Góc nhìn văn hóa

Sự tiếp biến tư tưởng dân chủ và cách mạng Pháp của các trí thức Việt Nam: Nhìn từ hai nhà trí thức Nguyễn Mạnh Tường và Phan Ngọc

Văn hóa Pháp cùng tư tưởng “Tự do - Bình đẳng - Bác ái” của Cách mạng 1789 đã đưa đến sự tiếp biến tư tưởng dân chủ trong tầng lớp trí thức Việt Nam nửa đầu thế kỉ XX. Trong bài viết này, chúng tôi sơ bộ bước đầu khảo sát qua hai nhà trí thức: Nguyễn Mạnh Tường (1909 - 1997) và Phan Ngọc (1925).

 

                           GS Phan Ngọc                                                        Luật sư Nguyễn Mạnh Tường                                                                

        Trang đầu cuốn sách “Cách mạng 1789 và chúng ta - Kỉ niệm 200 năm Đại Cách mạng Pháp”, hai nhà học giả của Việt Nam là Nguyễn Khắc Viện và Nguyễn Kiến Giang (dùng bút danh Lê Diên) đã dùng hình ảnh so sánh Pháp và Việt Nam đầu thế kỉ XX là “cuộc hôn nhân không tự nguyện”[1]. Và cũng chính từ “cuộc hôn nhân không tự nguyện” này đã sản sinh ra một thế hệ trí thức Việt Nam “chín sớm”. Họ mang trong mình hai nền văn hoá phương Đông và phương Tây. Đã có lúc sự thâm trầm và huyền bí của phương Đông thẳng thừng chối bỏ phương Tây. Song song với đó, văn minh phương Tây cũng muốn thẳng tay đàn áp phương Đông. Nhưng rồi, cả hai đi đến những thoả hiệp cùng nhau. Cho đến giữa những năm 1930, trí thức Việt Nam vẫn tranh luận: Đông phương là Đông phương, Tâyphương là Tây phương, không bao giờ gặp nhau? Còn nhà văn Nhất Linh (Nguyễn Tường Tam) trong buổi nói chuyện cùng Tiến sĩ Nguyễn Mạnh Tường (người An Nam đầu tiên đỗ bằng Văn khoa Tiến sĩ, lại là người đỗ Luật khoa Tiến sĩ còn trẻ nhất từ xưa đến nay - năm 1932 - KMS)đã khôi hài nói rằng: “Đông phương và Tây phương đã gặp nhau, gặp nhau ở trong óc ông Nguyễn Mạnh Tường”[2].

        Chính từ những thành quả dân chủ của cách mạng Pháp 1789 đã có những tác động đến sự hình thành tư tưởng trí thức Việt Nam.

        Văn hoá Pháp cùng tư tưởng “Tự do - Bình đẳng - Bác ái” của Cách mạng 1789 đã đưa đến sự tiếp biến tư tưởng dân chủ trong tầng lớp trí thức Việt Nam nửa đầu thế kỉ XX. Trong bài viết này, chúng tôi sơ bộ bước đầu khảo sát qua hai nhà trí thức: Nguyễn Mạnh Tường (1909 - 1997) và Phan Ngọc (1925).

         Nguyễn Mạnh Tường - Nhà biện lý đáng gờm 

        Nhà biện lí đáng gờm là câu bình luận của chính người Pháp tại Hội nghị Đà Lạt (1946) về Nguyễn Mạnh Tường cùng các đồng chí của ông trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, đảm bảo độc lập, chủ quyền, tự do và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam. Ngay trong phái đoàn Pháp, có người đã nói bên lề cuộc Hội nghị với Phó Trưởng đoàn Võ Nguyên Giáp: “Các ông có những nhà biện lí đáng gờm”.

        Nguyễn Mạnh Tường sinh tại phố Hàng Đào (Hà Nội) ngày 16/9/1909, khi vừa kết thúc phong trào Duy Tân và Đông Kinh Nghĩa Thục. Thoạt đầu, phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục được khởi xướng tại số 4 phố Hàng Đào - trường học do nhà Nho yêu nướcLương Văn Can (1854 - 1927) đứng đầu. Không khí giảng dạy, học tập ở trường này đã đi vào thơ ca: “Buổi diễn thuyết người đông như hội/ Kì bình văn khách tới như mưa”.

