Người xứ Nghệ

Phan Bội Châu - người thắp lửa cho thế hệ thanh niên Việt Nam đầu thế kỷ XX

Cụ Phan Bội Châu (1867-1940)

          Lịch sử dân tộc Việt Nam đầu thế kỷ XX là giai đoạn sục sôi tinh thần yêu nước, khát vọng giành độc lập dân tộc trước ách đô hộ của thực dân Pháp. Trong dòng chảy sôi động ấy, Phan Bội Châu nổi lên như một ngọn đuốc sáng dẫn đường cho cả một thế hệ thanh niên Việt Nam. Ông không chỉ là nhà cách mạng lỗi lạc, nhà tư tưởng lớn, mà còn là người gieo mầm, khơi dậy chí hướng cứu nước trong tầng lớp thanh niên - những người mang trong mình sức trẻ, trí tuệ và lòng yêu nước nồng nàn.

Sinh ngày 26/12/1867 tại thôn Sa Nam, xã Đông Liệt, huyện Nam Đàn (nay là xã Vạn An), tỉnh Nghệ An, Phan Bội Châu sớm bộc lộ tư chất thông minh, lòng yêu nước và chí hướng lớn lao. Từ thuở thiếu thời, cụ đã nung nấu hoài bão cứu dân, cứu nước. Trước cảnh nước mất nhà tan, cụ hiểu rằng muốn giành lại độc lập, cần có thế hệ thanh niên dấn thân, có trí tuệ và có tấm lòng vì dân tộc. Vì vậy, khi còn là anh Nho San, anh Đầu xứ San Phan đã đi đây đi đó trong vùng để tìm hiểu, kết nối bạn “đồng tâm”. Phan và họ thường tiếp xúc với nhau qua những buổi hát phường vải, một hình thức sinh hoạt văn nghệ dân gian rất hấp dẫn tuổi trẻ lúc bấy giờ. Chính trong các cuộc hát phường vải ấy, Phan đã kết thân với rất nhiều thanh niên. Ai cũng mến mộ bởi cái tài đối đáp phường vải rất nhanh, rất thông minh, hài hước và uyên bác của Phan. Đặc biệt trong mỗi câu ví ấy luôn chan chứa khát vọng cứu nước lớn lao của anh Nho San. Chuyện kể lại rằng, khi Nho San và các bạn đến một làng nọ hát ví, bên nữ ví rằng:

Chung vai chung cả đò đầy

Cho em chung mẹ chung thầy với anh

Âu đó cũng là nhi nữ thường tình. Nào ngờ Phan đã mở rộng tình cảm lứa đôi ấy thành tình nước non, thành nghĩa hợp quần để kêu gọi tinh thần dân tộc:

Chung binh chung tướng chung vương

Cùng anh chung cả tứ phương sơn hà

Quả là một chàng trai có chí lớn, có trách nhiệm đối với vận mệnh dân tộc. Và chính trong các cuộc hát phường vải như thế, Phan đã góp phần tác động, thức tỉnh và kêu gọi Nhân dân phải có ý thức trách nhiệm đối với đất nước. Vì thế, sau này đã có bao người trở thành bạn đồng tâm, đồng chí cùng Phan gánh vác việc giang sơn, bao thanh niên đã đi theo Phan, hăm hở nhiệt tình như Phan:

Ầm ầm nghe tiếng ông San

Rủ nhau cất gánh lên ngàn tìm hoa

Vì thế, năm 1885, khi kinh thành Huế bị thất thủ, Phan đã tập hợp các thanh niên trai tráng, thân hữu của mình tổ chức ra đội “Thí sinh quân” gồm hơn 60 người là “Sĩ tử Cần Vương đội” định phối hợp với thân hào Nghệ Tĩnh và nghĩa quân của Phan Đình Phùng ở Sơn Phòng, Hà Tĩnh - Quảng Bình. Công việc chưa thành thì thành Nghệ An bị giặc chiếm, mưu đồ của Phan bị bóp chết từ trong trứng nước. Nhưng qua sự kiện lần này ta thấy rõ ràng Phan có sức ảnh hưởng và tập hợp nhân quần rất lớn. Thanh niên Việt Nam đã tích cực ủng hộ, hưởng ứng và tham gia những hoạt động yêu nước, chống Pháp do Phan Bội Châu khởi xướng. Họ tin vào tấm lòng yêu nước trong sáng, tinh thần chống Pháp cứu nước sục sôi của Phan Bội Châu. Họ là những tá tương Nguyễn Quýnh, Đốc biện Hà Văn Mỹ, Phó lãnh binh Ngô Quảng, Quản cơ Lê Hạ, Đội Quyên, Đội Quế…Dạy học trò được bao nhiêu tiền, Phan dùng một phần để nuôi gia đình, còn một phần để tiếp đãi các hạng khách ấy. Chỗ ở của Phan Bội Châu tuy bề ngoài có vẻ thầm lặng, nhưng bên trong chất chứa một bầu không khí sôi nổi, phấn khởi hào hùng của một địa điểm tập hợp những người yêu nước. Những thủ hạ của Phan Đình Phùng còn sót lại vừa kể trên cũng thường có mặt nơi đây. Đặc biệt trong đám học trò thân tín có Đặng Thái Thân. Những buổi tiếp đón các “dư đảng” Cần Vương và “khách vong mạng” ấy, Phan đều để Đặng tham dự bàn bạc và sau này trở thành người đồng tâm đồng chí tâm đắc nhất của Phan trong bước đường vận động cách mạng. Lại có thêm cả Tán Quýnh, người từng có liên lạc với nghĩa Hội Quảng Nam, quen thân Nguyễn Thành hiệu Tiểu La. Về sau cùng với Ngư Hải Đặng Thái Thân, Tiểu la Nguyễn Thành trở thành một “trợ thủ” đắc lực của Phan Bội Châu trong Duy Tân Hội. Tất cả những thanh niên yêu nước này đều tập hợp xung quanh “Đầu xứ San”. Họ là những người giúp đỡ và bảo vệ Phan Bội Châu trong bước đường hoạt động cứu nước.

Để tập hợp được những thanh niên ưu tú ấy, để thức tỉnh lòng yêu nước và tinh thần chiến đấu cho họ, hơn bất kỳ một người nào khác đương thời, Phan Bội Châu đã khêu gợi và gieo vào họ lòng căm thù giặc sâu sắc. Cụ thống thiết tố cáo mọi chính sách bóc lột, áp bức ngu dân của Pháp, không hề có một chút ảo tưởng nào về cái gọi là sứ mạng khai hoá của nó. Cụ quyết nuôi trong tâm trí các lớp thanh niên cái ý muốn “hãy phanh thây lũ giặc nước rồi mới ăn sáng”, cái chí căm thù sâu sắc cho đến đỗi “trong giấc ngủ còn giật mình gọi bạn: Đánh! Đánh! Đánh! Trả lại cho ta đất trời độc lập”.

Phan Bội Châu biết nêu lên cho thế hệ thanh niên một lý tưởng, một lẽ sống. Thanh niên Việt Nam đầu thế kỷ XX cần điều đó biết mấy. Xã hội Việt nam lúc bấy giờ đang chìm đắm trong mê muội. Một số ít nhà Nho còn lòng tự tôn dân tộc, còn lớp Tây học đang mòn quần trên ghế nhà trường thuộc địa để làm thầy kí, thầy thông, đang mất gốc dân tộc. Chính trong lúc này, bằng thơ văn tâm lý hùng tráng của mình, Phan Bội Châu định hướng cho thanh niên một lý tưởng, một lẽ sống đúng đắn, trước mắt nhằm tiêu diệt cái vạ chết lòng:

        “Than ôi! Cái vạ chết lòng

       Xác kia chất đó còn mong nỗi gì

          Anh em! Chữa thuốc chi cho khỏi?

         Xin đem ngay máu nóng đổ vào!”

Muốn có “máu nóng” thì trước hết phải có lẽ sống chân chính, cao quý. Phan Bội Châu dạy thanh niên lúc này: “ Đừng ham chơi, đừng ham mặc, đừng ham ăn”; sinh ra làm trai đừng để cho đất trời muốn xoay vần tới đâu thì tới mà phải biết làm chủ thời thế, sinh làm trai phải tâm niệm rằng nước đã mất mà ngồi yên là nhơ nhớp, phải biết xấu hổ làm dân thuộc địa, phải có gan vứt bỏ kinh truyện tẻ ngắt, cũ rích; phải dám hy sinh tất cả, dám hy sinh đến tính mạng để góp công cứu nước, phải lập thân ở chỗ cứu nước, không lập thân ở khoa cử, hoạn lộ, phải “Dựng gan óc lên đánh tan sắt lửa. Xối máu nóng rửa vết nhơ nô lệ”. Độc lập, cộng hòa, dân chủ là mục tiêu. Đường đi tới là cách mạng bạo động. Kêu gọi hồn nước là làm như vậy đó. Là đem máu nóng chữa bệnh “chết lòng” đang trầm trọng, là đưa thế hệ thanh niên trở về với truyền thống anh hùng của dân tộc.                     

