên |
2 |
4 |
81 |
9 |
12 |
132 |
297 |
297 |
3.225 |
Khánh Hoà |
1 |
2 |
29 |
6 |
8 |
138 |
89 |
89 |
1.400 |
Bình Thuận |
1 |
2 |
18 |
2 |
3 |
58 |
56 |
56 |
1.137 |
Tổng |
13 |
32 |
608 |
79 |
99 |
2.670 |
1.553 |
1.553 |
21.126 |
Nguồn: Gouvernement Général de l’Indochine, 1917, Rapport au Conseil de Gouvernement, Session ordinaire de 1917,Hanoi-Haiphong IDEO, 140
Năm 1917 có 1.553 trường Ấu học đặt ở tất cả các tỉnh Trung Kỳ, trừ Kontum và Lang-bian, với 21.126 học sinh đi học thường xuyên (trong khi con số đăng ký là 33.328); số trường Tiểu học là 79 với 2.670 học sinh; 13 trường Trung học do đốc học quản lý, có 608 học sinh (Bảng 2)
Nhằm tăng cường trao đổi giữa hai hệ thống chính quyền của Pháp và của triều đình An Nam, việc đào tạo quan lại và nhân viên bản xứ được tiến hành cấp tốc để hình thành một lớp quan lại bản xứ có thể liên thông với hệ thống chính quyền Pháp, có khả năng điều chuyển nhân sự giữa hai bên. Điều này có thể dần dần giúp thay đổi môi trường quan lại bản xứ vốn bị coi là đầy tham nhũng, sách nhiễu mà Toàn quyền Paul Doumer đã muốn thay đổi khi ông ta lên nắm quyền từ năm 1897. Trường Hậu Bổ Huế lập tháng 8 năm 1911, muộn hơn trường Hà Nội 8 năm. Học sinh của trường là các Tú tài, Cử nhân hoặc các ấm sinh đang đợi bổ nhiệm. Sau khi hoàn tất khoá học 3 năm tại trường Hậu Bổ, họ có nhiều cơ hội được bổ quan. Trường Hậu bổ dạy tiếng Pháp, các môn kinh tế chính trị, hành chính, nơi các ứng viên quan lại được học về một nền quản trị công theo kiểu phương Tây (Les annales coloniales 1913). Trường chỉ tồn tại 8 năm. Năm 1919 trường cùng với trường Hậu bổ ở Hà Nội nhập vào trường Pháp chính, học theo chương trình của trường Luật, trực thuộc Đại học Đông Dương.
Biên soạn sách giáo khoa mới cho các trường Nho học cải cách là một hoạt động đươc triều đình quan tâm. Ngay sau khi Quy chế giáo dục 1906 được ban hành, Thượng thư bộ Học Cao Xuân Dục đã tâu soạn lại sách giáo khoa cho thật giản tiện, dễ hiểu, bỏ bớt rườm rà. Tháng 10 năm 1908, Sở Tu thư đã sớm trình lên bộ sách mới gồm Quốc triều Tiền biên toát yếu, Quốc triều chính biên toát yếu, Luật lệ toát yếu và Địa dư chí ước biên. Mặc dù các trường Pháp-Việt, trong đó có trường Quốc học sử dụng các sách của Pháp và châu Âu để làm tài liệu giảng dạy và được Vua phê chuẩn nhưng Triều đình vẫn muốn lấy sách do Nội các hoặc Quốc sử quán biên soạn cho học sinh học. Đại Nam thực lục chép rằng Vua Khải Định thấy các trường dùng sách vở mới soạn để phục vụ cho việc dạy và học thì có ý không ưng, mà muốn các bộ sách vẫn lưu giữ trong Triều như Thiệu Trị thánh chế lịch đại thi sử, Tự Đức thánh chế Việt sử tổng vịnh, Luận ngữ thích nghĩa ca… được phổ biến hơn nữa.
