Góc nhìn văn hóa

Đón Xuân với bức tranh đẹp và câu đối hay

 

 

       Bức tranh và đôi câu đối vẽ và khảm trên tấm gỗ quý này được người xưa đặt làm có ý tứ thẩm mỹ cao và ý nghĩa xã hội rất sâu sắc. Bức tranh gỗ đo được, rộng 64 cm, dài 105,5 cm. Phần bên tả (bên trái) bức tranh được thiếp vàng, vẽ: Một gốc cây già cỗi sần sùi, nhiều hốc mắt, chân dế vững chãi, phía trên hơi loe giống như một ống đựng bút và vật dụng của một vị quan tướng hoặc một nhà Nho uyên thâm. Ống đựng các vật có: Kiếm, các bút lông, cặp phách, một cuốn thư (sách cuốn), một quạt Ba tiêu, giữa quạt có gắn một hình tròn, có thể là viên ngọc, hay một mặt trời, mặt trăng, giống như một con mắt nhìn thấu vạn vật và sự đời, cán thân quạt có thắt một dây nơ. Ống đựng giống như một gốc cây tùng già, ý nghĩa dành cho vị chủ nhân là người khá nhiều tuổi, trải sự đời, có kinh nghiệm sống, có tính cách, nhân cách vững vàng. Ống này lại được đặt trên một tấm lá sen mềm mại, phía trên kề miệng ống cũng có một thân lá sen mềm mại, chứng tỏ chủ nhân là một bậc trí thức uyên thâm, ứng xử mềm mại trong cuộc sống. Bên cạnh có một bông sen trắng mọc nổi lên, vừa đương búp, vừa xòe cánh tươi đẹp. Phần giữa tấm gỗ có vẽ một lư hương (cổ đồ) được đặt trên một cái đế có 3 chân. thân lư có gắn hai quai hai bên theo kiểu hoa văn cách điệu và giống với hình cánh con giơi, ý nghĩa như ngũ phúc lâm môn (đón 5 phúc vào nhà). Đây rõ là một lư thắp trầm hương, với ngọn khói bốc lên giống như một quầng mây thơm đẹp và uốn hình thành một làn khói hóa long (rồng).

        Chứng tỏ chủ nhân các đồ vật trên là người tài năng "Cầm, kỳ, thi, họa", có tri thức, có đậu đạt khoa bảng, có tài năng tế thế, có tài hoa thơ văn và cách sống như một vị quan, vị tiên giáng trần, được người đời coi trọng, giống như cây sen trong bùn lầy mà vẫn thơm tho, đẹp tươi, trong sáng:

Trong đầm gì đẹp bằng sen

Lá xanh bông trắng lại chen nhị vàng

Nhị vàng, bông trắng, lá xanh

Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn.

       Ở bên hữu (bên phải) bức tranh gỗ này có khảm đôi câu đối 10 chữ Hán, mỗi dòng có 5 chữ. Chữ được đục vào gỗ và khảm lên bằng một vật liệu có màu trắng, có thể được cắt từ xương voi hay động vật quí, có khả năng từ xưa làm bằng ngà voi hay ốc quí, rồi bị bóc đi thay vật liệu khác vào (?).

        Đôi câu đối nguyên văn và phiên dịch như sau:

風—雲_三尺劍?

花Ô馬n一床書?

Phong vân tam xích kiếm;

Hoa mă nhất sàng thư.

        Giải nghĩa:

        Ba thước kiếm có thể quần mây, đảo gió (Bài kiếm hay, đường kiếm siêu tài tạo sức mạnh như rồng phun mây, như hổ vờn gió, có thể xoay chuyển cả trời đất, xă hội);

        Một giường sách đủ để lên ngựa thưởng hoa (Đọc được nhiều sách, học hành tấn tới, đủ tri thức để thi đậu đại khoa Tiến sĩ và được nhà vua ban cho đặc ân vào ngắm vườn Thưởng uyển và được tự chọn hái một bông hoa đẹp mà ḿnh yêu thích; lại được ban cho ngựa quý để Vinh quy bái tổ).

