Những góc nhìn Văn hoá
Chữ Quốc ngữ - Sự lựa chọn phù hợp của dân tộc Việt

Lớp học trong kháng chiến. Nguồn: Giaoduc.net
1. Dẫn nhập
Chữ Quốc ngữ,hệ thống văn tự lấy chữ cái Latin để ghi âm tiếng Việt, đã trở thành một phần của lịch sử văn hóa dân tộc Việt. Nếu chỉ tính từ dấu mốc năm 1651, khi Alexandre de Rhodes cho in cuốn Dictionarium Annamiticum Lusitanum et Latinum (Từ điển Việt - Bồ - La) với những hệ thống hóa bước đầu cách ghi âm tiếng Việt bằng con chữ Latin đến nay đã gần bốn trăm năm. Bốn thế kỷ với biết bao thăng trầm, khi thì bị coi là công cụ của kẻ xâm lược, lúc lại được tôn vinh là cầu nối khai mở văn minh, hệ thống văn tự này đã song hành để tới nay trở thành văn tự chính thức trên thực tế của Việt Nam. Trải qua những cố gắng tiên khởi của các cố đạo, các thương nhân phương Tây cùng những cộng sự người Việt, chữ Quốc ngữ đã hoàn thiện để từng bước khẳng định vị thế, rồi trải qua thế kỷ XX đầy sóng gió, vững vàng trở thành một công cụ hữu hiệu trong công cuộc chuyển mình của Việt Nam.
Bài viết này sẽ phân tích những mặt tích cực mà chữ Quốc ngữ đã thể hiện trong thực tiễn cuộc sống từ những đặc trưng ngữ học bản thể của loại hình văn tự này. Những ưu thế ấy được xác định rõ ràng nhằm minh chứng chắc chắn thêm rằng chữ Quốc ngữ hoàn toàn phù hợp và hữu ích với tiến trình phát triển hướng tới hiện đại của dân tộc ta.
2. Chữ Quốc ngữ là của đại chúng
Trong không khí hoài niệm về sự đứt gãy văn hóa truyền thống do người Việt đã từ bỏ chữ Hán, học giả Cao Xuân Hạo đã dựa trên những tri thức về ngôn ngữ học để nhấn mạnh sự vượt trội trong tương quan phù hợp với đặc trưng bản thể tiếng Việt của chữ Hán (chữ khối vuông, văn tự ghi ý)[i] đối với chữ Quốc ngữ (chữ cái Latin, văn tự ghi âm)[ii]. Ông ngầm định một lưỡng phân rạch ròi giữa các ngôn ngữ “tiểu âm vị” (micro-phonématiques) (hiện diện phổ biến ở các ngôn ngữ biến hình)với các ngôn ngữ thuộc loại “đại âm vị”(macro-phonématiques)(như tiếng Việt, tiếng Hán). Rồi sau đó khẳng định: “… tự mẫu La Tinh, một hệ thống văn tự phản ánh cấu trúc âm vị học của các ngôn ngữ biến hình kiểu châu Âu, trong đó đơn vị cơ bản là “tiểu âm vị”, một đơn vị được thể hiện bằng một “âm tố”, trong khi đơn vị cơ bản của hệ thống âm vị học tiếng Việt là tiếng, hay “hình tiết” (morphosyllabème) - vốn đồng thời là đơn vị ngữ nghĩa và ngữ pháp.”[Cao Xuân Hạo,1998]. Quả là khó thuyết phục nếu cho rằng chữ cái Latin không phù hợp với tiếng Việt, bởi chúng là hai sản phẩm của hai cực đối lập tư duy - với tư duy tổng hợp người phương Đông chọn văn tự ghi ý, còn người phương Tây với tư duy phân tích lại thích văn tự ghi âm.Cho tới tận ngày nay dường như vẫn chưa có một chứng minh khoa học nào đủ thuyết phục về tính lý do của mối quan hệ giữa âm và chữ. Cơ sở xây dựng một hệ thống văn tự cho một ngôn ngữ là sự lựa chọn của dân tộc đó chứ chưa hẳn vì bản chất loại hình của ngôn ngữ (là biến hình hay đơn lập, chắp dính hay đa tổng hợp). Ví dụ như tiếng Ai Cập được xếp vào loại hình ngôn ngữ biến hình nhưng lại xây dựng cho mình một hệ thống văn tự tượng hình cổ xưa (văn tự ghi ý). Hay như bộ chữ ghi âm Hangul của bán đảo Triều Tiên lại được ca ngợi như một sự sáng tạo vĩ đại và phù hợp cho một ngôn ngữ chắp dính. Vì vậy khó có thể dựa vào luận điểm đặc trưng loại hình để khẳng định rằng chữ Hán phù hợp với tiếng Việt hơn chữ Quốc ngữ. Có lẽ câu chuyện phù hợp hay không phù hợp của một hệ văn tự đối với một ngôn ngữ nằm ở một khía cạnh khác - tác dụng phổ cập trong đời sống xã hội.