Rõ ràng cũng chưa thể quá đề cao nỗ lực cải cách của triều đình, đặc biệt trong việc biên soạn sách giáo khoa mới. Thượng thư Bộ học Hồ Đắc Trung tâu rằng tự thấy bộ Học không mở mang được gì nhiều (Quốc sử quán 2012, 144), cụ thể việc soạn sách mới vẫn còn trì trệ, phụ thuộc quá nhiều vào tư duy cổ điển. Điều đó là do nhà Vua vẫn e ngại các sách mới xa rời đạo lý truyền thống, phá vỡ các chuẩn mực và tôn ti trật tự đã bắt rễ hàng thế kỷ trong xã hội Việt Nam. Tuy nhiên, đây không phải là điều lạ nếu nhìn sang quá trình cải cách giáo dục của Nhật Bản thời Minh Trị từ năm 1872 đến năm 1879. Khi các nhà cải cách Nhật Bản đề xuất áp dụng mô hình giáo dục của phương Tây vào Nhật Bản, hàng loạt sách giáo khoa nước ngoài được dịch sang tiếng Nhật và sử dụng trong nhà trường. Thiên hoàng Minh Trị sau khi vi hành đến một số trường học ở các tỉnh đã không hài lòng với quá trình Tây hoá quá nhanh và yêu cầu trường học phải tăng cường các sách giáo khoa đạo đức cho hợp với truyền thống Nhật Bản và tinh thần Nho giáo vốn được coi là rường cột xã hội (Wilbur 1970, 830). Bản thân nhà cải cách Fukuzawa cũng phải than thở “Năm Minh Trị thứ 14-15, chính phủ thật kì lạ lại đề xướng việc đưa Nho giáo vào giáo dục. Bộ Giáo dục dưới cái tên kiểm định sách đọc trong trường học đã cho thu thập tất cả các sách viết, dịch trong xã hội lại, triệu tập các chức dịch của Bộ Thẩm định để quyết định xem cho phép hay không cho phép dùng các cuốn sách đó, đồng thời còn kêu gọi, yêu cầu biên soạn các sách đọc về Nho, Lão vốn đã lỗi thời và trong bối cảnh như thể trào lưu phục cổ đang hồi sinh trong thế giới văn minh” (Mugen 2014,24). Trong trường hợp Việt Nam, bất chấp việc nhà Vua muốn duy trì nền học cổ điển và đề cao Hoàng gia, ngay sau khi cải cách trường Nho học được ban hành theo Bản Quy chế 1906, Hội đồng tu thư đã thực hiện biên soạn các sách mới trong đó có Ấu học Hán tự tân thư, bộ sách gồm bốn cuốn với các chủ đề về khoa học thường thức, lịch sử, địa lý, luân lý. Nội dung sách dễ hiểu và đi vào đời sống hàng ngày, trình bày lịch sử địa lý Việt Nam dưới hình thức đơn giản. Cuốn An Nam sơ học sử lược được dịch sang chữ Hán từ bộ sách do tác giả người Pháp Mebon và Russier biên soạn cũng được sử dụng rộng rãi trong trường Nho học từ năm 1911. Các sách khác soạn thảo trong thời gian này như Ấu học Việt sử tứ tự được Hoàng Đạo Thành soạn năm 1907, Ấu học phổ thông thuyết ước được Phạm Quang Xán soạn năm 1908, Ấu học văn thức in năm 1915, Sách học tân tuyển soạn năm 1909 cũng được đưa vào trường học nhằm luyện cho học sinh đi thi Hương với chương trình đã cải cách. Phải thừa nhận rằng trong thời gian này, các nhà cải cách giáo dục Bắc Kỳ hoạt động sôi nổi hơn trong việc soạn và dịch sách giáo khoa. Đó là nhờ vào sự ủng hộ của các nhà Tây học như Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm Duy Tốn, Phạm Quỳnh và các sĩ phu cải cách như Lương Văn Can[5]. Ở Trung Kỳ, Thượng thư Bộ Học Cao Xuân Dục để lại dấu ấn của ông trong hầu hết các sách giáo khoa mới soạn dưới vai trò người hiệu đính.
