Góc nhìn văn hóa
Kiều Thanh Quế với học thuyết Freud

Đứng trước một cuốn sách - Học thuyết Freud của S.Zweig, được Tô Kiều Phương (Kiều Thanh Quế) dịch và xuất bản ở Việt Nam năm 1943, có nhiều vấn đề được đặt ra. Câu hỏi lớn nhất là: Vì sao Kiều Thanh Quế dịch Học thuyết Freud? Cùng với đó, những câu chuyện khác được kết nối và xuất hiện: Bối cảnh ra đời của học thuyết Frued ở châu Âu, sự tương đồng giữa bối cảnh đó với Việt Nam đầu thế kỷ XX, học thuyết Frued và vai trò của nó ở châu Âu cũng như kỳ vọng của nó ở Việt Nam?... Việc nêu lên giả thuyết nhằm tìm kiếm câu trả lời cho các vấn đề trên, có thể không hẳn đúng với thực tại tinh thần của Kiều Thanh Quế, tuy nhiên, nó đem đến cơ hội hình dung về sự tương đồng loại hình của Việt Nam và châu Âu ở thời điểm học thuyết Freud ra đời; sự có mặt cần thiết của Freud trong tiến trình hiện đại hóa văn học, văn hóa… Mặt khác, giả thuyết đó lại trở thành một điều kiện để chúng ta trở về với câu chuyện lịch sử, văn hóa, xã hội, văn học và tinh thần Việt Nam đầu thế kỷ XX. Cũng từ giả thuyết này, vai trò, vị thế và tư cách trí thức của Kiều Thanh Quế được xác lập trong ý hướng khai minh khi dịch chuyển Freud vào Việt Nam.
1. Học thuyết Freudcủa S. Zweig - phương thuốc cho Việt Nam
Học thuyết Freudlà công trình biên khảo của S.Zweig. Cả hai đều là người Áo, Freud (1856-1939), S.Zweig (1881-1942). Nghĩa là, họ sống cùng thời với nhau, có cùng chung những phối cảnh lịch sử, xã hội, văn hóa và tư tưởng. Có lẽ, chính vì những điểm chung thuộc về thời đại ấy, S.Zweig đã dành thời gian khảo cứu Học thuyết Freud bên cạnh việc sáng tác văn chương. Cuốn sách này được Kiều Thanh Quế (ký tên là Tô Kiều Phương) dịch, nhà xuất bản Tân Việt ấn hành năm 1943 tại Việt Nam. Câu hỏi trọng tâm khiến chúng tôi tiến hành nghiên cứu này là: Vì sao Kiều Thanh Quế dịchHọc thuyết Freud của S.Zweig?Nói cách khác, điều kiện xã hội, lịch sử, văn hóa, tư tưởng nào thôi thúc Kiều Thanh Quế dịchHọc thuyết Freud và phổ biến vào Việt Nam?
Cuốn sách trong phiên bản của Tân Việt, gồm 158 trang cả bìa. Ngoài Lời tựa có lẽ của Tô Kiều Phương, Lời nói đầu của S.Zweig và Kết luận, sách được chia làm 8 chương: Chương 1: Một tài năng xuất hiện; Chương 2: Bức chân dung; Chương 3: Bước đầu; Chương 4: Cõi vô thức;Chương 5: Chiêm bao; Chương 6: Kỹ thuật của Phân tâm học; Chương 7:Quan niệm tình dục; Chương 8:Buổi tàn niên.
Nhìn vào cấu trúc của cuốn Học thuyết Freud, có thể thấy Chương 1-Một tài năng xuất hiện nêu lên bối cảnh tinh thần, luân lý, khoa học châu Âu đầu thế kỷ XX (thời điểm 1900). Nhấn mạnh vào tính chất trì trệ, bảo thủ, lầm lạc, hèn nhát, đạo đức rởm, tàn nhẫn của nền luân lý, giáo lý và hạn chế của khoa học, y học, lý trí, S.Zweig đã xem Freud như một nhân vật có tính khai minh của xã hội châu Âu. Freud đã nhìn ra tất cả những “hiểm tượng” ấy để dấn thân vào một địa hạt đầy thách thức, nhằm giải đáp trước hết cho mình những băn khoăn về các giới hạn.
