Những góc nhìn Văn hoá

Phát triển giáo dục đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 theo tư tưởng Hồ Chí Minh

Ảnh minh hoạ

 

Đại hội XIII của Đảng nêu:  “Chiến lược phát triển tổng thể của đất nước ta là đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, phát triển nhanh và bền vững đất nước; bảo đảm gắn kết chặt chẽ và triển khai đồng bộ các nhiệm vụ, trong đó: Phát triển kinh tế - xã hội là trung tâm; xây dựng Đảng là then chốt; phát triển văn hóa là nền tảng tinh thần; bảo đảm quốc phòng, an ninh là trọng yếu, thường xuyên”[1]. Một câu hỏi được đặt ra: Giáo dục và đào tạo (cả khoa học và công nghệ nữa) là “quốc sách hàng đầu” nằm ở đâu trong chiến lược đó? Trong văn kiện Đại hội XIII của Đảng xác định rằng, một trong ba đột phá chiến lược là phát triển nguồn nhân lực. Thậm chí Đảng coi đây, cùng với phát triển khoa học và công nghệ, là “động lực then chốt để phát triển đất nước”[2]. Nói như vậy cũng là để khẳng định lại một cách đậm nét quan điểm đã có từ lâu: Phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu.

Trong điều kiện hiện nay, đất nước đang chuẩn bị bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, rất cần nhấn mạnh thêm một số điểm sau đây:

1. Cần đẩy mạnh hơn nữa việc học tập, vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong giáo dục đạo đức cho thế hệ trẻ

Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm việc bồi dưỡng đạo đức cách mạng cho những lớp cán bộ cách mạng đầu tiên của đất nước ngay cả trước khi thành lập Đảng cho đến tận suốt đời. Trong Di chúc, Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn: “Đảng ta là một đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật sự trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”[3]. Riêng đối với thế hệ trẻ, Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn: “Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng, rất cần thiết”, do đó: “Đảng cần phải chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng cho họ, đào tạo họ thành những người kế thừa xây dựng xã hội chủ nghĩa vừa ‘hồng’ vừa ‘chuyên’”[4]. Người nêu rõ nội dung cụ thể, cốt yếu của giáo dục, rèn luyện “đức dục” là: “Yêu Tổ quốc, yêu nhân dân, yêu lao động, yêu khoa học, yêu trọng của công (5 cái yêu)”[5]. Về sau, ngày 14/5/1961, năm nội dung này tiếp tục được Người nhắc lại và bổ sung, trở thành “Năm điều Bác Hồ dạy”: “Yêu Tổ quốc, yêu đồng bào; Học tập tốt, lao động tốt; Đoàn kết tốt, kỷ luật tốt; giữ gìn vệ sinh thật tốt; Khiêm tốn, thật thà, dũng cảm”[6]. Không chỉ nêu lên những nội dung cốt lõi của giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn chỉ ra những nguyên tắc cơ bản để tiến hành công việc này. Người nói: “Muốn gột rửa sạch những vết tích xấu xa của xã hội cũ, muốn rèn luyện đạo đức cách mạng, thì chúng ta phải ra sức học tập, tu dưỡng, tự cải tạo để tiến bộ mãi. Nếu không cố gắng để tiến bộ, thì tức là thoái bộ, là lạc hậu”[7]. Đây chính là nguyên tắc cơ bản, rất quan trọng mà không ít người trong số cán bộ, đảng viên và Nhân dân chưa lĩnh hội đúng và thực hiện nghiêm túc. Họ rơi vào chủ quan, cho rằng sau khi đã trải qua những khóa đào tạo, hoặc kinh qua những công tác có điều kiện được huấn luyện, tôi rèn thì đã có bản lĩnh vững vàng, hiểu biết đầy đủ, không cần học lập, nghiên cứu, rèn luyện, tu dưỡng gì thêm nữa.