        Ngọn lửa vừa bùng lên đã bị dập tắt ngay nhưng dư âm của Duy Tân và Đông Kinh Nghĩa Thục trong “Văn minh tân học sách” vẫn như một mạch ngầm chảy trong tư duy những nhà Nho đầu thế kỉ XX. Trong “Văn minh tân học sách”, bằng một lối viết dẫn giải tự nhiên tác giả đã dần dần chỉ ra những tệ nạn cần phê phán, chối bỏ của người Nam, những cái văn minh của châu Âu để người Nam học tập:

        “Nay đã từng ngẩng đầu trông lên, cúi đầu nhìn xuống, trầm ngâm suy nghĩ cho cùng, để tìm kế mở mang dân trí giữa muôn khó khăn, thì thấy chỉ có sáu đường: Một là dùng văn tự nước nhà.../Hai là hiệu đính sách vở.../Ba là sửa đổi phép thi.../Bốn là cổ võ nhân tài.../Năm là chấn hưng công nghệ.../Sáu là mở toà báo...

        Cuối cùng “Văn minh tân học sách” kết luận:

        “Thời buổi ngày nay không phải là thời buổi biến thông ư? Người Âu súc tích tâm tư, tài lực có mấy nghìn, có mấy trăm năm nay, làm nảy ra được cuộc văn minh, bành trướng không ngừng, lần lượt tràn lan vào các nước châu Á. ấy thực là một ánh sáng rực rỡ giữa đám tối tăm. Thật là trời mở cho ta mà mình lấp lại sao? Ngày ngày ngồi giữa cái thú ca múa hồ sơn mà không lo, rồi nhìn núi sông đổi dời mà không thương tiếc! Chả biết hai mươi lăm triệu đồng bào ta rồi sẽ kết cục ra sao đây? Chả biết rồi đây, người đời sau xem người đời nay, người đời nay xem người đời xưa sẽ đặt ta vào địa vị nào đây”.

       Cùng thế hệ Nguyễn Mạnh Tường, nhiều người vẫn theo con đường Nho học và làm quan chức Nam triều. Nguyễn Mạnh Tường là một trí thức Tây học, chịu ảnh hưởng hoàn toàn tư tưởng và văn hóa Pháp.

        Thân sinh Nguyễn Mạnh Tường là Nguyễn Văn Cát, làm Phán sự ở Phủ Toàn quyền Đông Dương. Chúng tôi không có tư liệu cụ thể thành văn để biết được ông phán Nguyễn Văn Cát đã học chữ Tây (chữ Pháp) như thế nào và ảnh hưởng của ông đối với Nguyễn Mạnh Tường ra sao. Tuy nhiên, dựa vào những tư liệu lịch sử liên quan đến chính sách giáo dục của Toàn quyền Đông Dương ở Việt Nam lúc đó, có thể nhận thấy sự tiếp nối qua việc Phủ Toàn quyền “thực hiện một chính sách thoả hiệp, xích lại gần với triều đình nhà Nguyễn và giới Nho sĩ”[3] để lập trường Quốc Học tại Huế vào năm 1896 rồi giao cho Ngô Đình Khả quản lí. Tiếp đó, tại Hà Nội, Henri Gourdon - Giám đốc Học chính đã ban bố những cải thiện đầu tiên của nền Nho học truyền thống (Thư Henri Gourdon gửi Toàn quyền Paul Beau ngày 25/8/1906). Tuy nhiên mô hình giáo dục nước Pháp theo 3 cấp học: Ấu học (Tiểu học), Thiếu học (Trung học) và Trung học (Đại học) chỉ thực sự được thoát khỏi bàn giấy trong ngăn kéo công văn để đi vào hiện thực sau kì thi Nho học cuối cùng (1919). Đó cũng là khi cậu bé Nguyễn Mạnh Tường bước chân vào giảng đường trường Pháp - Việt.

        Giáo dục cũng có đóng góp quan trọng trong việc tiếp biến văn hoá (acculturation) về mặt tư tưởng đối với những học sinh Việt Nam trong nhà trường Pháp - Việt. Thanh niên bản xứ được đối xử như thanh niên Pháp: Họ được tuyển vào các trường học của Pháp. R. Goblet - cựu Bộ trưởng Bộ Giáo dục Quốc dân Pháp lúc đó đã nói: “Việc giảng dạy tốt hơn và rộng rãi hơn về Lịch sử, Địa lí, Vật lí và Khoa học tự nhiên, thêm vào đó là những khái niệm về quyền tự nhiên và kinh tế chính trị sẽ giúp cho những khối óc thông minh non trẻ phát triển và với việc ghi khắc vào đấy những kiến thức cần thiết cho hết thảy mọi người, nó trang bị trước cho các bạn chống nguy cơ của sự dốt nát và không tưởng”[4].

        Từ một người dân thuộc địa, Nguyễn Mạnh Tường tiếp thu nền giáo dục nước Pháp. Ông học tiếng Pháp từ nhỏ. Nhờ trí thông minh, ông đã học liên tục trong các trường Pháp: trường Paul Bert và trường Albert Sarraut, Năm nào Nguyễn Mạnh Tường cũng đứng nhất lớp trước con mắt ngạc nhiên của mọi người Pháp và bạn học đồng lứa đều là con Tây.