Học thuyết Freud mở đầu bằng việc giới thiệu hoàn cảnh xuất hiện của Freud cũng như học thuyết của ông. Như đã nói, đó là bối cảnh con người nhận ra giới hạn của các học thuyết, lý trí, khoa học, luân lý, giáo lý. Tại thời điểm đó, châu Âu ghi nhận những hoài nghi sâu sắc của con người đối với thực tại. Một câu hỏi được đặt ra là tại sao nền luân lý phong kiến lại cố gắng kết án, giam cầm, đầy đọa “lực lượng bản năng”? Cùng với đó, hàng loạt chất vấn khác có liên quan xuất hiện: tại sao lại cần phải thắng bớt lại những ham muốn tình dục? Những thành tựu khoa học, hay những “lời giáo huấn đáng ghét” phải chăng lại chính là “những phương tiện phản tự nhiên”? Đâu là căn nguyên thực sự của “bệnh thần kinh” mà y khoa và tâm lý học đương thời chưa giải quyết được? Trước những hoài nghi, tra vấn đó, Freud xuất hiện, “lật đổ tất cả”, “lột trần ra tất cả hơn là gói kín lại”, “bắt các điều bí ẩn ấy tự biểu niệm”, đưa con người đến với thế giới bản ngã rộng lớn, bí ẩn, sâu thẳm[1]. Từ đó, như một nỗ lực nhân văn, làm con người sống tự do hơn, thành thực hơn, hiểu rõ mình hơn, Freud mở ra thế giới của VÔ THỨC và BẢN NĂNG TÍNH DỤC. Ông cho rằng, “một phần lớn các chứng bệnh thần kinh đều do sự dồn ép dục tình mà ra”[2].
S. Freud, đó là con người cương nghị, can đảm, luôn hoài nghi, không bao giờ nhượng bộ và khao khát chân lý. Học thuyết của ông đã gây nên cơn chấn động trong lòng châu Âu cổ kính, già nua và bảo thủ. Xâm nhập vào địa hạt của tâm hồn, Freud hi vọng phăn lần ra mối tương quan hữu cơ, mật thiết, hệ quả của các xung năng bên trong với các hành vi của cá nhân. Hi vọng ấy của ông đòi được đáp đền bằng các thực nghiệm sáng tỏ cùng với sự thấu triệt các bí ẩn sâu kín của tâm hồn con người. Đó là nỗ lực của một nhà khoa học song hành cùng một một tư tưởng gia. Chứng loạn thần kinh là căn bệnh nội quan, nó cần một phương thuốc có cơ chế nội quan và giải quyết một cách tận gốc. Vô thức, hữu thức thực chất chỉ là những phần khác nhau, chìm trong bóng tối hoặc được soi sáng của tâm hồn con người. Chính khi tuyên bố về sự tồn tại của Vô thức - phần tối của tâm hồn, Freud đã mở ra một thế giới mênh mông ngay trong bản thân con người, giúp con người có cơ hội hiểu rõ, lý giải được, đồng thời sống đủ đầy hơn với chính mình (qua đó là tha nhân).
Bóng tối - Vô thức là một hiện diện, không phải là “không có”, “không biết”. Vấn đề Freud đặt ra là cần phải có “ngôn ngữ”, cần phải có phương pháp để thâm nhập thế giới đó. Và, chiêm bao - giấc mơ chính là cơ sở, là mật ngữ để con người thám hiểm thế giới bí ẩn của Vô thức. Nhưng, làm sao để tìm thấy mật ngữ? Có phải là dùng sức mạnh bắt buộc cá nhân phải cung khai? Hay là phân tích dựa trên các ức đoán? Theo Freud, những phương cách này tỏ ra “thô bạo đối với vô thức”[3]. Cũng có thể sử dụng cách khác, như là rình rập những phút giây chểnh mảng, điều bí mật tự nhiên phát ra. Phương pháp này dường như gợi lên nhiều hứa hẹn. Tuy nhiên, Freud đầy cẩn trọng và thấu triệt, đã hình dung rằng, con thú nào đi qua cũng để lại dấu vết, không có gì là ngẫu nhiên. Những hành vi “chểnh mảng”, tự nhiên phát ra hẳn có nguyên do từ vô thức. Ông chú ý tới “những hành vi hỏng” như là một trường hợp đặc biệt, phô bày dấu vết của vô thức. Hành vi hỏng chính là “một sự tự thú, một sự tự phản bội”[4]. Tuy nhiên, sự áp chế của lương năng, của ánh sáng lý trí đã phong tỏa, ngăn chặn mọi hành vi hỏng, khiến nó chỉ xuất hiện một cách hết sức ít ỏi. Bởi vậy, căn cứ vào hành vi hỏng đã tự làm khó chính mình. Freud đã nhận ra điều đó và dấn bước đi tìm những biểu hiện hứa hẹn hơn. Chính trong nỗ lực đó, ông đã chú ý đến “mộng mị”. Mộng mị là nơi Vô thức thoát ra, vượt khỏi các khả năng kiểm soát của lý trí. “Không một giấc mộng nào vô lý” là tuyên bố của Freud, cho thấy ông đinh ninh thế nào vào ức đoán của mình. Thậm chí, trong giấc mộng, bản ngã mới hiện diện một cách “tỉnh táo” nhất, toàn diện nhất[5]. Như vậy, chính trong chiêm bao, mộng mị, con người được sống là mình. Chiêm bao là sự thật, một sự thật tỏ ra phi lý nếu nhìn bằng nhãn quan hạn hẹp của lý trí. Nhưng, tâm điểm của Học thuyết Freud đã nêu lên, mộng mị, chiêm bao là nhu cầu của thế giới tinh thần, là một phần đời sống, giúp cân bằng một cách vững chãi cho tâm hồn con người. Ở nơi đó, bản ngã cá nhân được phát triển một cách đủ đầy nhất. Luận điểm này vô cùng quan trọng khi nó mở ra tương lai của cái tôi cá nhân, con người toàn nguyên, đặc biệt hữu ích trong các xã hội phong kiến trung đại, nơi luân lý, giáo lý hà khắc, nơi mô hình con người cá nhân hoàn toàn vắng bóng và tình dục là điều cấm kỵ.