2. Phải quán triệt sâu sắc vai trò và tầm quan trọng có tính chất sống còn của giáo dục đạo đức, nhất là giáo dục đạo đức cách mạng đối với cán bộ giáo dục, thầy cô giáo và học sinh, sinh viên

Mục tiêu của giáo dục là giúp người học phát triển phẩm chất và năng lực, trong đó, ưu tiên hàng đầu chính là phát triển những phẩm chất tốt đẹp. Về thể chế hóa, cần phải khẩn trương thể chế hóa đường lối, phương châm, nguyên tắc giáo dục đạo đức cách mạng của Đảng theo tư tưởng Hồ Chí Minh đối với tất cả các môi trường giáo dục. Tiếp tục hoàn chỉnh hệ thống thể chế ở nhà trường các cấp, các bậc học, rà soát và tăng cường hiệu lực pháp lý, thẩm quyền, trách nhiệm, vai trò của tất cả các bên liên quan trong việc tham gia giáo dục đạo đức, phẩm chất, nhân cách đối với học sinh, sinh viên. Cần cụ thể hóa các quy định, tiêu chuẩn đạo đức đối với giáo viên, cán bộ quản lý giáo dục và các cá nhân tham gia vào các hoạt động giáo dục nhà trường; quy định rõ tiêu chuẩn và cách đánh giá phẩm chất, hạnh kiểm của học sinh.

Cần nghiên cứu, thể chế hóa giáo dục đạo đức cho thế hệ trẻ trong gia đình. Trong Luật hôn nhân và Gia đình, Luật Giáo dục, Luật Trẻ em, Luật Thanh niên và một số bộ luật khác, các nội dung về giáo dục đạo đức trong gia đình mới chỉ quy định rất chung chung và ở mức độ rất hạn chế. Đặc biệt là thiếu sự kết nối, liên thông giữa các hệ thống văn bản pháp lý về vấn đề giáo dục đạo đức cho thế hệ trẻ trong gia đình. Trên thực tế, việc giáo dục đạo đức, phát triển nhân cách cho thế hệ trẻ trong gia đình đang hoàn toàn bị rơi vào tình trạng tự phát và không những không phát huy được vai trò quan trọng, tích cực của gia đình. Cho nên việc nghiên cứu và khẩn trương thể chế hóa giáo dục đạo đức trong môi trường giáo dục gia đình là rất cần thiết và cấp bách.

Việc tổ chức thực hiện giáo dục đạo đức cách mạng cho thế hệ trẻ trước hết là trách nhiệm của nhà trường và của gia đình, nhưng cũng là trách nhiệm của toàn xã hội. Giáo dục đạo đức cách mạng cho thế hệ trẻ trong bối cảnh thế giới hiện đại ngày nay là công việc rất khó khăn, phức tạp, vượt quá năng lực và kinh nghiệm của hầu hết các bậc cha mẹ, giáo viên, v.v...Tổ chức các chiến dịch, các cuộc vận động, các phong trào thường xuyên lôi cuốn và định hướng công việc giáo dục đạo đức cho giới trẻ, kết nối ba môi trường giáo dục cơ bản: gia đình, nhà trường và xã hội; phát huy vai trò giáo dục bằng “cùng nhau phụ trách” và “nêu gương” như Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu: “Bố mẹ, thầy giáo và người lớn phải cùng nhau phụ trách; trước hết là phải làm gương mẫu cho các em trước mọi việc”[8].

3. Chú trọng “giáo dục toàn dân” trong điều kiện kinh tế thị trường

Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu “ham muốn tột bậc” của Người là “ai cũng được học hành”[9]. Đây chính là sự thể hiện tập trung nhất tư tưởng của Hồ Chí Minh về một nền “giáo dục toàn dân”, đặc biệt là về việc bảo đảm quyền và điều kiện học tập của nhân dân lao động. Có thể thấy rõ là: tư tưởng Hồ Chí Minh về nền giáo dục toàn dân, về việc bảo đảm quyền và các điều kiện để toàn dân được học tập là xuyên suốt, nhất quán trong toàn bộ hành trình tìm đường cứu nước, được Đảng ta đưa vào đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam, nỗ lực thực hiện đường lối đó ngay cả trong những điều kiện đấu tranh gian khổ nhất. Đó chính là cơ sở chính trị cho việc ra đời một nền giáo dục Việt Nam mới, cách mạng, tiến bộ và nhân văn, ngay sau khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời.