2.2. Hệ thống các trường Pháp - Việt và trường Pháp ở Trung Kỳ
Để có thể hình dung ra bức tranh chung về giáo dục Trung Kỳ, bên cạnh các trường Nho học chiếm đa số giai đoạn trước 1919, không thể không đề cập đến các trường Pháp-Việt và trường Pháp được xây dựng mới ở xứ này. Trường Pháp - Việt có số lượng ít ỏi và đặt lẻ tẻ ở một số tỉnh. Giảng dạy ở những trường này chủ yếu là người Việt. Theo thống kê về học chính Trung Kỳ cho đến năm 1930, năm 1900 bậc Tiểu học ở xứ này chỉ có 1 giáo viên người Pháp, 10 giáo viên người Việt; năm 1906 con số này là 4 và 37, năm 1917 là 31 và 121 (Gouvernement Général de l’Indochine 1931, 12). So với giáo dục Nho học, trường Pháp - Việt có số lượng và số học sinh ít hơn nhiều (xem bảng 3) Số liệu năm 1912-1913 cho thấy mặc dù không thống kê được chính xác số trường Ấu học, chỉ riêng số học sinh trường cấp 2 và cấp 3 (trường Tiểu học và Trung học) cũng đã gấp gần 10 lần số học sinh trường Pháp-Việt.
Quan trọng nhất trong hệ thống trường Pháp - Việt là trường Quốc học Huế. Mặc dù được gọi là trường Trung học, từ khi mới thành lập đến năm 1915, trường chỉ có các lớp Tiểu học, dạy chữ Nho, Quốc ngữ và chữ Pháp. Từ năm 1915, trường mở thêm bậc Cao đẳng Tiểu học. Nhiều bậc chí sĩ, nhà cách mạng, nhà văn hoá Việt Nam đã học tập tại ngôi trường danh tiếng này như Hồ Chí Minh (Nguyễn Tất Thành), Trần Phú, Hà Huy Tập, Nguyễn Chí Diểu, Hải Triều, Tố Hữu, Đặng Thai Mai, Đào Duy Anh, Xuân Diệu, Huy Cận…
Giáo dục nữ khá phát triển ở Trung Kỳ, gần như tỉnh nào cũng đặt trường nữ học. Ngày 15-7-1917 khởi công xây dựng trường Nữ sinh Đồng Khánh, cạnh trường Quốc học phía nam sông Hương ở ngoài kinh thành. Đây là trường nữ lớn nhất ở Trung Kỳ, dạy bậc Cao đẳng Tiểu học, ngang với trường Đồng Khánh ở Bắc Kỳ được thành lập cùng năm 1917 và trường Nữ sinh Áo tím ở Sài Gòn lập năm 1913.
Bảng 3:Tổng thể giáo dục Trung Kỳ 1912-1913
|
Năm 1912 |
|
Năm 1913 |
|
|||
Trường bản xứ |
|
Số trường |
Số giáo viên |
Số học sinh |
Số trường |
Số giáo viên |
Số học sinh |
Cấp 1 |
|
|
|
|
|
||
Cấp 2 và 3 |
93 |
93 |
10.508 |
93 |
93 |
11.000 |
|
Trường Pháp-Việt |
Tiểu học |
24 |
67 |
1.635 |
28 |
74 |
1.903 |
Cao đẳng tiểu học |
1 |
6 |
96 |
1 |
8 |
120 |
|
Nghề |
1 |
2 |
113 |
1 |
2 |
129 |
|
Trường Pháp |
5 |
5 |
46 |
5 |
7 |
59 |
Nguồn: Les Annales Coloniales, 1913, “Enseignement en Annam”, 3-6-1913
Trường Pháp-Việt ở Trung Kỳ hoạt động khó khăn do thiếu giáo viên giảng dạy. Năm 1917 ghi nhận toàn Trung Kỳ có 37 trường Tiểu học Pháp-Việt, với 2.381 học sinh nam và 571 học sinh nữ (Gouvernement Général de l’Indochine 1917, 135) (xem bảng 4). Bên cạnh đó, trường Pellerin Huế có 414 học sinh theo học các khoá Tiểu học Pháp-Việt (Gouvernement Général de l’Indochine 1917, 138).