        Ngay kích thước khuôn khổ của bức gỗ làm tranh cũng đă nói đủ ư tứ của đôi câu đối trên. Theo thước Lỗ Ban, chiều dài bức gỗ 105,5 cm nằm ở cung "Quí tử" và "Đăng khoa", còn chiều rộng 64 cm nằm ở cung "Quan" và "Lợi ích".

        Tạm dịch thơ:

Kiếm ba thước quần mây, đảo gió;

Sách một giường lên ngựa, thưởng hoa.

        Bức tranh gỗ trên được một hội viên Chi hội Di sản Văn hóa Cổ vật Sông Lam sưu tầm được ở vùng Diễn - Yên - Quỳnh là vùng đất đã sinh ra cho đất nước nhiều danh nhân, nhân vật nổi tiếng của đất nước. Ý nghĩa được giải mã từ bức tranh trên cho ta biết chủ nhân của nó phải là người đã thi đậu Tiến sĩ, lại có võ rất giỏi (như Tiến sĩ võ). Đó là mẫu người văn võ kiêm toàn, có tài kinh bang tế thế, làm quan lớn trong triều đình, mang tầm cỡ như các danh nhân nổi tiếng đất nước, như: Cương Quốc công Nguyễn Xí (Nghi Hợp, Nghi Lộc); Tấn Quốc công Nguyễn Cảnh Hoan (Tràng Sơn, Đô Lương); Binh bộ Thượng thư, Khê Quận công Đinh Bạt Tụy (Hưng Trung, Hưng Nguyên); Lai Quận công, Độc Lôi thần Phan Công Tích (Vĩnh Thành, Yên Thành); Tham tụng, Hình bộ Thượng Thư, kiêm Đông các Đại học sĩ, Giám tu Quốc sử, tước Duệ Quận công Hồ Sĩ Dương (Quỳnh Đôi, Quỳnh Lưu); Hộ bộ Thượng thư, kiêm Quốc Tử Giám Tế tửu Ngô Trí Hòa (Diễn Kỷ, Diễn Châu); Dinh Điền sứ, Thượng thư Nguyễn Công Trứ (ở Xuân Giang, Nghi Xuân), v.v… Xin được đưa vài dẫn chứng tiêu biểu cho các danh nhân xứ Nghệ nổi tiếng văn võ song toàn:

          Bùi Thế Đạt (1704-1783), quê ở làng Tiên Lý, nay thuộc xã Diễn Ngọc, huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An. Ông sinh ra trong một gia đình quan tướng hiển hách; tổ là Chiêu nghị đại tướng quân Điện tiền Đô hiệu điểm; thân sinh là Đặc tiến phụ quốc thượng tướng quân, tặng phong Đại bảo Phùng Quận công Đại vương. Ông là công thần có công lớn trong thời Lê Trung Hưng- Hậu Lê và con của ông là Tiến sĩ vơ Bùi Thế Toại cũng là tướng giỏi thời Lê Trung hưng. Nhà sử học Phan Huy Chú có nhận xét về Bùi Thế Đạt:

          “Thế Đạt là con nhà tướng, có mưu lược, hành quân chuyên thận trọng, yêu sĩ tốt, nhiều phen lập đại công. Triều đại bấy giờ coi là bậc tế phụ để nương tựa. Dòng dõi nhà huân thần có địa vị danh vọng cao, ông là bậc danh tướng của Châu Hoan thời gần đây”.

          Bùi Thế Đạt từng được ban các chức tước: Lưu thủ Thái Nguyên, tước Đoan Nghiêm hầu; Thống lĩnh Tây Sơn, tước Đoan Quận công; Thăng Đại tư mã, Đốc trấn Nghệ An. Ông có công bình Trấn Ninh, nhận chức Đại tư đồ, được gia phong công thần và ban Kim bài. Năm Cảnh Hưng thứ 37 (1777) Đặc mệnh bình Chiêm Đại tướng quân, kiêm Trấn thủ Thuận - Quảng; thăng Chướng phủ sự, Tổng đốc Trấn thủ Kinh Bắc. Năm 38 (1778) trí sĩ, rồi khởi phục tiến phong Đại Vương. Năm 43, Tân Sửu, tháng giêng, mồng tám mất. Sắc vua giao châu lý sở tại dựng đền để tế, ban thụy là Trung Thuần, bao phong làm Phúc thần, gia tặng Đức lượng du liệt khuông vận dụy khánh hoà giải trang túc nhân nghị Đại vương; Sai quan chủ tế, ban câu đối:

          “Tam công thượng phẩm triều Nguyên lão;

          Thất tự huy xưng quốc Phúc thần”.