Trong thực tế, Đảng và Nhà nước ta từ năm 1945 đến năm 1975 đã làm theo tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục toàn dân và triển khai thực hiện nguyên lý giáo dục. Từ tháng 12/1986, Đại hội VI của Đảng đã thông qua đường lối đổi mới, từng bước từ bỏ mô hình và cơ chế tập trung, quan liêu, bao cấp đối với việc vận hành nền kinh tế; bước đầu từ bỏ tư duy giáo điều, duy ý chí, trở về với tư duy khoa học. Những thành tựu trong đổi mới kinh tế cũng mở đường cho thành công của công cuộc đổi mới trong các lĩnh vực chính trị, xã hội, y tế, văn hóa, khoa học và công nghệ, v.v.

“Giáo dục toàn dân và miễn phí” là một trong những quan điểm then chốt nhất trong tư tưởng của Hồ Chí Minh về giáo dục và đào tạo Việt Nam. Tuy nhiên, thực tiễn phát triển của giáo dục và đào tạo Việt Nam trong những năm qua cũng đã cho thấy: phát triển thị trường giáo dục, kết nối với thị trường giáo dục quốc tế và sự vận hành của cơ chế thị trường, nếu rơi vào tình trạng tự phát, thiếu định hướng, thiếu quản lý và quản trị tốt thì những mặt trái và những tác động tiêu cực của cơ chế thị trường sẽ đầu độc toàn bộ nền giáo dục quốc dân. Vì vậy, một yêu cầu đặt ra là phải đổi mới tư duy, đổi mới về nhận thức, chính thức thừa nhận sự tồn tại và phát triển khách quan của thị trường giáo dục và đào tạo (thị trường giáo dục chứ không phải thương mại hóa giáo dục). Về thể chế hóa, cần xây dựng hệ thống thể chế để bảo đảm phát huy các mặt tích cực, phù hợp của cơ chế thị trường trong phát triển giáo dục đào tạo, huy động tối đa các nguồn lực ngoài ngân sách nhà nước, hội nhập quốc tế để phát triển nhanh, bền vững sự nghiệp giáo dục và đào tạo, bảo đảm quyền và điều kiện học tập cho toàn dân. Về tổ chức thực hiện, cần tiếp tục tái cấu trúc nền giáo dục Việt Nam theo hướng đẩy mạnh phân tầng, phân loại, phân luồng, tạo cơ hội đáp ứng nhu cầu học tập đa dạng của người học, đồng thời tạo động lực cho sự cạnh tranh phân hóa mạnh theo hướng tích cực, phát huy các mặt tích cực của cơ chế thị trường để phát triển giáo dục Việt Nam theo hướng hiện đại hóa.

4.  Đẩy mạnh việc học tập, vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về học đi đôi với hành, lý luận gắn với thực tiễn trong điều kiện mới