Vô thức và xung năng tình dục (libido) là phát kiến kinh thiên động địa của Freud, mở ra hướng giải quyết các bế tắc mà tư tưởng, luân lý cũ không dám đối diện, mặc nhiên phủ nhận hoặc cố tình lảng tránh. Trật tự và luân lý mới, nhìn từ phát kiến của Freud, cần phải được tái tạo trên cơ sở hiểu rõ tâm hồn con người cùng các cơ chế hoạt động nội quan của nó. Tình dục không phải là câu chuyện của con người trưởng thành, mà nó có nguồn gốc sâu xa từ thời thơ ấu, từ khi mới tạo thành trong bào thai. Hiểu rõ điều đó giúp các nhà phân tâm học lý giải các hành vi dị biệt (so với luân lý) ở con người. Mọi cấm cản hay chà đạp đều có nguy cơ dẫn đến những hậu quả khôn lường, mà cụ thể, trực tiếp là việc quy cho người có hành vi ấy là bị điên hay tâm thần. Như thế, Học thuyết Freud, về mặt ý hướng, mang giá trị nhân văn, nhân bản, kiến thiết nên con người cá nhân, bản ngã một cách toàn diện. Xét từ khía cạnh nội dung, Học thuyết Freud thực sự là một phương thuốc hữu ích cho xã hội Việt Nam nhằm lý giải, vãn hồi hay kiến tạo một thực tại mới, một nền luân lý, giáo khoa mới cho con người trong bối cảnh Đông - Tây đầy nhộn nhạo.
Có thể nói, cùng với công trình Hồ Xuân Hương - Tác phẩm, thân thế, văn tài của Nguyễn Văn Hanh, Kinh Thi Việt Nam của Trương Tửu - Nguyễn Bách Khoa, một số bài viết tranh luận “Dâm hay không dâm” (1936-1939) có vận dụng hoặc nhắc đến Freud, bản dịch Học thuyết Freud của Kiều Thanh Quế là tài liệu dịch thuật, phổ biến S. Freud sớm ở Việt Nam. Nếu căn cứ trên niên đại của tác giả, tác phẩm, dịch phẩm và năm xuất bản tại Việt Nam, có thể hình dung rằng, Kiều Thanh Quế (1914-1947) đã sống cùng thời đại với S. Freud, S. Zweig và Học thuyết Freud là một sản phẩm cho thấy tính đồng đại của Việt Nam và châu Âu. Ngoài các điều kiện khách quan của một đất nước thuộc địa được nối vào Pháp - châu Âu một cách trực tiếp, cần phải đánh giá cao nỗ lực của thế hệ trí thức Việt Nam trong việc đáp ứng đòi hỏi của một bối cảnh toàn cầu mà họ (dù chủ động hay bị động) thuộc về.
2. Phá đổ - kiến thiết: tinh thần Freud và thời hiện đại
S.Zweig đã chỉ ra, công lao “phá đổ rồi kiến thiết của học thuyết Freud” khi nhìn lại nền luân lý phong kiến và các học thuyết trước Freud. Nền luân lý ấy bằng mọi giá chế ngự bản năng ở con người, giam hãm tâm hồn con người trong các thành trì của đạo đức, luân lý, giáo lý, tri thức… Tình dục trở thành một thứ bị xa lánh, bị ghê tởm, cấm kỵ trong cộng đồng. Những thứ “dè dặt và giả dối” ấy trở thành sự “ngu muội” và “tàn nhẫn”. Hệ quả của nó, như S.Zweig phân tích, đẩy đám thanh niên mới lớn vào nhà thổ, tìm kiếm câu trả lời cho những xốn xao trong thân thể. Sự cấm kỵ để duy trì luân lý cứng nhắc, thiển cận nguy hại hơn hay việc đẩy con người vào những kiếm tìm dại dột nguy hiểm hơn? Câu hỏi đó các ông thầy đạo mạo, nhiều lời không giải đáp được hay đã cố tình lờ đi?