Từ góc nhìn hướng tới giá trị ứng dụng thực tiễn đối với xã hội, chữ Quốc ngữ có những lợi thế rõ rệt. Người học chữ Quốc ngữ sẽ được cấp cho nguyên liệu là 29 ký tự và họ thỏa sức sáng tạo với những mô hình lắp ghép các ký tự rời rạc ấy. Dễ dàng và tiện lợi hơn việc ròng rã học từng nét từng chữ Hán một, để sau một năm mới có thể đọc và hiểu được khoảng 1.200 chữ. Một sinh viên Trung Quốc đã tốt nghiệp đại học, dù được sống trong môi trường bản ngữ thì vẫn cần đến từ điển khi đọc báo bởi một số từ chưa bao giờ được tiếp xúc và cũng không biết đọc ra sao[iii]. Chữ Quốc ngữ, một văn tự thuần ghi âm bộc lộ ưu thế hơn hẳn chữ Hán ở điểm này. Với bất kỳ mô hình lắp ghép đúng đắn nào của các ký tự Latin, chữ Quốc ngữ đều có thể được dễ dàng phát âm chuẩn xác theo đúng những quy ước mà ký tự ấy mô phỏng âm thanh tự nhiên tiếng Việt. Thật sự may mắn bởi lịch sử đã chọn chữ Quốc ngữ chứ không phải là một văn tự ghi ý dày đặc những đơn vị mới liên tục cần bổ sung như chữ Hán hay là một thứ văn tự phức tạp kết hợp chữ Hán với những quy tắc phiên âm bản địa rồi suy luận theo văn cảnh làm nản lòng cả những người kiên nhẫn nhất như tiếng Nhật.
Hóa trang thành nông dân để đi học. Ảnh TL tại Nhà kỷ niệm Hội truyền bá Quốc ngữ Hà Nội
Vì tính hữu dụng, chữ Quốc ngữ thuộc về đại chúng chứ không phải chỉ một bộ phận nhỏ tầng lớp tinh hoa như chữ Hán hay chữ Pháp. Chỉ khoảng ba tháng, người học đã có thể đánh vần để đọc được chữ Quốc ngữ, và khoảng một vài tháng sau anh ta hoàn toàn có thể làm chủ hệ thống văn tự này một cách thuần thục. Thực tế lịch sử Việt Nam đã cho thấy, với nòng cốt ban đầu là Hội truyền bá chữ Quốc ngữ (được thành lập năm 1938), kế tiếp là phong trào Bình dân học vụ (được phát động vào tháng 09/1945), chữ Quốc ngữ đã nhanh chóng được giới thiệu đến đông đảo quần chúngvà nạn mù chữ trên khắp Việt Nam đã được khắc phục trong một thời gian ngắn. Theo số liệu của Marr (1984), cuối năm 1945, sau hơn ba tháng phát động, phong trào mở được hơn 22.100 lớp học với gần 30.000 giáo viên và đã dạy cho hơn 500.000 ngườibiết chữ. Đến cuối năm 1946, Bộ Quốc gia giáo dục báo cáo có 74.975 lớp với 95.665 giáo viên, riêng ở Bắc Bộ và Trung Bộ đã có 2.520.678 người biết đọc, biết viết. Quả thực, với một đất nước thuộc địa có đến hơn 95% người dân mù chữ, chữ Quốc ngữ với khả năng phổ cập nhanh chóng đã góp phần tăng thêm uy tín của nước Việt Nam mới non trẻ với thành tựu của một trong những phong trào văn hóa đầu tiên - “Diệt giặc dốt”. Từ đây, phần lớnngười dân Việt Nam đã có thể từng bước tiếp cận với sách vở, nguồn cung cấp tri thức hữu ích đối với nhân loại, cũng như vớibáo chí, nguồn thông tin cập nhật hàng ngày, để dần thoát khỏi đời sống u tối, trì trệ mà giai cấp thống trị luôn muốn duy trì.