Nguyễn Nghiễm (1708-1775), người xã Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh. Tự Hi Tư, hiệu Nghi Hiên, biệt hiệu Hồng Ngư Cư sĩ. Năm 24 tuổi, đỗ Đệ nhị giáp (Hoàng Giáp) Tiến sĩ khoa Tân Hợi - Vĩnh Khánh 3 (1731). Làm quan đến Tham tụng Thượng thư, Đại tư đồ, tước Xuân Quận công. Về hưu rồi lại khôi phục làm Nhập thị Tham tụng và Thăng Thượng thư bộ Hộ. Năm 68 tuổi (1775), do bệnh nặng, ông mất được ban tên thụy là Trung Cần, được lập đền thờ ở quê, phong là Phúc Thần, Thượng đẳng thần. ông có các tác phẩm: Việt sử bị lãm, Long Sơn đoàn thành đồ, Xuân Trung liên vịnh, Xuân Đình tạp Vịnh và một số câu đối còn lưu truyền ở quê.

        Đền thờ ông ở Tiên Điền có ghi đôi câu đối cổ:

                     兩朝名宰將

                     ?海大??

                   Lưỡng triều danh Tể tướng;

                   Tứ hải đại Nho sư.

                   Hai triều lừng danh Tể tường;

                   Bốn bể phục đại Nho sư.

        Đọc đôi câu đối Phong vân tam xích kiếm/Hoa mă nhất sàng thư ta lại nhớ đến bài thi đ́nh của Trạng Sử - Sử Hy Nhan có đầu đề Trảm xà kiếm phú (Phú kiếm chém rắn). Sử Hy Nhan (? - 1421), nguyên họ Trần, quê ấp Ngọc Sơn, xă Bình Lãng Thượng, huyện Phỉ Lộc, trấn Nghệ An, nay thuộc xă Đức Thuận, thị xă Hồng Lĩnh, tỉnh Hà Tĩnh. Ông là người tinh sử sách, nhạy văn thơ, không sách gì là không đọc, lại có sở trường về sử, nên được vua đổi sang họ Sử (sách sử và Gia phả đều chép thế) và đều ghi là ông đậu Trạng nguyên (năm1363) thời Trần Dụ Tông. Làm quan đến Hành khiển Tri kinh diên. Con trai ông là Sử Đức Huy (1360-1430) cũng đậu đầu một khoa thi (Trạng nguyên). Hai cha con ông có công lớn di dân lập ấp, khai phá vùng Kẻ Tàng, Trại Đầu và đóng góp cho công cuộc kháng chiến chống quân Minh xâm lược do B́nh Định Vương Lê Lợi lănh đạo. Bài Trảm xà kiếm phú được các triều thần đời Trần và các đời về sau thán phục khen ngợi. Bài này có 34 liên, 68 vế, lấy đề tài truyền thuyết Lưu Bang (tức Hán Cao Tổ đến Ly Sơn, qua bờ đầm, thấy con rắn lớn, liền rút gươm chém đứt làm đôi. Con rắn trắng (tinh bạch đế) này bị chém chết là điềm lành báo tin vui Lưu Bang (Xích đế) sẽ diệt Sở, dựng nên nghiệp nhà Hán). Trong đầu bài phú, ông mô tả thanh gươm qúi và ca ngợi sự nghiệp của Lưu Bang (theo bản dịch của Thái Kim Đỉnh):

Lưỡi gươm sáng như nước thu/Mũi gươm quắc tựa băng giá…

Tinh Bạch đế do đó mà khóc thầm/Ngôi nhà Hán v́ vậy mà dấy lên.