Trước Freud, luân lý bị chi phối bởi nhà thờ, các giới hạn của y khoa, tâm lý học, sự im lặng của văn chương, báo giới và nhà trường… Dường như, tất cả đều đồng tình dựng nên những bức tường, những khung khổ, quy ước cho hành vi của con người. Bởi thế, khi xã hội xuất hiện những dấu hiệu “lệch lạc” về hành vi, những vượt ngưỡng trong ứng xử, vi phạm luân lý, họ đồng thanh thừa nhận đó là trạng thái bệnh lý – bệnh thần kinh. Freud đã đối đầu với thành trì đó bằng sự cương quyết, cô độc và thấu triệt. Ông cho rằng, phần lớn những chứng bệnh thần kinh đó có nguyên do từ những dồn ép bản năng tính dục không được giải thoát. Có thể nói, đó là một gáo nước lạnh dội vào hệ thống luân lý, học thuyết đương thời.
Nhưng, vấn đề của Freud lại không nằm ở thân xác. Ông truy tìm đến nguyên nhân của triệu chứng – một phương pháp đậm màu sắc y khoa, chính là tâm hồn, tinh thần của con người. Phát hiện và tuyên bố vệ sự tồn tại của thế giới vô thức, đồng thời xác lập trật tự có tính chất điều phối ngầm của vô thức với hành vi của con người đã đưa Freud vào hàng những nhân vật khai mở vĩ đại, khi tấn công vào thành trì duy lý. Thời kỳ 1900, lúc Freud bắt đầu những thám sát quan trọng của mình, xã hội châu Âu cũng có những rung chuyển quan trọng khi triết học, văn học dần xuất hiện các trào lưu, khuynh hướng chống lại duy lý, tất định luận. Tính chất bảo thủ, bưng bít của tri thức đã bị con người đầu thế kỷ XX nhận ra. Và, họ tuyên bố “muốn thanh toán sạch trơn đứa con đẻ non rất hồ đồ của trí óc loài người”[6]. Freud đã đi trong “Buổi hoàng hôn của các triết gia”, xuyên qua đêm tối để đến với một bình minh rộng mở hơn của loài người. Ở đó, con người được sống như dòng sông, ngọn thác, thay vì chỉ được sống “như một ly nước nhỏ”. Bước chân hoan lạc, say mê của thần Dionysos đã lôi cuốn con người, đưa họ đến miền đất mới, sau khi đã “tống táng cái lý trí phổ quát của thế hệ trước”[7]. Đánh giá về sự hiện diện của Freud ở thời điểm quan trọng này, S. Zweig nhấn mạnh: “Nhờ sự cố gắng của Freud, một thế hệ mới đã nhìn thấy một thời đại mới với cặp mắt thấu triệt hơn, tự do hơn, thành thật hơn”[8].
Trước thành trì của nền luân lý cũ, Kiều Thanh Quế đã nhận ra những tương đồng loại hình thuộc về cấu trúc lịch sử xã hội, tư tưởng của châu Âu và Việt Nam. Học thuyết Freud là một thứ “chìa khóa” để khai mở và kiến thiết những hình thái mới mẻ cho đời sống con người, xã hội, văn chương Việt Nam đầu thế kỷ XX.
3. Freud - S. Zweig hay là những thôi thúc thời đại của Kiều Thanh Quế
Soi chiếu “Cuộc phiêu lưu tư tưởng” Âu châu vào hoàn cảnh Việt Nam, chúng ta nhận ra nhu cầu bức thiết của một sự “phá đổ và kiến thiết” mà có lẽ Kiều Thanh Quế đã sớm ý thức được. Nền luân lý Khổng giáo, phong kiến, tập quán cũng như tri thức ở Việt Nam trước khi có sự du nhập của tư tưởng phương Tây quả thực đã giam cầm con người trong rất nhiều giới hạn. Thậm chí, áp lực luân lý trong cộng đồng xã hội phương Đông còn nặng nề hơn ở châu Âu cùng thời điểm. Vì vậy, đòi hỏi một cuộc thay đổi trở nên mạnh mẽ hơn, thôi thúc hơn. Cùng với việc phê bình văn học, viết báo, khảo luận, Kiều Thanh Quế đã tiến hành dịch Học thuyết Freud như một hành động khai minh, đáp ứng tiếng gọi khẩn thiết của xã hội Việt Nam thời bấy giờ.
