Góc nhìn văn hóa
"Vạn lý trường chinh": huyền thoại và sự thật

Lời Người dịch: 長征-Chángzhēng (tiếng Anh: The Long March) quen gọi trong tiếng Việt: Vạn lý Trường chinh, là một cuộc rút lui của quân đội của Đảng Cộng sản Trung Quốc để tránh sự truy đuổi của quân Tưởng Giới Thạch, kéo dài từ Giang Tây tới Thiểm Tây với quãng đường 9.000 km (5.600 dặm)[1], trong thời gian từ tháng 10/1934-10/1935 (trên 370 ngày). Cho đến nay,cuộc rút lui này được diễn giải không nhất quán dựa trên các nguồn tư liệu khác nhau. Trên Wikipedia, mục từ này bằng các thứ tiếng khác nhau cũng viết với một số nội dung không giống nhau. Trong cuốn sách “Mao-The Unknown Story”, các tác giả cho rằng Mao đã tự mình tạo ra một câu chuyện hoang đường lâu dài nhất trong lịch sử Trung Hoa, và cũng là một trong những câu chuyện hoang đường nhất của thế kỷ XX - Vạn lý Trường chinh. Phần trích dịch dưới đây là những “huyền thoại” đó. Tiêu đề là của người dịch.
Bản đồ hành trình Vạn lý trường chinh
1. Mao đã bước vào Vạn lý trường chinh ra sao
Tháng 9/1933,Tưởng Giới Thạch triển khai nửa triệu quân mở cuộc tấn công thứ 5 vào căn cứ Thụy Kim. Vào tháng 5, Tưởng Giới Thạch đã đồng ý ngừng bắn với quân Nhật, chấp nhận để quân Nhật đóng ở phía bắc Trung Quốc và Mãn Châu, nhờ vậy quân Tưởng có thể tập trung lực lượng tấn công quân Đỏ.
Nhiều tháng trước đó,Tưởng Giới Thạch đã xây dựng các con đường kiên cố để quân của mình có thể hành quân cùng với trang thiết bị hậu cần. Với sự chuẩn bị này, quân Tưởng có thể tiến đến gần và bao vây căn cứ quân Đỏ. Bành Đức Hoài, chỉ huy quân Đỏ lúc bấy giờ, đã mô tả Quân Tưởng “siết chặt quân Đỏ dần dần với chiến thuật tát cạn ao, sau đó bắt cá”.
Lực lượng quân Đỏ chỉ bằng 1/10 quân Tưởng và trang bị kém xa. Để giúp đỡ quân Đỏ, Moscow đã cử Manfred Stern, một chuyên gia nói tiếng Đức làm cố vấn chỉ huy quân sự ở Thượng Hải. Đồng thời một người Đức khác là Otto Braun cũng được gửi đến Thụy Kim làm chỉ huy quân sự ở căn cứ này. Otto Braun được đặt một tên Trung Quốc là Lý Đức và được dàn xếp lấy một người vợ Trung Quốc.
Vào mùa xuân 1934,các cuộc hành quân của quân Tưởng đã ép sát căn cứ quân Đỏ khoảng 6 tháng. Các cố vấn Xô Viết cũng như lãnh đạo quân Đỏ không có phương cách nào chống cự lại quân Tưởng và phá hủy các lô của họ. Lãnh đạo quân Đỏ tìm cách rời khỏi căn cứ.
Sau khi nhận điện từ Moscow vào ngày 25/3, báo rằng viễn cảnh của căn cứ ngày một khó khăn, Bác Cổ, nhân vật số một của Đảng Cộng sản Trung Quốc, bắt đầu cố gắng gạt Mao ra. Ngày 27/3, Thượng Hải gửi một bức điện cho Moscow nói rằng căn cứ Thụy Kim cho biết Mao bị ốm một thời gian dài và đề nghị gửi Mao sang Moscow chữa trị. Nhưng thực ra Mao không hề bị ốm. Bác Cổ và các cộng sự của ông không muốn có Mao bên cạnh vì sợ ông ta lại gây rắc rối. Tuy nhiên, đề nghị đó không được Moscow chấp thuận. Sau đó Bác Cổ nghĩ đến giải pháp giữ Mao ở lại để phòng thủ.