3. Chữ Quốc ngữ hướng tới hội nhập quốc tế
Lợi thế thứ hai mà chữ Quốc ngữ đem lại cho những người sử dụng là khả năng hội nhập quốc tế. Trong thời đại của những tiếp xúc và giao lưu, việc hội nhập trở thành một đòi hỏi bức thiết. Dù rằng không phải lúc nào cũng được nhìn nhận khách quan, trong thực tế, chữ Quốc ngữ đã góp một phần đáng kểkéo gần hơn khoảng cách Việt Nam với thế giới, với xu thế phát triểnkỹ thuật công nghệ của thời đại.
Bằng việctham gia vào cộng đồng các nước sử dụng hệ chữ cái Latin, chữ Quốc ngữ giúp cho việc nhập nội các thuật ngữ quốc tế, và đặc biệt là phiên chuyển tên riêng tiếng nước ngoài sang tiếng Việt theo hình thức để nguyên dạng đảm bảo được tính chính xác cũng như khoa học. Để nguyên dạng tên riêng nước ngoài sẽ giúp cho việc xác định những nhân danh, địa danh ấy đích xác và dễ dàng hơn khi Việt Nam mở cửa hội nhập giao lưu trực tiếp với thế giới. Nhìn vào thực trạng những năm dài trong quá khứ, khi Việt Nam nhìn thế giới thông qua lăng kính Trung Quốc, những cái tên Bát Nhĩ Trát Khắc (Balzac), thành Nhã Điển (thành Aten), điện Cẩm Linh (điện Kremlin), v.v… thực quá khó hiểu và gây phiền hà. Người Việt Nam tới nước Pháp, nhưng chỉ biết Lư Thoa, Mạnh Đức Tư Cưu mà chẳng biết Rousseau, Montesquieu là ai, qua Mỹ thì chỉ biết Nữu Ước, Cựu Kim Sơn mà không biết New York, San Francisco ở đâu, đến Đức lại xa lạ với Marx, với Berlin vì đã quá quen thuộc với Mã Khắc Tư, với Bá Linh, v.v… Ngày nay tại Trung Quốc đại lục vẫn cần có một ủy ban chuyên trách về văn tự để dịch những tên riêng nước ngoài sang chữ Hán, kiểu như Cao Lộ Khiết 高露洁(kem đánh răng Colgate), Khải Đức Cơ 肯德基(hãng gà rán KFC), Áo Ba Mã 奥巴马/奧巴馬(tổng thống Mỹ Obama), v.v… Việt Nam, với chữ Quốc ngữ đã thoát khỏi sự rườm rà này bởi một hệ thống mấy chục chữ cái Latin rất cơ động có thể tháo rời và lắp ráp lại theo bất kỳ mô hình từ ngữ nào đó hoàn toàn đúng chính tả (miễn sao những tên riêng ấy được viết bằng chữ Latin hoặc đã được chuyển tự sang chữ Latin).