Bảng 4:Số trường và học sinh Tiểu học Pháp-Việt ở Trung Kỳ 1917
Tỉnh |
Số trường |
Số học sinh |
|||
Nông thôn |
Thành thị |
Trường nữ |
Nam |
Nữ |
|
Huế |
0 |
3 |
1 |
573 |
164 |
Thanh Hóa |
1 |
1 |
1 |
262 |
39 |
Vinh |
|
1 |
1 |
259 |
76 |
Hà Tĩnh |
|
1 |
1 |
165 |
27 |
Quảng Bình |
|
1 |
1 |
154 |
24 |
Quảng Trị |
|
1 |
|
84 |
|
Đà Nẵng |
|
1 |
1 |
155 |
53 |
Quảng Nam |
|
1 |
2 |
162 |
47 |
Quảng Ngãi |
|
1 |
1 |
105 |
37 |
Bình Định |
1 |
1 |
2 |
109 |
40 |
Sông Cầu |
1 |
|
1 |
31 |
22 |
Khánh Hòa |
1 |
1 |
1 |
75 |
20 |
Phan Rang |
1 |
|
|
58 |
|
Phan-Thiết. |
|
1 |
1 |
130 |
22 |
Kon Tum |
1 |
1 |
|
59 |
|
Tổng |
8 |
15 |
14 |
2.381 |
571 |
Nguồn: Rapport au Conseil de Gouvernement, Session ordinaire de 1917,Hanoi-Haiphong IDEO, 135
Quốc học Huế là trường Trung học Pháp-Việt công lập duy nhất ở Trung Kỳ. Năm 1917 trường có 97 học sinh, năm 1918 tăng lên 151 nhưng số học sinh theo lớp Cao đẳng Tiểu học còn rất ít, chỉ chiếm 6,3% theo thống kê của Nha học chính (Gouvernement Général de l’Indochine1917,136) Ngoài ra, trường Pellerin Huế có các lớp Trung học Pháp-Việt tư thục với 76 học sinh vào năm 1917 (Gouvernement Général de l’Indochine1917,138).
Bên cạnh các trường phổ thông Pháp - Việt với hai bậc học là Tiểu học và Cao đẳng tiểu học, trường Thực hành công nghiệp đặt ở Huế hoạt động khá hiệu quả. Đặc biệt đa phần kinh phí nhà trường do triều đình tài trợ. Chính quyền Bảo hộ chỉ hỗ trợ một số học bổng nhằm thu hút học sinh theo học. Năm học 1918-1919 có 30 học sinh mới được nhận vào trường sau kỳ thi diễn ra vào ngày 20 tháng 1 tại Huế và tại một số tỉnh lị. Tổng số sinh viên của trường là 109 trong đó có 29 sinh viên tự do, 80 sinh viên chính thức. Có 57 học sinh được cấp học bổng, trong số đó 37 học bổng lấy từ ngân sách Trung Kỳ và 20 lấy từ ngân sách triều đình. Tất cả học sinh có học bổng đều được ăn ở trong trường miễn phí.