Cuộc gặp gỡ với phương Tây là biến cố trọng đại nhất của Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX (mặc dù xem xét chặt chẽ thì người phương Tây đã đến Việt Nam từ thế kỷ XVI). Tuy nhiên, trong cái nhìn tương đối, giai đoạn 1900 ở châu Âu - thời điểm những nghiên cứu của Freud bắt đầu, thời điểm Học thuyết Freud được dịch ở Việt Nam (1943), không quá xa nhau. Thậm chí, trong thực tế văn chương, Freud đã được biết đến sớm hơn trong sáng tác của Vũ Trọng Phụng, Trương Tửu, nghiên cứu của Nguyễn Văn Hanh (những năm 30). Như thế, một hình dung đồng đại có thể được thiết lập, để thấy tính chất “toàn cầu hóa hiệp 1” (Thomas Friedman) của Việt Nam đầu thế kỷ XX. Một điều rất lý thú là, trước khi Freud được dịch, S.Zweig cũng được dịch khá sôi nổi ở Việt Nam. Tiểu thuyết của tác giả này được Huyền Hà dịch, đăng trên Trung Bắc chủ nhật; Thanh Châu, Như Phong, Văn Thu, Lan Khai diễn quốc âm tiểu thuyết của A. Dumas, S. Zweig. Bức thư của người không quen (trung thiên tiểu thuyết của S. Zweig) có tới hai người dịch: bản của Lan Khai và bản của Huyền Hà đăng trên Trung Bắc chủ nhật… Có thể nói, cả Freud và S.Zweig đều là những tên tuổi đang rất được thời đại của Kiều Thanh Quế hâm mộ[9]... Các tiểu thuyết của Trương Tửu, Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Vỹ, Thơ mới và sự trỗi dậy của con người cá nhân – cá thể, cái tôi vô thức, bản ngã, là một sự vẫy gọi, mời chào Kiều Thanh Quế. Ông phê bình những tiểu thuyết ấy, ủng hộ giáo dục tình dục và sự phổ biến tri thức tình dục cho mọi người. Ông dịch S.Zweig - qua đó truyền bá Freud cũng là bày tỏ lòng háo hức được tham dự vào những dòng tư tưởng, ý thức, tri thức của thời đại mình. Trước đó, 1937, công trình nghiên cứu - phê bình ứng dụng phân tâm học của Nguyễn Văn Hanh vào trường hợp Hồ Xuân Hương dường như càng cổ vũ Kiều Thanh Quế. Thế nên, có lẽ trong một thời gian dài, trước 1943, ông đã để tâm vào việc nghiên cứu Freud và quyết định dịch khảo cứu của S. Zweig. Năm 1942, trong bài “Phê bình triết học Bergson của Lê Chí Thiệp”(Tri Tân, số 52, tháng 6-1942), Kiều Thanh Quế đã muốn đối chiếu quan niệm về chiêm bao của Bergson với quan niệm chiêm bao của Freud. Ở một thời đại mà con người nhận ra tính chất cứng nhắc, “phi nhân” của lý trí, tri thức, giáo lý, luân lý phong kiến… sự xuất hiện của thuyết trực giác (Bergson), vô thức - tính dục - bản năng (Freud), thuyết tương đối (A. Einstein) tại châu Âu, lại không quá xa lạ với Việt Nam, quả thực như một thứ ánh sáng cuối đường hầm, một sự vẫy gọi không dứt với các trí thức thuộc địa đầy khao khát. Kiều Thanh Quế thuộc về phía những trí thức có tinh thần canh tân, cải cách ấy.
Kiều Thanh Quế đề cao việc phiên dịch, nhưng ông cũng thấy việc phiên dịch ở nước ta còn nhiều yếu kém: “Hiện tinh thần sáng tạo của văn sĩ, triết gia Việt Nam còn ốm yếu lắm. Công việc biên dịch là cần trong lúc cấp bách này”[10]. Trong bài “Giá trị một bản dịch”, Kiều Thanh Quế đã nhìn thấy vinh quang của những dịch giả danh tiếng, đồng thời, soi vào nền dịch thuật nước nhà, ông buồn rầu nhận xét: “Trông người lại soi đến ta: nào xứ ta từ xưa đến nay đã có nhà dịch sách nào được cái hân hạnh của Gérard de Nerval? Buồn thay cho câu trả lời, trước sự thật: - thưa chưa hề có!”[11]. Có lẽ, nhu cầu của việc phiên dịch, giới thiệu tư tưởng, văn chương Âu Tây vào Việt Nam cũng luôn thôi thúc trong con người Kiều Thanh Quế. Đó không chỉ là vinh quang của dịch giả, mà là nhu cầu được phổ biến, giới thiệu những trứ tác của nhân loại, khai minh cho đại chúng Việt Nam.