Ưu thế của khả năng phân tách một chỉnh thể (chữ) thành nhiều bộ phận nhỏ hơn (chữ cái/con chữ) của chữ Quốc ngữ còn tạo điều kiện thuận lợi cho những ứng dụng trong công nghệ thông tin hiện đại ngày nay như: soạn thảo văn bản điện tử, dịch thuật tự động bằng máy tính hay những thao tác kỹ thuật cao như lập trình phần mềm, v.v…Với mấy chục ký tự được mã hóa, người soạn thảo có thể tự tin mô phỏng được tất cả các hình thức tồn tại của tiếng Việt tự nhiên.
4. Chữ Quốc ngữ góp phần vun bồi bản sắc dân tộc
Đặc biệt hơn hết, chữ Quốc ngữ đã có những đóng góp quan trọng trong công cuộc định hình bản sắc dân tộc thời hiện đại. Thế kỷ XX đã chứng kiến những cố gắng chuyển mình để hiện đại hóa nền văn hóa Việt nhờ những động lực bền bỉ từ chữ Quốc ngữ, hệvăn tự không chỉ phản ánh tiếng nói mà còn truyền tải tư duy và vun bồi văn hóa dân tộc.
Trước tiên phải kể tới một luồng gió mới tác động tớiđời sống xã hội và văn học nghệ thuật của Việt Nam, theo cùng chữ Quốc ngữ.Thay vì được phổ biến trong đời sống rồi được quy chuẩn hóa thành từ điển/tự điển, chữ Quốc ngữ có một lộ trình định hình khá đặc biệt. Kể từ những sắp xếp hệ thống của Alexandre de Rhodes ở Dictionarium Annamiticum Lusitanum et Latinum (1651), những chú giải chi tiết ở Dictionarium Anamitico Latinum của Pigneau de Behaine (1773) cho tới một diện mạo khá hoàn chỉnh ở Nam Việt Dương hiệp tự vị của Jean-Louis Taberd (1838), chữ Quốc ngữ lần đầu tiên được phổ biến tới xã hội Việt Nam qua việc phát hành Gia Định báo của Trương Vĩnh Ký ngày 15 tháng 4 năm 1865 tại Sài Gòn. Tiếp sau, một số báo khác như Phan Yên báo (1868), Thông loại khóa trình (1888), Nông cổ mín đàm (1900), Lục tỉnh tân văn (1910), Nữ giới chung (1918) cũng được phép xuất bản tại Nam kỳ trong một định hướng phổ biến chữ Quốc ngữ của chính quyền thuộc địa. Kế theo những nhật báo đưa tin đời sống xã hội là hai tạp chí mang tính chất của những học báo thiên về văn hóa, học thuật: Đông Dương tạp chí (1913-1919) và Nam Phong tạp chí (1917-1934). Dấu ấn đồ sộ về hàm lượng tri thức vàmức độ phổ biến của các tạp chí này cũng là minh chứng cho sự trưởng thành cũng như vai trò của chữ Quốc ngữ. Không chỉ dễ dàng truyền tải những nội dung đời sống hàng ngày, Chữ Quốc ngữ đã có thể vững vàng diễn đạt những quan điểm lý thuyết, những tư tưởng khoa học tiên tiến bấy giờ.Cùng báo chí với những thể loại hiện đại như phóng sự, du ký, bình luận, v.v… được hình thành và khẳng định giá trị, các tiểu thuyết theo phong cách mới thay vì các tiểu thuyết chương hồi cổ điển đã được nhóm Tự lực văn đoàn sử dụng chữ Quốc ngữ như là một phương thức hữu hiệu nhằm cách tân toàn diện, hướng tới một diện mạo mới mẻ của văn xuôi tiếng Việt. Phong trào Thơ mới cũng vượt khỏi những niêm luật ràng buộc của thi luật mang đậm phong cách Hán văn,để sử dụng chữ Quốc ngữ điêu luyện với những khổ thơ, những nhịp thơ tự do. Và kịch nói, một thể loại sân khấu mới hoàn toàn, chưa từng có trong truyền thống diễn xướng của Việt Nam (chèo, tuồng, cải lương đều là kịch hát), đã được hình thành và phát triển mạnh mẽ đầu thế kỷ XX. Cùng sự trợ lực từ chất liệu hình thức là chữ Quốc ngữ, các kịch bản kịch nói được viết ra rồi biểu diễn bài bản theo hướng sân khấu hiện đại chứ không cònluyện tập theo phương thức truyền khẩu như những ngành nghệ thuật dân gian trước đây.
