Người xứ Nghệ

Chủ tịch Hồ Chí Minh, người khai sáng, một nhà báo vĩ đại của nền báo chí cách mạng Việt Nam

 Hàng năm, cứ đến ngày 21.6, cả nước ta lại diễn ra nhiều hoạt động sôi nổi chào mừng ngày Báo chí cách mạng Việt Nam; đây cũng là dịp để cho toàn Đảng, toàn dân tôn vinh nghề làm báo cao quý. Trong ngày tháng hào hùng đó, chúng ta luôn ghi nhớ công lao to lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh- người đã khai sáng ra nền Báo chí cách mạng Việt Nam, một nhà báo vĩ đại.

Song hành với quá trình tìm đường cứu nước cho dân tộc Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sớm viết báo và là một cây bút sắc sảo. Tờ báo đầu tiên do Người khởi thảo là tờ Le Paria (Người cùng khổ) in bằng tiếng Pháp, số 1 ra ngày 1.4.1922 tại Paris. Nội dung của báo phong phú, đa dạng, đề cập đến nhiều khía cạnh khác nhau, nhưng ý tưởng cơ bản là thể hiện tinh thần đoàn kết các dân tộc và giải phóng con người.
Cuối năm 1924, Nguyễn ái Quốc từ Matxcơva (Liên Xô) về Trung Quốc, hoạt động cách mạng ở thành phố Quảng Châu. Tại đây, tháng 5.1925, Người lập ra tổ chức Việt Nam Cách mạng Thanh niên(VNCMTN). Để làm cơ quan ngôn luận và diễn đàn bày tỏ chính kiến của tổ chức VNCMTN, Nguyễn ái Quốc đã cho ra đời Báo Thanh niên. Ngày 21.6.1925, báo ra số đầu tiên1. Từ đó trở đi, Báo Thanh niên vừa là trường học bồi dưỡng, tập hợp lực lượng cách mạng, vừa là cây cầu nối để lý luận cách mạng và tư tưởng Mácxít truyền bá về Việt Nam.
Nối tiếp tờ Thanh Niên, do nhu cầu của công cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, Nguyễn ái Quốc đã chỉ đạo lập ra nhiều tờ báo cách mạng khác. Ngày 9.8.1930, Ban Chấp hành Trung ương Đảng quyết định ra tờ Tạp chí Đỏ, ngày 15.8.1930 xuất bản tờ Tranh Đấu, tờ Dân chúng (1939), tờ Việt Nam Độc lập (8.1941), tờ Cứu Quốc (1.1942), tờ Cờ Giải phóng (10.1942)... Những tờ báo cách mạng này giữ một vai trò quan trọng trong việc tuyên truyền, định hướng chính trị, tư tưởng, tập hợp lực lượng, tạo nên sức mạnh trong cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng 8.1945 thắng lợi, dẫn tới sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. 
Từ năm 1945 đến 1969, trên cương vị người đứng đầu Nhà nước, dù không trực tiếp lãnh đạo các tòa soạn báo, nhưng Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn tiếp tục viết báo và tổ chức ra nhiều hoạt động báo chí. Nội dung nổi bật trong các tác phẩm báo chí của Người thời kỳ này là đưa ra nhiều quan điểm chỉ đạo kịp thời đối với những vấn đề cấp thiết của đất nước, những lĩnh vực quan trọng của công cuộc kháng chiến, kiến quốc, như: Chiến lược của quân ta và của quân Pháp (Báo Cứu quốc, 13.12.1946); Người tuyên truyền và cách tuyên truyền (Báo Sự thật, 26.6.2947); Dân vận (Báo Sự thật, 15.10.1949); Phải tẩy chay bệnh quan liêu (Báo Sự thật, 2.9.1950); Tự phê bình (Báo Nhân dân, 20.5.1951); Thi đua ái quốc, hiện tại và tương lai vẻ vang của nước ta (Báo Nhân dân, 5.7.1951); Chống quan liêu, tham ô, lãnh phí (Báo Nhân dân, 31.7.1952),v.v...
Nếu tính từ bài viết đầu tiên: Quyền của các dân tộc thuộc địa đăng trên Báo Nhân Đạo ngày 18.6.1919, đến tác phẩm cuối cùng: Thư trả lời Tổng thống Mỹ đăng trên Báo Nhân dân ngày 25.08.1969, thì chúng ta thấy rằng, Chủ tịch Hồ Chí Minh không bao giờ ngừng viết báo. Người để lại cho chúng ta hơn 2.000 bài báo các loại, gần 300 bài thơ và gần 500 trang truyện, ký. Không những vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn trực tiếp sáng lập ra 9 tờ báo: Người Cùng khổ (1922); Quốc tế Nông dân (1924); Thanh Niên (1925); Công Nông (1925); Lính Kách mệnh (1925); Thân ái (1928); Đỏ (1929); Việt Nam Độc lập (1941); Cứu Quốc (1942). Người đã sử dụng khoảng 150 bút danh, viết nên những tác phẩm báo chí xuất sắc; viết báo bằng nhiều thứ tiếng: Anh, Pháp, Nga, Hán, Việt...; với nhiều chủ đề đa dạng, sinh động; văn phong độc đáo, gần gũi và dễ hiểu.
Không chỉ là người khai sinh ra nền báo chí cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn để lại cho các thế hệ nhà báo hôm nay và mai sau nhiều bài học kinh nghiệm quý báu, những lời chỉ dẫn có giá trị, được coi là hệ tư tưởng của Hồ Chí Minh đối với nghề báo và người làm báo. Đó là:
 