        Năm 1927, sau khi đỗ Tú tài loại ưu, Nguyễn Mạnh Tường sang Pháp du học tại trường Đại học Montpellier. Năm 1932 Nguyễn Mạnh Tường đỗ hai bằng Tiến sĩ: ngày 28/5/1932 ông bảo vệ xuất sắc luận án Tiến sĩ Luật Khoa: “Cá nhân trong xã hội cổ nước Nam. Tổng luận về luật nhà Lê”.(L’individu dans la viriue société Annamite. Essai de synthèse sar le code des Lê). Khó ai tin nổi rằng tháng 7 cùng năm, ông lại bảo vệ luận án tiến sĩ Văn chương “Luận án giá trị Kịch Alfret de Musset”. (Essai sur la valeur dramatique du théâtre d’Alfred de Musset) kèm theo một bản phụ lục rất giá trị. “Nước An Nam trong văn học Pháp của Jules Boissière” (L’Annam dans la littérature francaise de Jules Boissière) Nguyễn Mạnh Tường trở thành một hiện tượng độc nhất vô nhị trong lịch sử khoa cử hai nước Việt - Pháp.

        Báo Nam Phong năm 1932 đã chép nguyên văn lời nhận xét của ông Chánh chủ khảo về bản luận văn Tiến sĩ Luật khoa của Nguyễn Mạnh Tường như sau:

        “Ông còn trẻ tuổi, những người tài giỏi không phải đợi tuổi mới lộ ra. Ông học trường đại học mấy năm nay đều đứng đầu cả, ông học tập sắc sảo một cách lạ thường; nay bài luận văn Tiến sĩ được đem trình Hội đồng thật là một kết quả mĩ mãn của công phu học tập bấy lâu. Hội đồng phải phục cái tài học rộng, chí khí cao thượng của ông. Bài luận văn của ông là một kiệt tác về luật học (un chef d’ oeuvre juridique), một kiệt tác vừa về luật học vừa về văn học nữa (un chef d’oeuvre juridiqe et littéraire). Nội dung đã súc tích không còn ai bắt bẻ được gì. Văn thể lại sáng lạn, đáng là một áng văn chương tuyệt tác. Ở hai ban Luật học cũng như Văn học trong đại học Mont pellier này, ông đều đồng thời đoạt giáp tranh khôi cả. Tài đã lỗi lạc, học lại chăm chỉ, ai cũng phải phục. Cái gì cũng vượt trội hơn người. 22 tuổi đầu mà đã rõ ra mặt bác học toàn tài. Bài luận văn của ông sẽ được các nhà thượng lưu trí thức ở nước Pháp cùng ở ngoại quốc đọc đến và thưởng thức; 22 tuổi đã đỗ đầu luật khoa tiến sĩ, lại sắp thi văn học tiến sĩ, thật là cổ lai hữu hạn, vì ở nước Pháp chưa hề có một người 22 tuổi mà đỗ văn khoa tiến sĩ bao giờ. Ông có trí thông minh tuyệt vời mới đạt được kết quả lạ lùng như vậy.

        Nói về công phu học thuật của ông thì Hội đồng của chúng tôi chỉ cần nhận xét một câu là đủ cả: Bài luận văn của ông đầy sức thuyết phục. Thật xứng đáng với tài học của ông mà còn làm rạng danh cả trường đại học. Hội đồng xin tặng cho ông lời phê bình đặc biệt hơn cả là “siêu ưu, được Hội đồng khen” (Très bien, avee éloges du Jury)”[5].

         Luật sư – hay nói theo ngôn ngữ thời đó là trạng sư - thầy cãi là một nghề hoàn toàn mới ở Việt Nam, chỉ xuất hiện khi người Pháp xây dựng hệ thống hành chính thuộc địa. Người Việt Nam đầu tiên đỗ Tiến sĩ Luật khoa là Luật sư Trần Văn Chương (1898 – 1986). Trước Nguyễn Mạnh Tường đã có nhiều người tốt nghiệp Luật khoa và hành nghề trạng sư như Hồ Đắc Điềm (1899 - 1986), Nguyễn An Ninh (1900 - 1943), Trịnh Đình Thảo (1901 - 1986), Bùi Tường Chiểu (1904 -?)... Nguyễn Mạnh Tường đỗ 2 bằng Tiến sĩ Văn chương và Luật khoa trong ánh hào quang rạng rỡ của một trí thức thuộc địa. Song cũng chính tư tưởng “Tự do - Bình đẳng - Bác ái” của Cách mạng Pháp 1789 trong thân phận một trí thức thuộc địa đã tác động nhiều đến suy nghĩ và hành động của ông. Bằng cấp cao nhưng ông vẫn bị phân biệt là trí thức thuộc địa. Ông không nhập quốc tịch Pháp, không vào làng Tây, ông vẫn là dân An Nam. Bằng cấp cao nhưng khi về nước, Chính phủ Bảo hộ không muốn ông có một môi trường làm việc ngang bằng với người Pháp. Ông lại tiếp tục một cuộc hành trình đến với xứ sở xuất phát tư tưởng “Tự do - Bình đẳng - Bác ái” để rồi trở về với chính nơi chôn nhau cắt rốn, hoà mình vào làm một nhà giáo dạy trường Trung học Bảo hộ (trường Bưởi). Không chịu nổi sự sỉ nhục của cấp trên, ông bỏ ra mở văn phòng hành nghề Luật sư ở 77 phố Gambetta (nay là phố Trần Hưng Đạo).