Phải rà soát, bổ sung, chỉnh sửa hệ thống văn bản pháp quy để thống nhất thể chế hóa nguyên lý “học đi đôi với hành” vào tất cả các loại hình giáo dục và đào tạo, tất cả các cấp, các bậc, các lớp, các môn học và ngành, chuyên ngành đào tạo; rà soát, hoàn chỉnh các văn bản, hướng dẫn thực hiện nguyên lý “học đi đôi với hành” trong các môi trường giáo dục và các hình thức tổ chức hoạt động giáo dục và đào tạo. Đảng và Nhà nước ta nhấn mạnh nguyên lý giáo dục và đào tạo “học đi đôi với hành”, nhất quán thể chế hóa nguyên lý đó trong Luật giáo dục và Luật giáo dục Đại học. Trong Nghị quyết số 29-NQ/TW (năm 2013), Đảng lại tiếp nhấn mạnh nguyên lý “học đi đôi với hành” như một trong những quan điểm chỉ đạo đối với toàn bộ công cuộc đổi mới căn bản và toàn diện sự nghiệp giáo dục và đào tạo: “Phát triển giáo dục và đào tạo là nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Chuyển mạnh quá trình giáo dục từ chủ yếu trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học. Học đi đôi với hành; lý luận gắn với thực tiễn; giáo dục nhà trường kết hợp với giáo dục gia đình và giáo dục xã hội”[10]. Đại hội XIII của Đảng tiếp tục nhấn mạnh phương hướng đổi mới căn bản và toàn diện sự nghiệp giáo dục và đào tạo theo nguyên lý đó: “Chuyển mạnh quá trình giáo dục từ chủ yếu trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học; từ học chủ yếu trên lớp sang tổ chức hình thức học tập đa dạng, chú ý dạy và học trực tuyến, qua internet, truyền hình, các hoạt động xã hội, ngoại khóa, nghiên cứu khoa học; giáo dục nhà trường kết hợp với giáo dục gia đình và giáo dục xã hội”[11].

Học đi đôi với hành là đòi hỏi của thực tiễn và xu hướng giáo dục của thời đại. Nghị quyết số 29-NQ/TW của Hội nghị Trung ương 8 khóa XI nhận định: Giáo dục “còn nặng lý thuyết, nhẹ thực hành. Đào tạo thiếu gắn kết với nghiên cứu khoa học, sản xuất, kinh doanh và nhu cầu của thị trường lao động; chưa chú trọng đúng mức việc giáo dục đạo đức, lối sống và kỹ năng làm việc. Phương pháp giáo dục, việc thi, kiểm tra và đánh giá kết quả còn lạc hậu, thiếu thực chất”. Đảng ta cũng chỉ ra rất rõ ràng, thẳng thắn nguyên nhân của tình trạng trên là: “Bệnh hình thức, hư danh, chạy theo bằng cấp... chậm được khắc phục, có mặt nghiêm trọng hơn”[12].

5. Miễn đóng góp từ mẫu giáo đến hết trung học phổ thông công lập

Hiến pháp nước ta được Quốc hội khóa XIII, kỳ họp thứ 6 thông qua ngày 28/11/2013, tại Điều 39 có ghi: “Công dân có quyền và nghĩa vụ học tập”; Điều 37 ghi: Trẻ em được Nhà nước, gia đình và xã hội bảo vệ, chăm sóc và giáo dục; Điều 61 ghi: “1. Phát triển giáo dục là quốc sách hàng đầu nhằm nâng cao dân trí, phát triển nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. 2. Nhà nước ưu tiên đầu tư và thu hút các nguồn đầu tư khác cho giáo dục; chăm lo giáo dục mầm non; bảo đảm giáo dục tiểu học là bắt buộc, Nhà nước không thu học phí; từng bước phổ cập giáo dục trung học; phát triển giáo dục đại học, giáo dục nghề nghiệp; thực hiện chính sách học bổng, học phí hợp lý. 3. Nhà nước ưu tiên phát triển giáo dục ở miền núi, hải đảo, vùng đồng bào dân tộc thiểu số và vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn; ưu tiên sử dụng, phát triển nhân tài; tạo điều kiện để người khuyết tật và người nghèo được học văn hóa và học nghề”[13].

Đã có những thời kỳ ở nước ta đã áp dụng việc học tập của học sinh từ lớp 1 đến cả đại học không phải trả tiền và mọi đóng góp kinh phí hoặc vật chất khác cho nhà trường. Điều phấn khởi là Bộ Chính trị đã quyết định bắt đầu từ năm học 2025-2026, miễn học phí cho học sinh từ mẫu giáo đến hết trung học phổ thông công lập. Nhưng, miễn học phí chưa phải là miễn toàn bộ sự đóng góp khác ngoài học phí. Trong khi đó, những khoản đóng góp ngoài học phí phổ biến nhiều nơi rất cao, nhiều địa phương bị “biến tướng” thành các khoản đóng góp mà tổng cộng lại rất nhiều so với thu nhập và cuộc sống của người lao động. Đến năm học mới nào, tiếng ca thán về việc này ở các bậc cha mẹ học sinh cứ xuất hiện một cách thống thiết.