Cuộc tranh luận Dâm hay không dâm kéo dài từ 1936-1939 hẳn đã tác động lớn đến tinh thần, tư tưởng và ý chí của Kiều Thanh Quế. Trong sâu xa, có lẽ Kiều Thanh Quế muốn cảnh báo cho cộng đồng về việc nên quan tâm đến vấn đề tình dục như thế nào. Dâm hay không dâm, “dâm lành mạnh” hay dâm uế có nguồn gốc từ chính nhận thức và hành vi, sâu hơn nữa, từ trong vô thức của con người bản năng. Bởi vậy, dịch S. Zweig, truyền bá Freud là một cách để ông tỏ bày và tác động đến cộng đồng văn chương và xã hội. Cái nạn loạn dâm và thói đạo đức giả đã khiến cho những người có “lương tri” hiểu rằng cần phải giáo dục cho con người biết dâm một cách lương thiện, dâm cho có luân lí: “Ở những nơi thành thị, chỗ nào cũng có tiếng gọi của xác thịt, cũng có sức cám dỗ của Dâm thần” (Làm đĩ - Vũ Trọng Phụng). Những số liệu xác thực Vũ Trọng Phụng thu thập được từ Sở liêm phóng cho thấy sự lan tràn của nạn mại dâm (ở Hà Nội có 5.000 gái mại dâm, cứ 35 người thì có một người làm đĩ, 74% lính Pháp ở Bắc Kỳ mắc bệnh hoa liễu…). Như thế, tình dục theo xu hướng xấu, nguy hiểm, gây tác hại lớn đến cộng đồng xã hội là một thực trạng cần được lên tiếng cảnh báo. Sự truy quét, bài trừ của Sở liêm phóng, sự chạy chữa, kiểm tra định kỳ của các phúc đường không thể giải quyết vấn đề một cách căn cơ. Nhu cầu ái tình, tình dục cùng những tò mò, ham muốn của con người cá nhân cần phải được giáo dục một cách đúng đắn, đầy đủ, kịp thời. Ấy là khi phân tâm học can thiệp một cách hiệu quả vào đời sống tinh thần, ham muốn cá nhân của con người, giúp họ cân bằng trạng thái, tránh rơi vào các biểu hiện tâm lý, hành vi cực đoan.
Nếu để ý trên các báo chí đương thời, những năm 20, 30, của thể kỷ XX, người ta mới giật mình nhận ra, thứ được quảng cáo nhiều nhất là thuốc lậu, giang mai, linh sâm kiện thận, hồng dược khuê phòng, nước hoa, mĩ viện (sửa môi, mắt, ngực, eo, mông, má, răng, dạy trang điểm), âu phục tân thời, các phong trào vui khỏe trẻ trung, thể thao, khiêu vũ, chợ phiên… Nghĩa là những quảng cáo hướng đến thị dân có tiền, có thời gian và ham mê sắc dục... Một xã hội đang loạn lên vì ái tình, dục tình, hẳn cần một phương thuốc để điều trị. Đó không phải chỉ là thứ thuốc được rao bán tràn lan trên báo chí, mà là thứ thuốc của tư tưởng, của tinh thần. Freud có thể là một phương thuốc để con người nhận ra cái nguy hại, cái ích lợi của ái tình - dâm tình, của những ẩn ức, dồn nén về tình dục trong con người.
Một xã hội mà mỗi ngày người ta đều chứng kiến trên mặt báo những tin tức đặc biệt về việc thiếu nữ tự vẫn vì tình, gái ngoan một ngày lạc lụy thành gái đĩ, thanh niên trai tráng thì rặt trong đầu chỉ có những ý nghĩ dâm bôn, trụy lạc… Sự hư hỏng của xã hội cần phải được chữa trị một cách căn bản, vững chắc từ chính ý thức về tình dục, tình yêu. Kiều Thanh Quế đã nhận ra những hư tật ấy, ông ấp ủ dự định sẽ phổ biến thứ khoa học tinh thần, phương thức chữa bệnh tâm lý - phân tâm học, cho con người ở xứ sở này.