Sau Cách mạngTháng Tám, việc thành lập nước Việt Nam mới đã thôi thúc tinh thần tự lập tự cường của người dân nước Việt và chữ Quốc ngữ đã được chọn trở thành hệ thống văn tự duy nhất của nước Việt Nam độc lập, thay vì trạng thái nhiều dạng thức văn tự (gồm chữ Hán, chữ Pháp và chữ Quốc ngữ)cùng hiện diện trong một văn bản thời thuộc địa trước đây. Chữ Quốc ngữ đảm đương vai trò của một công cụ để xây dựng một quốc gia hoàn toàn độc lập từ chính trị, xã hội và đặc biệt là khoa học kỹ thuật. Việc thành lập các trường đại học và đưa tiếng Việt cùng chữ Quốc ngữ vào trong giảng dạy một cách chính quy là một điểm sáng đáng ghi nhận trong tầm nhìn của chính sách văn hóa cũng như công sức của các giáo sư thời bấy giờ. Song song với việc sử dụng chữ Quốc ngữ trong nhà trường, đặc biệt là nhà trường đại học, cấp học đào tạo tầng lớp tinh hoa cho đất nước, là việc từng bước hình thành hệ thống danh từ chuyên môn khoa học (thuật ngữ) Việt. Xây dựng hệ thống thuật ngữ một mặt thể hiện quá trình tiếp nhận rồi thâu hóa tri thức khoa học hiện đại của nhân loại, mặt khác khẳng định tầm vóc cũng như bản sắc tri thức của dân tộc. Một dân tộc phải ở một trình độ học vấn như thế nào mới cần đến, mới có điều kiện để xây dựng những định danh về khoa học kỹ thuật, văn hóa xã hội như thế. Ngược lại, những định danh về khoa học kỹ thuật, văn hóa xã hội lại phản ánh nội hàm văn hóa trí tuệ mang giá trị bền vững của một dân tộc. Tuy nhiên, muốn gây dựng được một hệthống thuật ngữ chính xác, khoa học, hiện đại, ngôn ngữ được sử dụng làm chất liệukhông chỉ cần phong phú về hình thức mà còn phải đạt đến độ tinh tế về nội dung. Với khởi đầu là những thuật ngữ khoa học xã hội được lồng ghép giới thiệu ở Hán - Việt từ điển giản yếu của Đào Duy Anh (1932) và những thuật ngữ khoa học được sắp đặt hệ thống trong Danh từ khoa học - Toán, lý, hóa, cơ, thiên văn của Hoàng Xuân Hãn (1942), chữ Quốc ngữ đã từng bướckhẳng định được vai trò hữu ích của mình trong công cuộc xây dựng nền tảng văn hóa tri thức, đặt cơ sở cho những phát triển hệ thuật ngữ, rộng hơn là văn hóa tinh hoa ở Việt Nam. Theo Lê Quang Thiêm (2018), trong giai đoạn 1945-1954 có 12 từ điển thuật ngữ được xuất bản trên khắp cả nước, giai đoạn 1955-1976 là 56 cuốn (với miền Bắc 36 cuốn, miền Nam 20 cuốn), giai đoạn hậu chiến 1976-1985 có 65 cuốn, giai đoạnđổi mới mở cửa 1986-1995 tăng lên 83 cuốn và đặc biệt giai đoạn hội nhập quốc tế 1995-2005 vượt trội với 172 cuốn.Chỉ trong vòng hơn nửa thế kỷ, từ điển thuật ngữ tiếng Việt đã có một kho tàng đồ sộ, bao gồm từ điển thuật ngữ, từ điển đối chiếu, rồi đối dịch thuật ngữ hai, ba và nhiều ngôn ngữ - thể hiện rõ ràng tính chất đa nguồn và cập nhật của chúng. Các từ điển