Đại Nam thực lục chính biên ghi lại rằng, năm Minh Mệnh ( năm thứ 15 ( tức năm 1834), tháng 3: “ Thự Tổng đốc Hải Yên là Nguyễn Công Trứ có nói trong tập thỉnh an rằng: “..Lại nữa, các sở mỏ vàng, mỗi năm nộp thuế từ 1 đến 4 lạng. Những người nhà Thanh làm mỏ, mỗi nơi tụ tập trên dưới 700, 800 người, đều là những kẻ du đãng trốn tránh. Chúng đào xẻ mạch đất, quấy nhiễu dân địa phương thường thường gây ra xích mích. Ngày nọ, giặc Vân đi đến đâu, chém giết bừa bãi đến đấy, đều do bọn này hùa đảng, giúp nó làm bậy cả. Số thuế vàng thu nhập ấy, có hay không, đều không đáng kể. Nay xin hãy tạm bắt các mỏ vàng đóng cửa. Đuổi hết về nước những bọn Thanh tụ tập kiếm ăn ở đấy. Sau này, có ai xin trưng, cứ quan địa phương xét thực, sẽ chiểu theo cái lệ “Hộ làm vàng” ở Quảng Nam
mà đánh thuế. Rồi thưởng cho kiểm soát, không để chúng tự giấu bới như trước. Như vậy, đã dứt được cái lo bất ngờ, mà lại làm dồi dào thêm việc tiêu dùng của nhà nước”.
Lời cảnh báo đưa ra mấy vấn đề:
1.Hiện tượng kẻ ngoại bang giúp bọn nổi loạn giết người, làm bậy và các mối lo “ bất ngờ” cần cảnh báo còn vấn đề nguồn lợi cho dân nước. Đó là những hằng số của những lo lắng. Đã có những tiền lệ về an ninh xã hội đáng phải suy nghĩ và theo đó là những mối lợi của nước nhà bị hao tổn.
2.Họ gây ra xích mích và quấy nhiễu dân địa phương.
3. Họ, những người khai mỏ ngoại quốc, là những kẻ “du đãng trốn tránh” ( không phải du lịch), nghĩa là không hiện diện với mục đích chính đáng và đàng hoàng.
Nhờ có Đại Nam thực lục, một bộ sử của nhà Nguyễn, chúng ta mới được biết những ý kiến lo lắng cho đất nước của một trí thức.
Ghi lại những sự việc đã xẩy ra như thế có nghĩa là sử của một triều đại chuyên chế quân chủ đã không xa tránh những việc cụ thể, những ý kiến đề nghị.
Những việc liên quan thực sự đến ích nước lợi dân không phải bao giờ cũng được số đông có quan tâm, số người đề xuất đến những ý kiến kiểu như thế, trong thực tế, không phải nhiều. Và điều đó khiến chúng ta càng trân trọng.