Từ nhận thức ấy, Phan Bội Châu đặc biệt quan tâm đến việc giác ngộ, cổ vũ, tập hợp và đào tạo thanh niên yêu nước. Cụ coi thanh niên là lực lượng nòng cốt trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, là “hồn nước”, là “tương lai của giống nòi”. Cụ nói: “Nước thanh niên cậy vào ai? Cậy vào người thanh niên. Người thanh niên gánh vác việc gì? Gánh vác việc thanh niên”. Và cụ một lòng tin tưởng tuỵêt đối vào sức mạnh, ý chí, trí tuệ, bản lĩnh của người thanh niên: “Vì có người thanh niên mà nước thanh niên mới trường xuân bất lão. Vì có nước thanh niên mà người thanh niên mới danh giá vô cùng. Nói cho đúng lẽ, Người thanh niên là linh hồn của nước thanh niên.”

Một trong những đóng góp lớn nhất của cụ đối với thanh niên là Phong trào Đông Du (1905-1908). Với niềm tin rằng “muốn cứu nước phải học hỏi nước ngoài”, cụ vận động và tổ chức cho thanh niên sang Nhật Bản học tập, đưa họ vào học trong hai ngôi trường, Đông Á Đồng văn thư viện và Chấn võ học hiệu, để đào tạo đội ngũ trí thức mới tiếp thu những tinh hoa văn minh, những kỹ thuật quân sự tiến tiến của nước Nhật để về phụng sự Tổ quốc. Lần đầu tiên thanh niên Việt Nam được bước ra khỏi “luỹ tre làng”, bước ra khỏi “đống hoang tàn, lạc hậu, u tối” để đến với một nền văn minh mới, gặp gỡ những con người mới. Họ háo hức, hăm hở, quyết vượt qua mọi khó khăn gian khổ để tiếp thu những tinh hoa nơi đất nước Mặt trời mọc để hy vọng về cống hiến phụng sự cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc. Những Nguyễn Thức Canh, Hoàng Trọng Mậu, Nguyễn Thức Đường, Trần Đông Phong, Hồ Học Lãm, Cường Để, Mai Lão Bạng, Đặng Thúc Hứa, Đặng Tử Kính, Tăng Bạt Hổ, Trần Tuấn… Họ là những thanh niên ưu tú nhất lúc bấy giờ đã cùng đồng cam, cộng khổ với thuyền trưởng Phan Bội Châu để cùng nhau ra sức học tập, đem sức mình góp vào công cuộc đấu tranh, giải phóng dân tộc. Khi phong trào Đông Du không thành công, những thanh niên ấy lại bôn ba sang Xiêm rồi lại sang Tàu để tiếp tục sứ mệnh cao cả. Thực là những tấm gương sáng cho lòng yêu nước. Dù phong trào cách mạng do Phan Bội Châu lãnh đạo chưa đem lại kết quả độc lập cho dân tộc nhưng nó đã để lại dấu ấn sâu sắc trong lịch sử - lần đầu tiên, thế hệ thanh niên Việt Nam được thức tỉnh mạnh mẽ về vai trò, trách nhiệm của mình đối với vận mệnh dân tộc: “Nghìn muôn ức triệu người chung góp. Xây dựng nên cơ nghiệp nước nhà. Người dân ta của dân ta. Dân là dân nước nước là nước dân”. Những vần thơ “dậy sóng” ấy đã thôi thúc cổ vũ thanh niên: “Mở mắt thấy rõ ràng tân vận hội. Xúm vai vào xốc vác cựu giang sơn”.