Dường như, chính Kiều Thanh Quế đã nhận ra những lệch lạc, sai lầm, “hiểm tượng” của cuộc gặp gỡ Đông - Tây. Cái ích lợi đương nhiên là có, nhưng cái nguy hại cũng theo đó mà nảy nở. Sự lai căng, đua đòi, bắt chước, thói rởm đời, trụy lạc, sự trỗi dậy một cách ngông cuồng, tự mãn, nguy hại của cái tôi (một cái tôi nửa mùa, thất học, phá sản và ngu dốt), những tiếp nhận văn hóa phương Tây hời hợt, không đến nơi đến chốn đã đẩy xã hội vào các hiểm tượng. Đặc biệt, ở khía cạnh con người cá nhân, bản năng, sự phát triển đến nguy hại của nhu cầu ái tình, tình dục có căn nguyên từ chính việc nó - cái tôi, bị kìm kẹp quá lâu trong vòng luân lý Khổng giáo, nay được tháo cũi, sổ lồng, nên tha hồ thỏa thích, không biết tự giới hạn mình vào điều hay, lẽ đúng của cái tôi văn minh. Tình trạng này có thể kéo xã hội ngược lại thời man dã với những hành vi bất chấp luân lý. Luân lý không bảo thủ, mà nó là cái đúng, con người cần phải làm theo. Cá nhân tự do đương nhiên là cần thiết cho việc giải phóng con người, nhưng cá nhân tự do không chà đạp lên đạo đức và luân lý văn minh. Giáo dục tình cảm, tình dục cho con người là một cách thức để hướng đến văn minh, hiểu biết. Dịch và giới thiệu Freud, trong tâm nguyện của Kiều Thanh Quế có lẽ là mong muốn kiến tạo một nền luân lý mới, bắt nguồn từ chính nhu cầu bản năng cổ sơ nhất, sâu xa nhất (vô thức) của con người: TÌNH DỤC.
Kiều Thanh Quế và những trí thức thế hệ ông nhận ra sự giam hãm, kìm kẹp của luân lý Khổng Giáo, phong tục Á Đông, lạc hậu và lỗi thời. Đặc biệt, ông nhạy cảm với sự nguy hại có thể nảy nòi từ những ràng buộc, che giấu đam mê ái tình, bản năng tự ngã. Một khi, những đòi hỏi dục tình, những ham muốn vô thức không được thỏa mãn (một cách đúng đắn, lương thiện). Sự giằng co giữa tư tưởng bảo thủ, phong kiến, luân lý lạc hậu và khả năng chữa trị cho xã hội từ học thuyết Freud như một hoạt lực không ngừng giao tranh trong tinh thần Kiều Thanh Quế. Hẳn là như vậy khi ông vừa viết phê bình, báo chí, dịch thuật, khảo cứu… Một sự can dự khá toàn diện vào đời sống văn chương, học thuật, tư tưởng Việt Nam của Kiều Thanh Quế nói lên tầm vóc cũng như ý nguyện của ông.
Sự phù hợp một cách đầy hân hoan của tư tưởng Freud với sự trỗi dậy của con người cá nhân, bản ngã trong môi trường văn hóa, văn học Việt Nam đầu thế kỷ XX cũng có thể là một động lực khiến ông hăng hái dịch và giới thiệu Freud. Thơ mới, văn chương Tự lực văn đoàn, văn chương tả chân, hiện thực, các hiện tượng văn hóa xã hội đương thời dường như nhất loạt, đồng thanh cổ vũ Kiều Thanh Quế khi ông thấy rõ giá trị của Freud với xã hội mà ông đang sống. Vô thức, bản ngã cùng các học thuyết chống lại tính cứng nhắc của lý trí, phá vỡ tính liên tục, thống nhất của các học thuyết và luân lý đang tồn tại, tạo ra tính đứt gãy trong hiện trạng tinh thần con người và xã hội. Điều đó, đưa nhân loại vào thời kỳ hiện đại.
Có thể nói, thời đại xuất hiện Học thuyết Freud có nhiều điểm tương đồng với xã hội Việt Nam. Những tương đồng về các hiện tượng, biểu hiện trong xã hội đã khiến Freud dốc sức vào việc truy tìm một phương thức chữa bệnh mới - Phân tâm học. Điều đó cũng đem đến cho Kiều Thanh Quế một sự liên hệ, và chắc hẳn, ông đã nhìn ra tương lai của Freud tại Việt Nam.