1. Người làm báo phải có lập trường chính trị vững chắc
Tại Đại hội lần thứ II, Hội Nhà báo Việt Nam, ngày 16.4.1959, Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn: “... Tất cả những người làm báo (người viết, người in, người sửa bài, người phát hành, v.v.) phải có lập trường chính trị vững chắc. Chính trị phải làm chủ. Đường lối chính trị đúng thì những việc khác mới đúng được. Cho nên các báo chí của ta phải có đường lối chính trị đúng”2. “Nhiệm vụ của người làm báo là quan trọng và vẻ vang. Muốn hoàn thành tốt nhiệm vụ ấy thì phải cố gắng học tập chính trị, nâng cao tư tưởng, đứng vững trên lập trường giai cấp vô sản; phải nâng cao trình độ văn hóa, phải đi sâu vào nghiệp vụ của mình”3. Đây là tư tưởng lớn, xuyên suốt toàn bộ đường lối thông tin đại chúng của Đảng ta thời gian qua.
 Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Cán bộ báo chí cũng là chiến sĩ cách mạng. Cây bút, trang giấy là vũ khí sắc bén của họ”. Để làm tròn nhiệm vụ vẻ vang của mình, cán bộ báo chí cần phải tu dưỡng đạo đức cách mạng, “Cố gắng trau dồi tư tưởng, nghiệp vụ và văn hóa; chú trọng học tập chính trị để nắm vững chủ trương, chính sách của Đảng và Chính phủ; đi sâu vào thực tế, đi sâu vào quần chúng lao động”4.
Với Hội nhà báo, Người khẳng định: “Nói về Hội nhà báo. Đó là một tổ chức chính trị và nghiệp vụ. Nhiệm vụ của Hội là phải làm cho hội viên đoàn kết chặt chẽ, giúp đỡ lẫn nhau để nâng cao trình độ chính trị và nghiệp vụ. Có như thế thì Hội nhà báo mới làm tròn nhiệm vụ của mình và những người làm báo mới phục vụ tốt nhân dân, phục vụ tốt cách mạng”5
2. Làm báo phải có kiến thức sâu rộng, am hiểu thực tế
Nhà báo phải là một con người có trí thức rất rộng và rất sâu, đặc biệt là có trách nhiệm với công việc của mình, với sản phẩm của mình, với mọi hiệu quả, hệ quả của sản phẩm đó. Tháng 5.1949, trong thư gửi lớp viết báo đầu tiên Huỳnh Thúc Kháng, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Muốn viết báo khá thì cần: 1. Gần gũi dân chúng, cứ ngồi trong phòng giấy mà viết thì không thể viết thiết thực; 2. ít nhất cũng phải biết một thứ tiếng nước ngoài để xem báo nước ngoài mà học kinh nghiệm của người; 3. Khi viết xong một bài, tự mình phải xem lại ba bốn lần, sửa chữa lại cho cẩn thận. Tốt hơn nữa, là đưa nhờ một vài người ít văn hóa xem và hỏi họ những câu nào, chữ nào không hiểu thì sửa lại cho dễ hiểu; 4. Luôn luôn gắng học hỏi, luôn luôn cầu tiến bộ...”6. 
Ngoài việc viết báo, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn có nhiều bài viết nói về công việc viết báo, nhằm chia sẻ kinh nghiệm viết báo với đồng nghiệp hoặc cán bộ cấp dưới. Trong bài nói chuyện tại Đại hội lần thứ III Hội Nhà báo Việt Nam ngày 8.9.1962, Người nói: "Kinh nghiệm của tôi là thế này: Mỗi khi viết một bài báo, thì đặt câu hỏi: Viết cho ai xem? Viết để làm gì? Viết thế nào cho phổ thông dễ hiểu, ngắn gọn dễ đọc? Khi viết xong, thì nhờ anh em xem và sửa giùm"7. 
Báo chí là một hình thức đặc biệt của giao tiếp ngôn ngữ. Đối tượng mà Hồ Chí Minh hướng tới là quảng đại quần chúng, nên trước khi viết, Người xác định:
"1. Viết cái gì? Viết những cái hay, cái tốt của dân ta, của bộ đội ta, của bạn bè ta. Đồng thời để phê bình khuyết điểm của chúng ta, của cán bộ, nhân dân, bộ đội.
2. Viết cho ai? Viết cho công-nông-binh, viết cho mọi tầng lớp người Việt Nam, không phân biệt già trẻ, nam nữ, tôn giáo, đảng phái.
3. Viết để làm gì? Viết để tuyên truyền, để giác ngộ, để đoàn kết, để thức tỉnh quần chúng.
4. Viết thế nào? Viết phải gọn gàng, sáng sủa, mạch lạc, có đầu có đuôi, có nội dung"8. 
3. Thông tin phải chân thực, chính xác, cẩn thận về nội dung và hình thức
 Ngày 8.1.1946, Người căn dặn các cán bộ tuyên truyền: "Tuyên truyền, anh em nên chú ý một điều này nữa là bao giờ ta cũng tôn trọng sự thực. Có nói sự thực thì việc tuyên truyền của mình mới có nhiều người nghe. Ta đừng bắt chước những nước tuyên truyền tin chiến tranh quá sai lạc sự thực"9.
Tính chân thật luôn được xem là đạo đức của người làm báo cách mạng. Vì thế, báo chí cách mạng Việt Nam là tiếng nói của Đảng và là diễn đàn của nhân dân. Báo chí đã phản ánh những ý kiến xây dựng của nhân dân, nói lên tâm tư, nguyện vọng, kiến nghị của dân đối với công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước. Đồng thời báo chí cũng là phương tiện quan trọng để chống nạn tham nhũng, buôn lậu; chống lại tội ác và các tệ nạn xã hội; chống lại những biểu hiện tha hóa, sa sút về phẩm chất, đạo đức và lối sống.
Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: "Báo chí của ta đã có một địa vị quan trọng trong dư luận thế giới. Địch rất chú ý, bạn rất quan tâm đến báo chí ta. Cho nên làm báo phải hết sức cẩn thận về hình thức, về nội dung và cách viết"10. Tư tưởng và nhận định này của Người đến nay vẫn nguyên giá trị, được các Đại hội Đảng đề cập. Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII nhấn mạnh: "Xây dựng và từng bước thực hiện chiến lược truyền thông quốc gia phù hợp đặc điểm nước ta và xu thế phát triển thông tin đại chúng của thế giới. Đẩy mạnh thông tin đối ngoại. Tận dụng thành tựu của mạng Internet để giới thiệu công cuộc đổi mới và văn hóa Việt Nam với thế giới, đồng thời có biện pháp hiệu quả ngăn chặn, hạn chế tác dụng tiêu cực qua mạng Internet cũng như qua các phương tiện thông tin khác". 
4. Bố cục “ngắn gọn”; ngôn ngữ “trong sáng, giản dị, dể hiểu”
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, mỗi bài báo bố cục phải “ngắn ngọn”; ngôn ngữ “trong sáng, giản dị, dễ hiểu”. Tuy nhiên, “ngắn gọn” không có nghĩa là cộc lốc mà ngắn gọn là gọn gàng, rõ ràng, có đầu, có đuôi, có nội dung thiết thực, thấm thía, chắc chắn. Còn muốn viết được “trong sáng, giản dị, dễ hiểu”, trước hết nhà báo phải học cách nói của quần chúng. Phải thực sự học quần chúng để có cách viết được quần chúng chấp nhận như những gì của chính họ.
Chủ tịch Hồ Chí Minh không những am hiểu ngôn từ của nhiều dân tộc mà còn là bậc thầy về sử dụng ngôn ngữ tiếng Việt. Người đề cao và khẳng định: “Tiếng nói là thứ của cải vô cùng lâu đời và vô cùng quý báu của dân tộc. Chúng ta phải giữ gìn nó, quý trọng nó, làm cho nó phổ biến ngày càng rộng khắp. Của mình có mà không dùng, lại đi mượn của nước ngoài, đó chẳng phải là đầu óc quen ỷ lại hay sao?”11. 
 