A group of men posing for a photo

Description automatically generated

       Một số du học sinh trong phong trào Đông Du (Ảnh tư liệu)

Phan Bội Châu không chỉ là người thầy, mà còn là người truyền cảm hứng, người gieo mầm cách mạng, thắp ngọn lửa sáng cho lớp thanh niên đầu thế kỷ XX và nhiều người trong số họ sau này là nòng cốt của Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội. Họ không chỉ kính phục cụ như một lãnh tụ, mà còn xem cụ là người cha tinh thần - biểu tượng của lòng quả cảm, kiên trung. Sau này, cố Đại tướng Võ Nguyên Giáp cũng từng nhận định về ảnh hưởng mạnh mẽ của cụ Phan Bội Châu đối với thanh niên, học sinh lúc bấy giờ: “Chúng tôi, mỗi học sinh nam nữ nghe Cụ cất tiếng gọi, lòng sáng bừng lên như một bó đuốc, cảm thấy làm gì cũng được, bất chấp quên mình như thế nào, hy sinh như thế nào. Sức hô hào của cụ Phan Bội Châu là như vậy”. Hay là cố Tổng Bí thư Lê Duẩn cũng khẳng định: “Lúc còn thanh niên, mỗi lần đọc thơ Phan Bội Châu, tôi thấy trong lòng có cái gì náo nức, như thúc dục lòng mình xông lên làm một điều gì đó cho Tổ quốc. Đó thực sự là những bài thơ tác giả viết ra từ bầu nhiệt huyết, bằng tất cả óc tim”.

Rồi khi cụ Phan Bội Châu bị Thực dân Pháp bí mật bắt giam, chúng định thủ tiêu cụ. Nhưng tin cụ bị bắt nhanh chóng được lan truyền. Tất cả đồng bào ta từ Bắc chí Nam dấy lên phong trào đấu tranh đòi thả Phan Bội Châu trong đó đông đảo nhất là tầng lớp thanh niên, học sinh, sinh viên: “Cụ Phan Bội Châu bị bắt giải về nước và bị thực dân Pháp kết án tử hình. Merlin về Pháp, Varenne sang thay. Cữ ấy vào tháng Bảy dương lịch (1925), từ trên Hà Nội có liên lạc xuống bảo chúng tôi làm đơn xin ân xá cho cụ Phan. Vừa gặp lúc Varenne ra Đồ Sơn nghỉ mát. Thế là tất cả các học sinh chúng tôi, mới gà gáy sáng, đã nhảy rào ra khỏi ký túc xá, kéo nhau đến huyện Rào, chỗ Varenne từ Đồ Sơn trở về, giữ xe lại đưa đơn” (Hoàng Quốc Việt (1905 - 1992 Trong tập “Hồi ký cách mạng” Ngọn đuốc, Nxb Văn học, Hà Nội,1980). Trước sự đấu tranh quyết liệt ấy, thực dân Pháp buộc phải đưa cụ ra xử tại Tòa Đề hình. Ngày 23/11/1925, chúng mở phiên tòa xử cụ. Nhiều sinh viên các trường đã trốn học để đi xem phiên tòa đại hình xử vụ án Phan Bội Châu. Sau phiên tòa ấy, cụ Phan vẫn tiếp tục bị giam giữ. Nhân dân tiếp tục đấu tranh để đòi tự do cho cụ và “tại trụ sở nhà số 9 hay số 7 phố Đức Vọng, trụ sở của Báo Thanh niên bấy giờ, hàng trăm sinh viên ăn mặc chỉnh tề đã tới và tiếp tục đọc diễn văn yêu cầu toàn quyền Varenne phải thả cụ Phan”. Trước thái độ và tinh thần đấu tranh không khoan nhượng ấy, Varenne buộc phải ân xá cho nhà đại ái quốc của chúng ta song chúng yêu cầu đưa cụ về an trí tại Huế. Khi đã là ông Già Bến Ngự nhưng thanh niên khắp nơi vẫn hướng về cụ với lòng thương mến và khâm phục. Ngôi nhà tranh nơi dốc Bến Ngự vẫn hàng ngày đón các thanh niên, sinh viên yêu nước đến để được nghe ông Già Bến Ngự kể những câu chuyện yêu nước thương nòi và nhờ cụ hướng con đường tiếp theo cho thanh niên bước tiếp. Cụ cũng đã giành nhiều thời gian để nói chuyện với thanh niên. Cụ mong thế hệ thanh niên lúc này vững chí bền gan, xếp bút nghiên, bỏ lối học hư văn, vinh thân mà dấn thân vào con đường cứu nước cứu dân: “Gửi gắm tấm lòng bạn thanh niên. Tu dưỡng tinh thần xếp bút nghiên. Luyện chí, vá trời, tan sắt lửa. Xứng danh con cháu giống rồng tiên”. Và cho đến trước khi cụ trút hơi thở cuối cùng vào ngày 29/10/1940 (nhằm ngày 29/9 năm Canh Thìn), cụ vẫn không quên nhắn nhủ và đặt niềm tin vào thế hệ thanh niên: “Nay đương lúc tử thần chờ trước cửa. Có vài lời ghi nhớ về sau. Chúc phường hậu tử tiến mau”.