        Sau này, trong Hồi kí của mình, Nguyễn Mạnh Tường viết:

        “Luật sư có một cái đầu biết suy nghĩ và cái miệng biết nói lên lời, họ hiểu biết pháp lí, biết tranh luận và phê phán, có ý thức cao về nhân phẩm, về danh dự và trách nhiệm. Luật sư phải có cổ cứng để giữ cho khuôn mặt luôn ngẩng cao, có cái nhìn thẳng trước mặt, có con mắt quan sát và tâm trí thì phê phán. Họ luôn đứng thẳng hết chiều cao của tầm vóc mình và bao giờ cũng đứng về phía nhân dân.

        Tôi nghĩ rằng có thể khẳng định nghề luật sư là tiêu chuẩn của một nền dân chủ.Ở nước nào mà tiêu chuẩn ấy đang tác động và nghề luật sư với đầy đủ tư cách chính thức được hoạt động thì ở đó nền dân chủ đã thắng lợi”[6].

        Chính nhờ những tiếp biến trong tư tưởng dân chủ, tinh thần tôn trọng pháp luật mà Nguyễn Mạnh Tường đã thẳng thắn bày tỏ ý kiến của mình bằng bản tham luận “Qua những sai lầm trong Cải cách Ruộng đất - Xây dựng quan điểm lãnh đạo” đọc tại cuộc họp Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam ở Hà Nội ngày 30/10/1956. Luật sư Nguyễn Mạnh Tường nói:

        “Thưa các quý vị,

        Hội nghị Mặt trận Trung ương họp để nghiên cứu các sai lầm trong Cải cách Ruộng đất và chính sách sửa chữa sai lầm ấy. Hôm nay tôi được đúc kết trước toàn thể Hội nghị các ý kiến mà trong mười ngày vừa qua tôi đã trình bày trong tổ thảo luận, với tinh thần thận trọng của người trí thức không bao giờ quên trách nhiệm của mình trước nhân dân và lịch sử nước nhà”.

        Về các nguyên nhân sai lầm, Luật sư Nguyễn Mạnh Tường nêu nhận định cá nhân mình: “Các nguyên nhân trực tiếp ta trông thấy ngay. Sở dĩ mà khi nghiên cứu chính sách cải cách, ta không nghĩ đến giải pháp pháp lí đưa ra để điều hoà với giải pháp chính trị, phải chăng là vì ta không biết giải pháp pháp lí? Nếu không thì là sự thiếu sót nghiêm trọng của cấp lãnh đạo. Nhưng tôi tin rằng không phải như thế đâu. Sở dĩ ta không để ý đến giải pháp pháp lí là vì ba lí do:

        1. Quan điểm ta - địch, thù - bạn của ta rất mơ hồ

        2. Ta bất chấp pháp luật, lấy chính trị lấn át pháp lí

        3. Ta bất chấp chuyên môn

        Kết thúc bản tham luận, ông bày tỏ: “Các ý kiến của tôi, dù sai hay đúng, tôi cứ thành khẩn đề đạt lên các vị, gọi là để góp phần vào hội nghị, một phần nhỏ mọn nhưng chan chứa một niềm hi vọng và tin tưởng vô biên ở tương lai của đất nước”[7].

        Bản tham luận này, chính Nguyễn Mạnh Tường cũngkhông hiểu bằng một lí do nào đó đã vượt qua bờ Nam vĩ tuyến 17, rồi được báo đài quốc tế đăng tải. Sau bài phát biểu này, cùng với bài trả lời phỏng vấn trên báo Nhân Văn số 1, ra ngày 20/9/1956 về vấn đề mở rộng tự do và dân chủ, Luật sư Nguyễn Mạnh Tường bị “rút phép thông công” bằng một bản án kỉ luật. Từ đó, ông sống và làm việc âm thầm trong “sa mạc cuộc đời” suốt hơn 30 năm giữa Thủ đô Hà Nội (1958 - 1989), trong ngôi nhà riêng trên phố Tăng Bạt Hổ, quận Hai Bà Trưng. Năm 1989, được phép sang thăm nước Pháp, từ đó, cái tên Nguyễn Mạnh Tường mới dần trở lại với đời sống xã hội. Ông được đi thăm lại giảng đường Đại học trên phố Lê Thánh Tông - chỉ tính từ cổng trường vào đến đại giảng đường - vài chục mét mà ông phải mất 35 năm.