 
 
5. Luôn phải nâng cao chất lượng báo chí
"... Cần nâng cao hơn nữa chất lượng của báo chí để nó làm tròn nhiệm vụ cao cả của nó... Nhiệm vụ của báo chí là phục vụ nhân dân, phục vụ cách mạng"12.
Chất lượng của báo chí ở đây, Chủ tịch Hồ Chí Minh muốn nói đến nội dung bài viết và cả cách bố trí, trình bày. "Các báo thường có ảnh và tranh vẽ. Đó là một tiến bộ nhưng ảnh thì thường lèm nhèm, vẽ thì chưa khéo lắm. Cần phải cố gắng nhiều hơn nữa"13. Đó vừa là lời động viên, vừa là sự nhắc nhở đối với những người làm báo, phải luôn cố gắng trình bày cho thật khéo, thật đẹp để thu hút được đông đảo bạn đọc. Nhận thức sâu sắc vấn đề này, Hội nghị Trung ương 5 (khoá VIII) Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam đã nhấn mạnh đến vai trò của công nghệ mới trong lĩnh vực thông tin đại chúng là: "Sắp xếp lại và quy hoạch hợp lý hệ thống truyền hình, phát thanh, thông tấn, báo chí, xuất bản, thông tin mạng nhằm tăng hiệu quả thông tin, tránh lãng phí...”; "Không ngừng nâng cao trình độ chính trị và nghề nghiệp, chất lượng tư tưởng, văn hóa của hệ thống thông tin đại chúng. Khắc phục xu hướng thương mại hóa trong hoạt động báo chí xuất bản". Đây là những quan điểm đúng đắn, đã và đang được triển khai thực hiện có hiệu quả, làm cho báo chí cách mạng Việt Nam thực sự đi vào cuộc sống, góp phần không nhỏ tới công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.  
Suốt hơn nửa thế kỷ gắn bó với báo chí, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại cho chúng ta một di sản báo chí vô cùng đồ sộ. Những bài viết của Người thể hiện sinh động quan điểm, tư tưởng về cách mạng, về thời đại, về nhân dân, về kinh tế, chính trị, văn hoá, giáo dục và các lĩnh vực khác của đời sống xã hội. Cùng với đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn đưa ra nhiều phương pháp làm báo mới mẻ, tiến bộ, phù hợp với sự phát triển của báo chí cách mạng Việt Nam và báo chí hiện đại trên thế giới. Trọn đời cống hiến cho sự nghiệp cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh không những là một lãnh tụ kiệt xuất, anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới, mà Người thực sự là một nhà báo vĩ đại của nền báo chí cách mạng Việt Nam.
 

1 Tháng 6.1985, Trung ương Đảng đã quyết định ly ngày 21/6 làm ngày truyn thng ca Báo chí cách mng Vit Nam.
 
2 Hồ Chí Minh toàn tập, tập 9, Nxb CTQG, H.2002, tr. 414.
3 Sđd, tập 9, tr. 415.
4 Sđd, tập 10, tr. 616.
5 Sđd, tập 9, tr. 414.
 
6 Hồ Chí Minh toàn tập, tập 5, Nxb CTQG, H.2002, tr. 626.
7 Sđd, tập 10, tr. 615.
8 Sđd, tập 7, tr. 117-118.
9 Sđd, tập 4, tr. 151.
10 Hồ Chí Minh toàn tập, tập 10, Nxb CTQG, H..2002, tr.615.
11 Sđd, tập 10, tr. 615.
12 Hồ Chí Minh toàn tập, tập 10, Nxb CTQG, H.2002, tr.613 .
13 Sđd, tập 10, tr.616 .
 

tin tức liên quan

Thống kê truy cập

114511028

Hôm nay

227

Hôm qua

2359

Tuần này

21402

Tháng này

217901

Tháng qua

121356

Tất cả

114511028