4. Kết luận
Tất cả những điều kiện khách quan, chủ quan kể trên đã tạo nên niềm hứng khởi, động lực để Kiều Thanh Quế dấn thân vào con đường văn chương, văn hóa, khoa học. Các điều kiện ấy cũng đã thôi thúc ông biên dịch Học thuyết Freud như một nỗ lực khai minh, chấn hưng văn hóa, xã hội, đạo đức và luân lý xã hội. Nhìn lại hành trình trí thức của Kiều Thanh Quế, thông qua các tác phẩm phê bình, khảo cứu, biên dịch… chúng ta thấy rõ tầm vóc mang tính thời đại của ông. Dịch Học thuyết Freud không chỉ là dịch một cuốn khảo cứu của S.Zweig, mà là dịch chuyển một học thuyết, một tư tưởng quan trọng, làm thay đối hình thái tinh thần, lịch sử của nhân loại. Sự tương đồng loại hình của Việt Nam và châu Âu đầu thế kỷ XX; những thôi thúc không nguôi từ thực trạng xã hội; tư cách, trách nhiệm và tâm huyết của một trí thức; môi trường khoa học - báo chí mà Kiều Thanh Quế hiện diện… tất cả đã hình thành nên một bối cảnh rộng, cho phép ta đặt ra “ức thuyết”: Tại sao Kiều Thanh Quế dịch Học thuyết Freud? Ức thuyết đó có thể chỉ là ức thuyết, nhưng, tìm hiểu lại việc biên dịch Học thuyết Freud của Kiều Thanh Quế, chúng ta nhận ra những câu chuyện trọng đại, có liên quan mật thiết đến tiến trình và quỹ đạo vận động của lịch sử, văn hóa, văn học Việt Nam giai đoạn giao thời.
__________________
*Tạp chí Văn nghệ Quân đội
Tài liệu tham khảo:
1. Kiều Thanh Quế, Cuộc tiến hóa Văn học Việt Nam, Nguyễn Hữu Sơn, Phan Mạnh Hùng biên soạn, Nxb Thanh Niên, Hà Nội, 2009.
2. R.M. Albreres, Cuộc phiêu lưu tư tưởng văn học Âu châu thế kỷ XX (1900 - 1959), Vũ Đình Lưu dịch, Nxb Văn học, Hà Nội, 2017.
3. S.Zweig, Học thuyết Freud, Tô Kiều Phương dịch, Nxb Tân Việt, Hà Nội, 1943.
[1 ]S. Zweig, Học thuyết Freud(Tô Kiều Phương dịch). Nxb Tân Việt, Hà Nội, 1943, tr.21-24.
[2] S. Zweig, Học thuyết Freud (Tô Kiều Phương dịch). Sđd, tr.21.
[3] S. Zweig, Học thuyết Freud (Tô Kiều Phương dịch). Sđd, tr.69.
[4] S. Zweig, Học thuyết Freud (Tô Kiều Phương dịch). Sđd, tr.72.
[5] S. Zweig, Học thuyết Freud (Tô Kiều Phương dịch). Sđd, tr.78.
[6 ]R.M. Albreres, Cuộc phiêu lưu tư tưởng văn học Âu châu (Vũ Đình Lưu dịch). Nxb Văn học, Hà Nội, 2017, tr.19.
[7] R.M. Albreres, Cuộc phiêu lưu tư tưởng văn học Âu châu (Vũ Đình Lưu dịch). Sđd, tr.24.
[8 ]S. Zweig, Học thuyết Freud (Tô Kiều Phương dịch). Sđd, tr.25.
[9] Xin xem Kiều Thanh Quế, Cuộc tiến hóa Văn học Việt Nam (Nguyễn Hữu Sơn, Phan Mạnh Hùng biên soạn, giới thiệu). Nxb Thanh Niên, Hà Nội, 2009, tr.51, 59.
[10 ]Dẫn theo Kiều Thanh Quế, Cuộc tiến hóa Văn học Việt Nam (Nguyễn Hữu Sơn, Phan Mạnh Hùng biên soạn, giới thiệu). Sđd, tr.128.
[11] Dẫn theo Kiều Thanh Quế, Cuộc tiến hóa Văn học Việt Nam (Nguyễn Hữu Sơn, Phan Mạnh Hùng biên soạn, giới thiệu). Sđd, tr.74.
tin tức liên quan
Videos
Quảng trường Hồ Chí Minh: trưng bày chuyên đề: “Bác Hồ với mùa Xuân”
“Đừng nói mà xui” nhìn dưới góc độ ngôn ngữ học và tâm lý học
Tỉnh Nghệ An: phát động hưởng ứng Ngày Sách và Văn hóa đọc năm 2023
Những kỷ vật của Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Bảo tàng Xô viết Nghệ Tĩnh
Ông nghè Ngô Đức Kế và cô Kiều
Thống kê truy cập
114576348

2152

2332

21661

223405

130677

114576348