        Phan Ngọc - Nhà trí thức mang hai nền văn hóa Đông - Tây

       Sinh sau Nguyễn Mạnh Tường 16 năm, Phan Ngọc sinh ngày 10/10/1925 tại phủ Tĩnh Gia, tỉnh Thanh Hóa, nơi cha ông đang làm Tri phủ. Quê gốc ở huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An, vùng đất nổi tiếng về truyền thống hiếu học của Việt Nam. Thân sinh là Phan Võ (1889 - 1962) đỗ Giải nguyên năm 1909, rồi đỗ Phó bảng năm 1910. Thi đỗ đại khoa, Phan Võ làm quan trong triều đình từ Tri phủ lên đến Tham tri, về hưu năm 1943 với hàm Thượng thư trí sĩ.

        Phan Võ thuộc vào thế hệ những trí thức khoa bảng cuối cùng của Nho học quân chủ Việt Nam. Từ nửa sau thập niên 1950 trở đi, ở Việt Nam, người ta thường nhìn méo mó về những nhà Nho, coi họ là sản phẩm tàn dư hủ bại của chế độ phong kiến. Trái lại, họ chính là những cây cầu nối nhịp giữa phương Đông và phương Tây. Ta hãy nghe Đặng Thai Mai kể lại về người thầy - về sau trở thành bố vợ của ông - Cử nhân Hồ Phí Thống (còn có tên gọi khác là Hồ Phi Huyền 1876 - 1946) trong Hồi kí:

        “Giờ đây, khi lại nghĩ đến 4 hay 5 năm học với ông Cử Hồ, tôi thấy đấy là những năm phong phú nhất đối với tôi về mọi mặt (kỉ luật, làm việc, đọc sách, viết bài). Thầy đã dạy chúng tôi suy nghĩ. Thầy đã dạy chúng tôi xúc động trước lịch sử, kể cả lịch sử tư tưởng (...) thầy không bao giờ bắt buộc chúng tôi học thuộc lòng cuộc đời các vĩ nhân... Phải chăng đây là con đường chắc chắn nhất để khiến chúng tôi phát hiện ra ý nghĩa của cái đẹp, khiến chúng tôi yêu vẻ đẹp của một cử chỉ, một hành động, một trạng thái tinh thần qua sự trung gian của âm nhạc, thơ ca và văn xuôi...”[8]

        “Kiến thức mà nhà Nho theo đuổi trước hết nhắm tới việc nắm vững những hình thức phong cách học, trau dồi một ngôn ngữ lưu loát và tao nhã, ghi nhớ những mĩ từ pháp có tính hàn lâm để đi thi. Ngay từ tuổi ấu thơ, học sinh phải thấm nhuần những chuẩn mực vừa hình thức vừa đạo đức”[9].

        Ở tuổi của Phan Ngọc, đúng ra ông là người hoàn toàn chịu ảnh hưởng của nền giáo dục nước Pháp, nghĩa là hoàn toàn Tây học. Ông học trường Dòng nhờ đó mà thông thạo tiếng Latinh từ nhỏ, rồi theo học trường Thiên Hựu ở Huế, tốt nghiệp Tú tài. Bạn bè cùng tuổi, cùng lớp với ông ở Huế về sau nhiều người thành danh như Nguyễn Đức Từ Chi (1925 - 1995) - nhà dân tộc học hàng đầu, chuyên gia nghiên cứu số một Việt Nam về người Mường; GS Dương Thiệu Tống (1925 - 2008) Hiệu trưởng trường Quốc học Huế và người em họ Nguyễn Bá Đàn về sau này được biết với tên gọi nhà ngoại giao Lý Văn Sáu (1925 - 2012) - người phát ngôn của Chính phủ Cộng hòa Miền Nam Việt Nam tại Hội nghị Paris (1969 - 1973). Nhưng xuất thân trong một gia đình Nho học khoa bảng, phần nào chịu ảnh hưởng từ truyền thống gia đình. Phan Ngọc kể lại: “Tôi là con nhà Nho. Từ bé, 5 - 6 tuổi tôi đã được học chữ Hán. Do đó nếu phải thi cử, tôi đỗ Tiến sĩ cũng chả thua ai. Bởi vì cha tôi rất giỏi. Ông dạy tôi”[10].