A group of people standing together

Description automatically generated

            Cụ Phan Bội Châu với các thanh niên ở Huế (Ảnh tư liệu)

Lớp thanh niên sau này - từ phong trào Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội, đến Đoàn Thanh niên Cộng sản, đều kế thừa tinh thần Phan Bội Châu: yêu nước, dấn thân, đổi mới tư duy. Chính tư tưởng “thức tỉnh dân khí”, “tự lực tự cường” của cụ đã trở thành nền tảng tinh thần cho nhiều phong trào thanh niên sau này. Thanh niên Việt Nam không chỉ kính trọng Phan Bội Châu như một vĩ nhân trong lịch sử, mà còn như tấm gương sáng về lòng yêu nước và trách nhiệm công dân. Từ những năm đầu thế kỷ XX đến nay, tên tuổi cụ vẫn là niềm tự hào, nguồn cảm hứng cho biết bao thế hệ học sinh, sinh viên, đoàn viên thanh niên. Ngày nay, đất nước không còn chiến tranh, nhưng tinh thần yêu nước, ý chí tự cường, tinh thần học tập và đổi mới mà Phan Bội Châu khởi xướng vẫn còn nguyên giá trị. Thanh niên thế hệ mới - trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, và hội nhập quốc tế vẫn cần mang trong mình ngọn lửa mà cụ từng thắp lên hơn trăm năm trước./.

A group of women standing in a line

Description automatically generated

Đoàn viên thanh niên nghe thuyết minh về cuộc đời và sự nghiệp cách mạng của nhà chí sỹ yêu nước Phan Bội Châu.

Tư tưởng “khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh” vẫn là kim chỉ nam cho thanh niên trong việc học tập, rèn luyện, sáng tạo và cống hiến. Thanh niên cần không ngừng học hỏi, làm chủ tri thức, công nghệ, để góp phần xây dựng đất nước phồn vinh, sánh vai cùng các cường quốc - điều mà Phan Bội Châu từng gửi gắm trong mơ ước của mình. Bên cạnh đó, tinh thần tự lực tự cường, không ngại khó, dám nghĩ dám làm của cụ là tấm gương quý giá trong bối cảnh hiện nay - khi thanh niên phải đối mặt với nhiều thách thức của thời đại số, kinh tế tri thức và toàn cầu hóa.

Mối quan hệ giữa Phan Bội Châu với thanh niên và thanh niên với Phan Bội Châu là mối quan hệ hai chiều, đầy nhân văn và thiêng liêng. Cụ là người thắp sáng ngọn đuốc đầu tiên của phong trào thanh niên yêu nước đầu thế kỷ XX, còn thanh niên là những người tiếp nối, giữ cho ngọn lửa ấy cháy mãi trong lòng dân tộc.

Phan Bội Châu đã ra đi, nhưng tư tưởng, khí phách và tinh thần của cụ vẫn sống mãi trong lòng mỗi người Việt Nam, đặc biệt là trong thế hệ trẻ. Mỗi thanh niên hôm nay, khi học tập, lao động, cống hiến cho Tổ quốc, đều đang viết tiếp trang sử mà cụ và bao lớp người đi trước đã mở đầu. Như lời cụ nhắn gửi : “Than ôi! Một tấc lòng trung, một thân sống chết. Cũng xin đem mà hiến cho nước nhà”. Đó không chỉ là tâm nguyện của Phan Bội Châu, mà còn là lời thức tỉnh muôn đời dành cho thanh niên Việt Nam - những người sẽ mãi là tương lai của dân tộc.

tin tức liên quan

Thống kê truy cập

114633060

Hôm nay

265

Hôm qua

2365

Tuần này

2430

Tháng này

222156

Tháng qua

134927

Tất cả

114633060