Đối với những gia đình khá giả thì phần nhiều học cho con em học ở trường tư, hoặc nếu học ở trường công thì việc đóng góp đó đối với họ không đáng là bao, nhưng đối với những gia đình lao động khác, nhất là những gia đình công nhân ở các khu công nghiệp, gia đình ở vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo thì đây là khoản chi khổng lồ, quá sức. Vấn đề “Không để ai để lại phía sau”, “ai cũng được học hành”, v.v... chưa thể có chỗ đứng hiện nay trong giáo dục nước ta.

Nếu cứ nhất loạt áp dụng cơ chế thị trường, phó mặc thị trường giáo dục cho “bàn tay vô hình” điều khiển thì sẽ làm cho nền giáo dục bị tha hóa, tràn ngập những tiêu cực, tước bỏ quyền được học hành và học hành tốt của đại đa số con em người lao động. Tìm ra lời giải trên chính là vận dụng và phát triển sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục đào tạo trong điều kiện của đất nước và thế giới hiện nay và trong tương lai. Cần phải quán triệt sâu sắc tư tưởng Hồ Chí Minh về việc bảo đảm quyền và điều kiện học tập, thụ hưởng các thành tựu giáo dục của toàn dân là trách nhiệm của toàn bộ hệ thống chính trị và của toàn xã hội; đồng thời cần quán triệt tính hai mặt của những tác động của nền kinh tế thị trường và cơ chế thị trường đối với giáo dục; phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng, điều tiết của Nhà nước và sự tham gia tích cực của các bên liên quan trong việc phát huy mặt tốt, tích cực, ngăn ngừa mặt hạn chế, mặt tiêu cực của cơ chế thị trường đối với sự nghiệp giáo dục đào tạo. Miễn toàn bộ các khoản đóng góp đối với các cấp học từ mẫu giáo đến lớp 12 ở các trường công. Đó chính là bảo đảm “định hướng xã hội chủ nghĩa” trong phát triển giáo dục đào tạo trong điều kiện của kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế.

Một vấn đề nữa, có thể coi là “vấn nạn” vì lý do trường công chưa nhiều cho nên, hằng năm phải thi tuyển vào trường công. Số học sinh không trúng tuyển thường không đủ kinh phí để theo học trường tư có hai đường phải chọn: hoặc là học nghề (lúc 15 tuổi); hai là trở thành thất học, đi lao động phổ thông kiếm sống. Vì vậy, phải mở thêm nhiều trường công. Tiền đâu? Hãy chi tiêu ngân sách tiết kiệm. Hãy chống mạnh hơn nữa việc tham nhũng, thu hồi một cách tích cực nhất hàng tỷ, hàng trăm, hàng ngàn tỷ, của bọn ăn cắp đó đưa lại cho việc xây dựng trường ốc và chi phí giáo dục trường công. Có như thế mới giải quyết được những khó khăn về kinh phí cho nền giáo dục hiện nay, làm cho ai cũng có thể được học hành như ước mong của Chủ tịch Hồ Chí Minh./.

 

(Bài đã đăng VHTT Nghệ An số 17 - Tháng 6/2025)

 



[1] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2021, t.I, tr.33.

[2] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2021, t.I, tr.136.

[3] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.15, tr. 611-612.

[4] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.15, tr. 612.

[5] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.5, tr. 175.

[6] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.13, tr. 131-132.

[7] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.11,  tr. 602.

[8] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.10, tr. 175.

[9] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.4, tr. 187.

[11] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. I, tr. 232.

tin tức liên quan

Thống kê truy cập

114592880

Hôm nay

2303

Hôm qua

2401

Tuần này

2704

Tháng này

230583

Tháng qua

128795

Tất cả

114592880