        Theo lời kể của PGS Phan Ngọc, “cha dạy con thì kĩ lưỡng lắm”[11]. Thấy con chăm học, không ham chơi, ông cụ rất thích nên càng ra sức dạy dỗ.

        “Sau khi học chữ Hán thì tôi học tiếng Pháp. Tiếng Pháp tôi học với ông thầy Pháp rất giỏi. Còn tiếng Anh thì tôi học ông Tạ Quang Bửu - người giỏi tiếng Anh nhất Đông Dương”[12]. Tuy nhiên, Phan Ngọc khẳng định rằng, dù có thầy giỏi dạy dỗ thì để trở thành “nhà bách khoa” sau này chủ yếu vẫn là tự học.

         Ở trên chúng tôi đã phân tích, lẽ ra Phan Ngọc phải trở thành một người hoàn toàn Tây học. Cuộc đời ông còn nặng về tư tưởng Nho gia phương Đông là vì một hoàn cảnh riêng. Ông có hai người anh trai thông minh từ nhỏ nhưng cả hai đều mất sớm. Điều này làm cho cha ông buồn bã. Cậu bé Phan Ngọc từ nhỏ quanh quẩn bên cha. Người con trai thứ ba này cũng thông minh không thua kém gì các anh cho nên đã trở thành niềm hy vọng của cha. Người xứ Nghệ còn có một truyền thống “phụ tử đăng khoa” - cha dạy con thi đỗ. Phan Ngọc kể rằng, với kiến thức về Nho học do cha dạy, có lần ông cụ đã thốt lên: “Nếu Chính phủ Bảo hộ (Pháp) không bãi bỏ thi cử Nho học (năm 1919 - KMS) thì con đi thi, thế nào cũng đỗ Tiến sĩ, rửa cái nhục cho cha, chỉ được Phó bảng”[13].

        Sau này, khi bước vào con đường nghiên cứu, Phan Ngọc làm việc một cách công phu và nghiêm túc theođúng phương châm của Nho gia: Cách vật - Trí tri (Biết đến tận cùng sự vật - biết đến tận cùng sự biết).

        Nhờ tiếp thu giáo dục nước Pháp, Phan Ngọc đã áp dụng phương pháp nghiên cứu văn hoá mà ông gọi là thao tác luận. Những vấn đề nhà thao tác luận Phan Ngọc đưa ra đều hết sức táo bạo, táo bạo đến mức “khó nghe” nhưng bằng thao tác luận chặt chẽ, điều “khó nghe” ấy đã thuyết phục được người đọc qua các công trình nghiên cứu: Văn hoá Việt Nam một cách tiếp cận mới; Bản sắc văn hoá Việt Nam; Văn hoá Việt Nam tiếp xúc với Pháp; Thứ nhận về văn hoá Việt Nam...

        Phan Ngọc cũng chính là người nêu khái niệm nhân cách luận. Ông cho rằng, nhân cách luận, nhất là nhân cách luận cách mạng, mới đúng là bản chất văn hoá Việt Nam. Phan Ngọc dùng nhân cách luận như là tinh hoa của văn hoá phương Đông để đối lập với cá nhân luận như là sự suy đồi của văn hoá phương Tây. Đỗ Lai Thúy đã chỉ ra tư tưởng của Phan Ngọc “đôi khi không nhất quán, có những yếu tố thuộc về hệ thống của ông, nhưng cũng có nhiều yếu tố ngoài hệ thống lẫn vào, có yếu tố hiện đại, nhưng cũng không ít yếu tố bảo thủ”[14].

        Yếu tố thuộc về hệ thống của ông, có thể nói đó là truyền thống Nho giáo ở Việt Nam. Trò chuyện với người viết bài này, ông nói: “Tôi lo cho cha, cho mẹ, cho anh, cho em, cho vợ, cho con, cho gia đình chứ không phải bỏ tất cả để lo cho mình”[15]. Con người Phan Ngọc chịu ảnh hưởng rõ rệt của gia đình Việt Nam truyền thống. Trong Cải cách Ruộng đất, cha ông - Thượng thư trí sĩ Phan Võ bị đưa ra đấu tố tại quê nhà. Toàn bộ gia sản đều bị đội Cả cách Ruộng đất tịch thu. Thậm chí tính mạng cha ông còn bị đe doạ. May mắn là khi làm quan cho triều đình nhà Nguyễn, Phan Võ nổi tiếng thanh liêm, có nhiều công ơn với người dân Hà Tĩnh, cho nên ông không bị xử bắn ngay. Đang giảng dạy tại Đại học Sư phạm và Đại học Tổng hợp Hà Nội, Phan Ngọc cầm giấy giới thiệu của Bí thư Đảng uỷ Trần Văn Giàu lên gặp Thứ trưởng Bộ Nội vụ.