Theo báo cáo năm 1919 của chính quyền Pháp, các học sinh theo học nhiều ngành khác nhau: cơ khí 43; lái xe 9; đo đạc 8; thiết kế 15; thợ mộc 1; điêu khắc 3; thợ chạm 1. Có thể thấy số theo học nghề sắt chiếm tỉ lệ cao, thể hiện định hướng công nghiệp của nhà trường. Trong trường có một xưởng cơ khí với đầy đủ thiết bị cho các nghề tiện, rèn, gò, nồi hơi, điều khiển di-na-mô, máy phát điện. Các học sinh sau khi tốt nghiệp có thể được bố trí làm thợ máy trong nhà máy điện Huế, trong ngành đường sắt… Nghề lái xe đang phát triển và hầu như học sinh nào tốt nghiệp cũng có việc làm ngay vì nhu cầu lái xe ngày một tăng để phục vụ cho các công sở, cũng như tư nhân (Gouvernement Général de l’Indochine 1919, 102)
Với đa phần giáo viên trong trường là người Việt, việc dạy và học được đánh giá có nhiều triển vọng. Gần như mỗi học sinh đều đã có tiềm năng cho một nghề nghiệp nhất định, chẳng hạn các học sinh đo đạc có thể làm việc cho Nha Công chính hoặc Nha Lâm nghiệp. Họ đã lập được một bản đồ đầy đủ của kinh thành Huế. 2 trong số họ được bố trí phụ tá cho kỹ sư trưởng. Với sự hỗ trợ tối đa của triều đình từ những ngày đầu thành lập, trường Thực hành công nghiệp Huế là một ví dụ cho mô hình dạy nghề thành công ở Đông Dương.
So với trường Nho học và trường Pháp-Việt, trường Pháp ít hơn nhiều về số lượng, số học sinh lên xuống thất thường. Ở Trung Kỳ, giáo dục Pháp chủ yếu tổ chức trong các trường Sơ học hoặc Tiểu học. Học sinh là con em người Pháp, người Việt có quốc tịch Pháp hoặc con lai. Chương trình học phỏng theo chương trình ở nước Pháp chính quốc. Phần lớn số học sinh trong các trường học của Pháp là con em của sĩ quan hoặc nhân viên trong bộ máy, chỉ có ít là con Pháp kiều hoặc thương gia. Các nhân viên người Pháp thường sang Việt Nam theo niên hạn, và liên tục bị luân chuyển qua nhiều vị trí việc làm khác nhau. Khi bị chuyển đi nơi khác, họ lại mang theo con cái và gia đình. Vì thế, số học sinh của trường Pháp luôn biến động. Theo báo cáo của Sở học chính Trung Kỳ, một số trường đôi khi chỉ có từ 5 đến 10 học sinh. Một số trung tâm quan trọng như Huế, Đà Nẵng, Vinh có số học sinh khá ổn định, nhưng cũng có năm không một trường Pháp nào hoạt động như năm 1908 (xem bảng 6).
Bảng 6:Trường Pháp công lập ở Trung Kỳ, 1900-1918
|
1900 |
1902 |
1904 |
1906 |
1908 |
1910 |
1912 |
1914 |
1916 |
1918 |
Số trường |
1 |
2 |
3 |
4 |
5 |
5 |
5 |
5 |
5 |
6 |
Số học sinh |
10 |
22 |
28 |
20 |
— |
69 |
59 |
57 |
51 |
68 |
Nguồn: Gouvernement Général de l’Indochine, L’Annam Scholaire, 1931, 81
Năm 1919, Trung Kỳ có 5 trường Pháp công lập và 3 trường Pháp công giáo. Các trường công giáo gồm trường Pellerin Huế, trường Jeanne d’Arc Huế, trường bà Sơ ở Quy Nhơn, tổng học sinh là 81 (37 nam và 44 nữ, học chung nhau). Trong khi đó, các trường Pháp công lập đặt ở Thanh Hóa, Vinh, Huế, Đà Nẵng và Phan Thiết, sĩ số học sinh ít và không ổn định. Chẳng hạn vào năm học 1917-1918, trường Thanh Hoá phải đóng cửa vì cô giáo nghỉ phép. Các trường còn lại đa phần chỉ có các cô giáo phụ trách, với sĩ số học sinh luôn dưới 100 (Gouvernement Général de l’Indochine1918, 97).