thuật ngữ không chỉ hạn hẹp trong những ngành lớn mà đã phân chia thành các chuyên ngành cụ thể, ví như:ngành Kinh tế thành Kinh tế thương mại, Kinh tế bảo hiểm, Kinh tế hàng hải, Kinh tế tài chính, Kinh tế kiểm toán, v.v…, rồi chuyên ngành Kinh tế kiểm toán lại chia tiếp thành Kiểm toán quốc tế, v.v… Ban đầu chủ yếu là các từ điển thuật ngữ các ngành, chuyên ngành khoa học cơ bản, sau mở rộng ra các ngành, chuyên ngành ứng dụng, rồi dịch vụ phục vụ đời sống.Ngày nay, người Việt Nam với tư duy Việt, trên cơ sở tiếng Việt văn hóa đã hoàn toàn có thể diễn đạt được mọi tư tưởng, mọi quan điểm học thuật của mình bằng chữ Quốc ngữ mà không hề gặp bất kỳ trở ngại khó khăn nào nhờ những tri thức đã được củng cố và điển chế hóa chính xác ở các thuật ngữ. Chữ Quốc ngữ đã góp phần xác lập được không gian văn hóa trí tuệ tiên tiến và hiện đại cho riêng Việt Nam trong mấy mươi năm ngắn ngủi của thế kỷ XX.
5. Kết luận
Mặc dù chữ Quốc ngữ không phải đã hoàn chỉnh toàn vẹn. Một số điểm chưa hoàn thiện của chữ Quốc ngữ như: địa vị của các chữ cái F,J,W,Z trong hệ thống nên được xem xét ra sao khi việc nhập nội các từ ngữ nước ngoài vẫn cần có; ba chữ cái K,C, Q thực chất gây nên rườm rà bởi chúng chỉ mô phỏng một âm /k/trong tiếng Việt tự nhiên; khi nào dùng I và khi nào dùng Y đặc biệt trong các trường hợp lưỡng khả đứng sau các phụ âm H, K, L, M, S, T; v.v… đã thôi thúc để nhiều ý tưởng cải tiến chữ Quốc ngữ. Nhưng dầu sao chữ Quốc ngữ cũng đã đảm đương được, nếu không muốn khẳng địnhrằng đãhoàn thành rất xuất sắc, vai trò của một văn tự chính thức đối với đời sống xã hội Việt Nam. Những hạn chế là khó tránh khỏi nhưng nên chăng công bằng nhìn nhận chữ Quốc ngữ ở những điểm hệ văn tự này đã đóng góp cho quá trình định hình hiện đại cũng như định hướng phát triển của dân tộc, của đất nước.
Dĩ nhiên, lịch sử không có chữ “nếu”, nhưng ta hãy thử đặt giả thuyết rằng, lịch sử Việt Nam không có chữ Quốc ngữ thì chuyện gì sẽ xảy ra. Nếu không phải chữ Quốc ngữ với hệ thống ký tự đơn giản và dễ dàng ghi nhớ, lắp ráp thì đến nay mù chữ vẫn là một nan đề mà nhà nước cần giải quyết. Nếu không có chữ Quốc ngữ với bộ chữ cái Latin thông dụng trên toàn thế giới thì việc phiên dịch tên riêng nước ngoài, việc mã hóa tiếng Việt trong lĩnh vực công nghệ thông tin hôm nay và đặc biệt là trí tuệ nhân tạo ngày mai sẽ hết sức cồng kềnh phức tạp và gặp nhiều trở ngại. Nếu không có chữ Quốc ngữ, trong suốt cả một thế kỷ XX, một thế kỷ cầncó những bước tiến nhanh, tiến kịp với xu thế phát triển của văn minh toàn cầu, văn hóa Việt Namsẽ không thể hiện đại hóa mà hội tụ nên bản sắc văn hóa của riêng mình như đã đạt được.
Rõ ràng, chữ Quốc ngữ là một sự lựa chọn phù hợp của dân tộc Việt.