         “Vị Thứ trưởng này hỏi: “Anh không sợ chết à?” Tôi trả lời: “Chết cho cha là chuyên bình thường”[16]. Phan Ngọc đề nghị cho được gặp Chủ tịch Hồ Chí Minh để thông tin về cha mình là Thượng thư trí sĩ Phan Võ. Tám ngày sau, ông nhận được giấy cho phép về Nghệ Anquê nhà để đưa cha ra Hà Nội. “Sau đó, cha tôi được gặp Cụ Hồ và được bổ vào ban phụ trách Đông y và góp phần xây dựng Viện Hán Nôm, có nhà riêng số 15B đường Trần Hưng Đạo”[17].

        Mới cứu cha thoát khỏi hiểm nguy thì Phan Ngọc lại gặp ngay giông tố giáng xuống đầu mình. Ông có những phát biểu đòi hỏi một bầu dưỡng khí dân chủ, một mảnh Đất mới tại giảng đường Đại học Việt Nam. Phan Ngọc đã viết bài “Mục đích của văn nghệ không phải là giải thích chính sách[18]để tranh luận lại luận điểm của Tổng bí thư Trường Chinh.

        Ông phải viết kiểm thảo về những sai lầm của mình. Cùng với các giáo sư đại học khác (Đào Duy Anh, Nguyễn Mạnh Tường, Trương Tửu, Trần Đức Thảo) thì hai trợ lí của Đại học Tổng hợp là Phan Ngọc và Cao Xuân Hạo không được trực tiếp giảng dạy nữa mà chuyển sang làm nhân viên dịch thuật.

        “Tôi vui vẻ chấp nhận. Đời tôi không oán thán gì cả. Người ta bị kỉ luật, người ta chán nản nhưng tôi không thế. Tôi bị kỉ luật tôi còn hăng hái làm việc cả ngày cả đêm không hề biết mệt”[19].

        Từ năm 1980, Phan Ngọc được chuyển sang công tác tại Viện nghiên cứu Đông Nam Á thuộc Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam ngày nay. Ông được phong học hàm Phó Giáo sư năm 1992 và về nghỉ hưu năm 2000.

        Tổ quốc trên hết - Dân tộc trên hết

        Tư tưởng “Tự do - Bình đẳng - Bác ái” của Cách mạng Pháp đã khiến những người trí thức Việt Nam như Nguyễn Mạnh Tường và Phan Ngọc dù xuất thân trong những gia đình Nho học song vẫn khảng khái nói lên tiếng nói trung thực của trí thức. Họ biết rằng nói thẳng, nói thật sẽ chịu nhiều thiệt thòi, nhưng họ vẫn bày tỏ chính kiến của mình.Và họ chấp nhận thiệt thòi mà không hề oán trách. Đối với họ Tổ quốc vẫn là trên hết.

        Trong Hồi kí của mình, Nguyễn Mạnh Tường bày tỏ:

        “Bổn phận và nghĩa vụ của tôi đối với nhân dân trước đây đã có nay lại được tăng cường lên vì tôi không chỉ là một con người trong nhân dân mà chính là đứa con của nhân dân đẻ ra. Vì vậy, không có gì lạ rằng tôi phải sống và chết vì nhân dân. Dù phải chịu nỗi khổ cực điêu đứng, tai hại đến đâu đi nữa, tôi không thể nào quên được rằng cái gì đã gắn bó tôi với nhân dân và mối tình cốt nhục còn nặng hơn tình yêu hoặc tình bè bạn. Một mối tình như vậy không phải chỉ nói lên trên môi mà phải thấm thía trong lòng, phải biểu hiện bằng hành động cụ thể, bằng những hi sinh để xứng đáng với nhân dân, bố mẹ “tinh thần” của tôi.

        Khổ thế này chứ khổ hơn nữa tôi cũng không thể xa rời, từ bỏ bố mẹ để đi mưu cầu một số phận tươi vui hơn được. Một người con làm trọn bổn phận đối với những người đã sinh thành ra mình là cảm thấy rất sung sướng và bình tĩnh.

        Đó là bí quyết tại sao tôi vẫn vui vẻ lạc quan và tin tưởng ở tương lai. Nhân dân đã trả lại cho tôi một Tổ quốc, lại cứu sống tôi, tôi nhất định sống và chết với nhân dân trên bờ cõi của đất nước”[20].

       Phan Ngọc cũng có ứng xử giống như Nguyễn Mạnh Tường dù suốt hơn 30 năm họ không gặp nhau. Việt Nam sau Đổi mới từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (1986), do biết nhiều ngoại ngữ nên Phan Ngọc được các trường Đại học quốc tế của Pháp, Thái Lan, Trung Quốc, Hồng Kông, New Zealand, Singapore... mời đến giảng dạy. Những quốc gia này đều có lời mời ông ở lại nhưng ông đều từ chối và trở về Việt Nam. Kể lại với người viết bài này, ông nói: “Cái khổ của người trí thức là như thế này: Không phải lúc nào cũng nói được. Khó lắm”[21].