Nếu nhìn vào sự phát triển chậm chạp của trường Pháp-Việt và trường Pháp, là những trường do chính quyền Pháp quản lý, và so sánh với các trường Nho học, do triều Nguyễn trông coi đôn đốc, có thể thấy một phần vai trò của Nam triều trong sự phát triển về số lượng và đổi mới nội dung của các trường trong hệ thống Nho học giai đoạn trước năm 1919. Năm 1919, trước xu thế không thể đảo ngược, những trường này lần lượt chuyển thành trường Pháp-Việt, tạo nên một sức sống mới cho hệ thống trường học hiện đại.
3. Kết luận
Khảo sát chính sách giáo dục của chính quyền Pháp và triều đình nhà Nguyễn, cũng như nhìn vào thống kê sơ bộ số trường học, số học sinh của tất cả các loại trường gồm có trường bản xứ (Nho học), trường Pháp-Việt, trường Pháp ở Trung Kỳ vào cuối thế kỷ XIX cho đến năm 1919 có thể thấy một cuộc cải cách diễn ra mạnh mẽ nhằm vào các trường học truyền thống, trong khi bộ phận trường Pháp-Việt phát triển chậm chạp, còn trường Pháp thì gần như rơi vào đà suy thoái. Điều đó là do sự hiện diện khá mờ nhạt của chính quyền Pháp trong lĩnh vực này, một phần do nguồn nhân lực và tài lực của họ còn hạn chế, phần khác do họ muốn duy trì ảnh hưởng của triều Nguyễn, và thông qua đó giữ được ổn định xã hội. Hưởng ứng tích cực đối với những định hướng thay đổi hệ thống trường học, chương trình, cơ quan quản lý giáo dục do Pháp đề xuất, Triều đình nhà Nguyễn đã tiến hành những hoạt động cụ thể nhằm hiện thức hoá chính sách: lập cơ quan giám sát việc học (bộ Học); đầu tư cho trường học (đầu tư nhân lực và toàn bộ tài chính cho trường dạy nghề; đầu tư cho đào tạo hương sư, huấn đạo, giáo thụ, đốc học để bổ sung nguồn nhân lực đủ trình độ cho các trường Nho học cải cách; hỗ trợ cho các hương trường); dịch sách giáo khoa chữ Hán sang chữ quốc ngữ; biên soạn sách theo lối dễ hiểu, đơn giản và có nội dung đa dạng. Không chỉ có sách văn, sử mà các môn khoa học đã được tích hợp vào chương trình của trường Pháp-Việt cũng như trường Nho học. Năm 1919, tất cả các trường Nho học công lập được chuyển thành trường Pháp-Việt một cách nhẹ nhàng vì đã có 15 năm chuẩn bị.
Có thể nói, những thành công của cải cách giáo dục đầu thế kỷ XX có đóng góp đáng kể của triều đình, đặc biệt trong việc thâm nhập vào quá trình đổi mới ở làng xã. Mặc dù vẫn tồn tại những tư tưởng bảo thủ trì trệ muốn duy trì một nền học cũ để giữ vững rường cột của xã hội truyền thống, xu thế cải cách đã phần nào vượt trội. Đặc biệt, nếu nhìn nhận một cách khách quan thì việc người dân hết lòng ủng hộ cải cách, từ bỏ lối học và thi truyền thống một cách tự nguyện có nguyên nhân từ những lợi ích kinh tế. Thời điểm này, các cơ hội việc làm đã rộng mở cho những người theo lối học mới, từ công việc ở các cơ quan công quyền cho đến việc làm trong các cơ sở kinh tế, thương mại hoặc thậm chí buôn bán nhỏ đều cần một tư duy và những kiến thức, kỹ năng hiện đại. Từ thực tiễn đó, việc lựa chọn nền giáo dục mới trở nên cấp thiết và là nhu cầu của đông đảo người dân.