Vật sở dĩ quư là do ở người

Thanh gươm này được vào tay Hán Cao Tổ

Tiếng tăm không bị mai một

Danh thơm lưu lại ngàn thu…

       Ông ca ngợi gươm quý được đặt vào tay người tài, nhưng lại đả kích bá đạo (dùng uy vũ để khuất phục người/ám chỉ Hán Cao Tổ chỉ là loại tạp bá) và kết lại từ gươm quý không còn quý nữa nếu dùng nó để làm sức mạnh tiêu diệt người khác, đồng thời đề cao hòa nhân, đề cao Vương đạo:

Sinh thời văn minh không nên bàn chuyện uy vũ; ở đời thịnh trị chớ nên nói chuyện chiến tranh

Ngươi phải như con phượng đẹp, nhảy múa họa theo khúc nhạc thiều,

Cớ sao lại bo bo cái nghề nhỏ mọn đẽo gọt văn chương, tán tụng sự tích của bọn tạp bá, làm mờ tối đức tốt của bọn đế vương…

Kẻ viết bài phú này vui mừng làm bài ca rằng:

Kiếm này, kiếm này/Bậc thánh túng kế mới phải dùng mi, phải đâu vật quí.

        Tư tưởng dùng Vương đạo, lấy nhân hòa làm gốc chính là truyền thống tốt đẹp của các vị vua triều Lý - Trần và của nhân dân ta từ xưa đến nay. Sử Hy Nhan đã gián tiếp đề cao tinh thần, sự nghiệp đánh giặc cứu nước của các vua Trần trước và can gián các vua Trần sau (Dụ Tôn, Nghệ Tôn, Dụê Tôn) không nên gây chiến tranh và quả về sau bị thất bại khi đi đánh phương Nam.

        Nội dung đôi câu đối trên làm ta hoài niệm đến bài thơ Cảm hoài của Đặng Dung thời cuối nhà Trần. Đặng Dung (? - 1414), người làng Tả Hạ, xã Tả Thiên Lộc, nay thuộc xã Tùng Lộc, huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh. Vì cha là Thám hoa Đặng Tất cùng Nguyễn Cảnh Chân (cha của Cảnh Dị) bị dèm pha và bị vua Trần Nghệ Tôn giết, nên ông và Nguyễn Cảnh Dị nổi dậy lập Trần Quý Khoáng lên ngôi, đưa quân về Nghệ An tổ chức kháng chiến chống giặc Minh xâm lược. Ông và Cảnh Dị đều bị tướng giặc là Trương Phụ bắt giết. Đặng Dung đã sáng tác bài "Cảm hoài" và để lại cho nền văn học Việt Nam một bài thơ bất hủ và trường tồn:

Thế sự du du nại lão hà,

Vô cùng thiên địa nhập hàm ca.

Thời lai đồ điếu thành công dị,

Vận khứ anh hùng ẩm hận đa.

Tri chủa hữu hoài phù địa trục,

Tẩy binh vô lộ vãn thiên hà.

Quốc thù vị báo đầu tiên bạch,

Kỷ độ long tuyền đái nguyệt ma.

       Thái Kim Đỉnh dịch:

Thân già việc bận nghĩ sao đây?

Trời đất thu vào tiệc hát say.

Đồ điếu gặp thời đều mở mặt,

Anh hùng lỡ vận cũng có tay.

Giúp vua, trục đất mong xoay lại,

Rửa giáo, sông trời khó kẻo thay.

Thù nước chưa đền đầu bạc thuở,

Ánh trăng bao chuyến mài gươm này.

        Kiếm trong tay tướng Đặng Dung thật ý nghĩa với việc lo nghĩ thế sự đất nước bị giặc Minh xâm lược, phải thức trắng đến bạc đầu những đêm trăng mài gươm, nghĩ kế phù vua đánh đuổi giặc cướp.

        Để minh họa thêm cho nội dung bức tranh và đôi câu đối trên, xin được giới thiệu thêm bức tranh chân dung Hoàng đế Quang Trung cưỡi ngựa, vung kiếm chỉ huy trận tiền, nổi tiếng là Bách chiến bách thắng khảm bằng trai và bức tranh dân gian bằng gốm Vinh quy bái tổ.

tin tức liên quan

Thống kê truy cập

114577495

Hôm nay

226

Hôm qua

2333

Tuần này

2694

Tháng này

224552

Tháng qua

130677

Tất cả

114577495