        Phan Ngọc còn nhớ hình ảnh Nguyễn Mạnh Tường phải đi cuốc đất trồng cây. Sống một cuộc sống vất vả, thiếu thốn về vật chất nhưng họ chấp nhận. Theo Phan Ngọc, nếu Nguyễn Mạnh Tường mà rời Việt Nam sang Pháp sinh sống thì sẽ có một cuộc sống sung sướng. Phan Ngọc cũng vậy. Song cả Nguyễn Mạnh Tường và Phan Ngọc đều không rời bỏ Việt Nam. “Mình phải giữ cái tư cách của mình”[22].

        “Qua bên Trung Quốc, Thái Lan, Pháp, họ mời tôi ở lại. Tôi không ở. Tại sao? Bởi vì mình là người Việt Nam, mình còn Tổ quốc. Vả chăng Tổ quốc của mình phi thường. Tổ quốc mình đặc biệt. Tổ quốc mình đánh được Nhật, đánh được Tây, đánh được Mỹ. Nhân dân hi sinh như vậy không có lẽ mình ngồi không? Mình ngồi không thì mặt mũi nào mà nhìn nhân dân? Cho nên là tôi về. Khổ mấy tôi cũng về chứ không ở lại. Tôi về lo cho đất nước của tôi. Tôi về tôi sống một cuộc sống nhỏ bé”[23]./.



[1]Nguyễn Khắc Viện, Lê Diên: Cách mạng 1789 và chúng ta (Kỉ niệm 200 năm Đại Cách mạng Pháp), NXB TP. Hồ Chí Minh, 1989

[2]Nguyễn Tường Tam: Một buổi tối nói chuyện với ông Nguyễn Mạnh Tường – Văn khoa, Luật khoa Tiến sĩ, Phong Hoá tuần báo, 06/10/1932

[3]Trịnh Văn Thảo: Nhà trường Pháp ở Đông Dương, NXB Thế giới, 2009

[4]Trịnh Văn Thảo: Nhà trường Pháp ở Đông Dương, NXB Thế giới, 2009

[5]Nam Phong tạp chí, số 173, tháng 6/1932: Gương thanh niên.

[6]Hồi kí Nguyễn Mạnh Tường – Tư liệu gia đình do ông Nguyễn Tường Hưng cung cấp

[7]Tư liệu gia đình do Kĩ sư Nguyễn Tường Hưng cung cấp

[8]Đặng Thai Mai: Hồi kí, NXB Tác phẩm mới, 1985

[9]Trịnh Văn Thảo: Nhà trường Pháp ở Đông Dương, NXB Thế giới, 2009

[10]Hỏi chuyện PGS Phan Ngọc, 01/10/2010 (tư liệu cá nhân tác giả)

[11]Hỏi chuyện PGS Phan Ngọc, 14/8/2012 (tư liệu cá nhân tác giả)

[12]Hỏi chuyện PGS Phan Ngọc, 14/8/2012 (tư liệu cá nhân tác giả)

[13]Hỏi chuyện PGS Phan Ngọc, 21/8/2008 (tư liệu cá nhân tác giả)

[14]Đỗ Lai Thuý: Phan Ngọc – Tấm huy chương nhìn từ mặt trái

[15]Hỏi chuyện PGS Phan Ngọc, 28/02/2010 (tư liệu cá nhân tác giả)

[16]Hỏi chuyện PGS Phan Ngọc, 28/02/2010 (tư liệu cá nhân tác giả)

[17]Hỏi chuyện PGS Phan Ngọc, 28/02/2010 (tư liệu cá nhân tác giả)

[18]Phan Ngọc: Mục đích của văn nghệ không phải là giải thích chính sách – Tự do diễn đàn, số 1, (năm 1956)

[19]Kiều Mai Sơn: Học giả Phan Ngọc – Tôi sống nhỏ bé; Tạp chí Văn hoá Nghệ An – Tết Mậu Tuất (2018)

[20]Tư liệu gia đình do ông Nguyễn Tường Hưng cung cấp

[21]Hỏi chuyện PGS Phan Ngọc, 10/10/2010 (tư liệu cá nhân tác giả)

[22]Hỏi chuyện PGS Phan Ngọc, 28/02/2010 (tư liệu cá nhân tác giả)

[23]Hỏi chuyện PGS Phan Ngọc, 01/10/2010 (tư liệu cá nhân tác giả)

 

tin tức liên quan

Thống kê truy cập

114546331

Hôm nay

2152

Hôm qua

2270

Tuần này

2897

Tháng này

216653

Tháng qua

1114325557

Tất cả

114546331