Tài liệu trích dẫn
1. “Bản Quy chế giáo dục 1906”, Parcours d’un historien du Vietnam- Recueil des articles écrits par Nguyễn Thế Anh. (2008). Ed. par Phillip Papin. Les Indes savants.
2. Bulletin officiel de l’Indochine francaise, 1896, “Arrete N1058 creant à Hue, par les soins du Gouvernement annamite, une école dite Quôc-hoc (college national)- Ordonnance royale”.
3. Bulletin officiel de l’Indochine francaise, 1904, “Rapport au Gouverneur général suivi d’un arête portant creation d’un emploi d’Inspecteur de l’Enseignement public et prive de l’Indochine”, 1904, N4.
4. Bulletin officiel de l’Indochine francaise, 1906, “Rapport au Gouverneur general suivi d’un arrete instituant un Conseil de perfectionnement de l’Enseignement indigene en Indo-Chine”, 1906,N3.
5. Bulletin officiel de l’Indochine francaise, 1906, Arrete institutant, dans chaque pays de l’Indochine, une comite local de perfectionnement de l’Enseignement indigene (du 16 mai 1906), 1906,N6.
6. Bulletin officiel de l’Indochine francaise, 1906, Arrete institutant un concours public pour la redaction de manuels d’enseignement destines aux ecoles indigenes (du 16 mai 1906),1906, N6.
7. Bulletin officiel de l’Indochine francaise, 1906, Arrete 460 “Ordonnance royale sur la reforme de l’Enseignement indigene (appouvee le 14 septembre 1906)”, N9.
8. Đại Nam đăng cổ tùng báo, “Hội dịch sách Bắc Kỳ”, số 819,ngày 25-7-1907.
9. Đặng Huy Vận và Chương Thâu, 1961, “Vài ý kiến nhỏ bàn góp thêm về những đề nghị cải cách của Nguyễn Trường Tộ cuối thế kỷ XIX”, Nghiên cứu lịch sử, số 25, 4/1961.
10. Đỗ Bang và cộng sự, 1999, Tư tưởng canh tân đất nước dưới triều Nguyễn, Thuận Hoá.
11. Gouvernement Général de l’Indochine, 1914, Rapport au Conseil de Gouvernement, Session ordinaire de 1914,Hanoi-Haiphong IDEO.
12. Gouvernement Général de l’Indochine, 1917, Rapport au Conseil de Gouvernement, Session ordinaire de 1917,Hanoi-Haiphong IDEO.
13. Gouvernement Général de l’Indochine, 1918, Rapport au Conseil de Gouvernement, Session ordinaire de 1918,Hanoi-Haiphong IDEO.
14. Gouvernement Général de l’Indochine, 1919, Rapport au Conseil de Gouvernement, Session ordinaire de 1918,Hanoi-Haiphong IDEO
15. Gouvernement Général de l’Indochine, 1931, L’Annam Scholaire, Hanoi IDEO.
16. Keith, Charles, 2012, Catholic Vietnam, a Church from Empire to Nation, University of California Press.
17. Kotovtchkhine, Stephane , (không có năm xb), Paul Bert et l’Instruction publique, Édition Universitaires de Dijon.
18. La Dépêche coloniale Illustrée, Paris, 15-5-1908
19. Lê Thị Lan, 2002, Tư tưởng cải cách ở Việt Nam nửa cuối thế kỷ XIX, Khoa học xã hội.
20. Les Annales Coloniales, 1913, “Enseignement en Annam”, 3-6-1913.
Lưu trữ QG IV, Phông Khâm sứ Trung Kỳ-RSA 4615; RSA 4482.