Danh mục tài liệu tham khảo
- Cao Xuân Hạo(1998), “Mấy vấn đề về chữ Quốc ngữ” in trongTiếng Việt – mấy vấn đề ngữ âm, ngữ pháp, ngữ nghĩa, Nxb. Giáo dục, Tp.Hồ Chí Minh.
- Cao Xuân Hạo(2001), “Chữ Tây, chữ Hán, thứ chữ nào hơn?” in trong Tiếng Việt, văn Việt, người Việt, Nxb. Trẻ, Tp.Hồ Chí Minh.
- David, G. Marr(1984), Vietnamese Tradition on Trial, 1920-1945, University of California Press., California (USA).
- Dương Xuân Quang(2016), “Biến thể văn tự nào phù hợp cho tiếng Việt: chữ khối vuông hay chữ cái Latin?”, The 3rd International Conference on Vietnamese and Taiwanese Studies (Hội thảo khoa học quốc tế “Việt Nam học và Đài Loan học lần thứ 3”), Đại học Quốc gia Thành Công/ National Cheng Kung University, Đài Nam (Đài Loan) – 12-14/11/2016
- Đoàn Thiện Thuật(2012), “Vài suy nghĩ về ảnh hưởng của chữ viết tới chiều hướng và sự phát triển của văn hóa ở Việt Nam” in trong Những vấn đề ngôn ngữ và văn hóa, Nxb. Thông tin và truyền thông, Hà Nội.
- Đỗ Quang Chính (2008 - in lần 3; 1972), Lịch sử chữ Quốc ngữ (1620-1659), Nxb. Tôn giáo, Hà Nội.
- Lê Quang Thiêm (2018), Sự phát triển hệ thuật ngữ tiếng Việt theo định hướng văn hóa, Nxb Đại học Quốc giaHà Nội, Hà Nội.
- Nguyễn Quang Hồng(2012, in lần 3), Âm tiết và loại hình ngôn ngữ, Nxb.Đại học Quốc gia Tp. Hồ Chí Minh, Tp. Hồ Chí Minh.
- Roland Jacques- Viện Ngôn ngữ học dịch (2007), Những người Bồ Đào Nha tiên phong trong lĩnh vực Việt ngữ học, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.
*. Đại học KHXH&NV- Đại học Quốc gia Hà Nội
. [i] Văn tự ghi ý hay chữ tượng hình (Logogram), là hệ thống chữ viết mà mỗi ký hiệu tương ứng với một đơn vị nhỏ nhất mang ý nghĩa (từ hoặc hình vị). Trong đó chia làm ba nhóm: chữ thuần tượng hình (Pictograph) như chữ Đông Ba của dân tộc Naxi (Trung Quốc), chữ tượng hình dựa vào phụ âm (Logoconsonantal) như chữ Ai Cập cổ, và chữ tượng hình dựa vào âm tiết (Logosyllabic) như chữ Hán, chữ Nôm của Việt Nam, chữ hình nêm của các dân tộc Tây Á, chữ của người Maya ở Trung Mỹ.
[ii] Văn tự ghi âm hay chữ tượng thanh (Phonogram), là hệ thống chữ viết mà mỗi một ký hiệu (chữ cái) phản ánh một đơn vị âm thanh cụ thể của ngôn ngữ (có thể là một âm vị hay một tổ hợp âm vị -âm tiết).
[iii] Xin cảm ơn học trò cũ Quách Yến, hiện đang là nghiên cứu sinh tại Đại học Bắc Kinh (Trung Quốc), đã cung cấp cho chúng tôi thông tin này.
tin tức liên quan
Videos
Phân tầng xã hội và di dộng xã hội ở Việt Nam hiện nay [kỳ cuối]
Bàn về “Học thật, thi thật, nhân tài thật” ( Kỳ 2)
Những âm thanh vang vọng núi rừng Tương Dương
Hội nghị Sơ kết cụm thi đua 6 tỉnh Bắc Trung Bộ năm 2023
Chuyện về những người phụ nữ có ảnh hưởng đến cuộc đời và sự nghiệp của vua Mai
Thống kê truy cập
114559436

2136

2317

2754

226979

122920

114559436