21. Mugen, Osaki, 2014, Cải cách giáo dục Nhật Bản, Công ty cổ phần sách Thái Hà và NXB Lao động phối hợp phát hành.
22. Organisation des colonies francaises et des pays de protectorat, 1895, Tom second, Paris, Berger-Levrault et Cie.
23. Quốc sử quán triều Nguyễn, 2007, Đại Nam Thực lục, Viện Sử học tổ chức, Tập 9, Giáo dục.
24. Quốc sử quán triều Nguyễn, 2011, Đại Nam thực lục Chính biên Đệ lục kỷ phụ biên, Cao Tự Thanh dịch và giới thiệu, TP Hồ Chí Minh: Văn hoá-Văn nghệ thành phố Hồ Chí Minh.
25. Quốc sử quán triều Nguyễn, 2012, Đại Nam thực lục chính biên đệ thất kỷ phụ biên/Cao Tự Thanh dịch và giới thiệu, Nxb Văn hoá Văn nghệ, thành phố Hồ Chí Minh.
26. Trần Thị Phương Hoa, 2013, Giáo dục Pháp-Việt ở Bắc Kỳ, Khoa học Xã hội.
27. Văn Tạo, 2002, Sử học và hiện thực. Tập 2: 10 cuộc cải cách, đổi mới trong lịch sử Việt Nam, Khoa học Xã hội.
28. Văn Tân, 1961, “Nguyễn Trường Tộ và những đề nghị cải cách của ông”, Nghiên cứu lịch sử, số 23, 2/1961.
29. Wilbur, Fridell, 1970, “Government Ethics Textbooks in Late Meiji Japan”. Journal of Asian Studies 29 (1970), 823-833.
[1]Dòng La San, hay còn gọi Dòng Sư huynh La San; Dòng Anh Em Trường Kitô. tiếng Pháp là Frères des Écoles Chretiennes, tiếng Anh là Institute of the Brothers of the Christian Schools, dịch nghĩa là "Dòng Sư huynh các trường Công giáo" nhưng thường gọi là Dòng Sư huynh trường Thiên Chúa giáo, là một dòng tu Công giáo La Mã nhằm mục tiêu giáo dục là chủ yếu, đặc biệt giáo dục cho trẻ em nghèo. Hệ thống các trường học thuộc dòng này có chất lượng giáo dục tốt nổi tiếng trên thế giới.
[2]Trong thư gửi Viện Cơ Mật ngày 21/1/1922, Khâm sứ Trung kỳ Pasquier xác định ngày Vua Thành Thái ra Chỉ Dụ thành lập trường dạy nghề Huế là 27/10/1899, xem Lưu trữ QG IV, Phông Khâm sứ Trung Kỳ-RSA 4615
[3] Lớp Đồng Ấu trong hệ thống Pháp-Việt chỉ xuất hiện sau khi Học chính Tổng quy ban hành năm 1917. Các trường Sơ học có ba lớp là Đồng Ấu (enfantin), Dự Bị (preparatoire) và Sơ học (elementaire)
[5] Năm 1907 ở Bắc Kỳ đã lập ra hội Dịch sách Bắc Kỳ gồm Hiệp biện đại học sĩ Đỗ Văn Tâm, đốc học trường Hậu bổ Trần Văn Thông, Giáo trưởng Đông Kinh nghĩa thục Lương Văn Can, Chủ bút Đại Nam đăng cổ tùng báo Nguyễn Văn Vĩnh và một số đốc học khác. Đại Nam đăng cổ tùng báo đã đưa tin này ngày 25-7-1907, số 810
tin tức liên quan
Videos
Quản trị quốc gia: Nên học Nhật Bản
Ngành Văn hóa và Thể thao Nghệ An: 03 tập thể và 02 cá nhân nhận giải thưởng sáng tác, quảng bá tác phẩm văn học nghệ thuật về chủ đề học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh
Nguyễn Trãi và sex
Cầu Son
Huyện Yên Thành tổ chức Lễ đón bằng xếp hạng Di tích Lịch sử - Danh thắng cấp tỉnh Lèn Vũ Kỳ
Thống kê truy cập
114576667

2165

2306

21980

223724

130677

114576667