Mao biết rằng nếu bị gạt ra ngoài ông ta sẽ rời xa trung tâm của Đảng và quân đội. Vì thế Mao ở lại rồi đi cùng cánh quân phía nam rút ra ngoài. Không giống như các cánh quân khác bị quân Tưởng truy đuổi mỗi lúc một gần, cánh quân này không gặp phải chặn đánh nhiều. Vào cuối tháng 4, tư lệnh Quảng Đông bắt đầu nói với quân Đỏ về việc tạo một hành lang để họ rút ra ngoài. Ngay sau khi biết được tin này, Mao đã ở lại đại bản doanh của cánh quân phía nam ở Hội Xương, ngay ở con đường chính ra ngoài khu vực của quân Đỏ.
Tháng 7, một đơn vị khoảng 6.000 quân được gửi đi theo hướng ngược lại để đánh lạc hướng. Họ mang theo 1,6 triệu tờ bướm chất đầy trong 300 gánh với tên gọi rất phô trương “Đội quân Đỏ tiên phong hướng Bắc đấu tranh chống quân Nhật”. Những bước di chuyển của đội quân này được công khai rộng rãi và họ biết rằng họ là đội quân làm mồi nhử. Trong vòng ít tháng hầu như toàn bộ đội quân đánh lạc hướng này bị tiêu diệt hết.
6 giờ chiều ngày 18/10/1934,Mao rời đại bản doanh, đi qua cổng tò vò từ thời nhà Tống, bước lên chiếc cầu phao trên sông Vũ Đô. Chiếc cầu phao ọp ẹp này không chỉ đưa Mao qua sông mà còn tạo ra cho ông ta một huyền thoại. Quá khứ giết chóc và chế độ công sản Trung Quốc để lại phía sau. Mao đã tự mình tạo ra một câu chuyện hoang đường lâu dài nhất trong lịch sử Trung Hoa, và cũng là một trong những câu chuyện hoang đường nhất của thế kỷ XX -Vạn lý Trường chinh.
2. Huyền thoại 1: Tưở̉ng Giới Thạch để cho quân Đỏ đi
Ngày 30.11, Mao và 40.000 quân lội qua sông Tương và ngày hôm sau qua sông, mặc dù quân Tưở̉ng Giới Thạch ở trên bờ và máy bay lượn trên đầu. Lúc này quân Tưở̉ng Giới Thạch mới ném bom. Một nửa số quân Đỏ ở lại bờ Đông. Không nghi ngờ gì rằng Tưở̉ng Giới Thạch đã để cho chỉ huy quân Đỏ và lực lượng chính trốn thoát.
Vì sao Tưở̉ng Giới Thạch làm thế? Một lý do nổi lên là sau khi qua sông, quân Tưở̉ng Giới Thạch đuổi đội quân Mao về phía Tây của Quý Châu và Tứ Xuyên. Tưở̉ng Giới Thạch có ý đồ dùng quân Đỏ cho mục đích của mình. Hai tỉnh này cùng với Vân Nam với dân số khoảng 100 triệu người, diện tích 1 triệu km2 và tương đối độc lập với chính quyền trung ương. Tứ Xuyên là địa bàn quan trọng nhất, giàu có và đông dân nhất với khoảng 50 triệu người. Với địa thế hiểm trở, Tưở̉ng Giới Thạch dự tính đây là địa bàn an toàn cho cuộc chiến chống Nhật.
Tưở̉ng Giới Thạch không muốn đem quân vào vùng này mà chỉ muốn đẩy quân Đỏ vào đây để cho địa phú vùng này lo sợ quân Đỏ ở lại và sẽ cho quân Tưở̉ng Giới Thạch vào để đuổi quân Đỏ đi. Tưở̉ng Giới Thạch nói với người thư ký của mình: “Bây giờ quân Đỏ vào Quý Châu, chúng ta có thể theo vào”. “Điều đó tốt hơn là chúng ta tiến hành chiến tranh để chiếm lấy Quý Châu. Tứ Xuyên và Vân Nam sẽ chào đón chúng ta vào để bảo vệ họ. Từ lúc này trở đi, nếu chúng ta sử dụng tốt quân bài của mình, chúng ta có thể tạo lập một đất nước thống nhất”.
Ngày 27/11, trước ngày quân Đỏ qua sông sông Tương hướng đến Quý Châu, Tưở̉ng Giới Thạch công bố kế hoạch xây dựng quốc gia, một “Tuyên bố phân chia quyền lực giữa chính quyền trung ương và các tỉnh”. Điều này vẫn bí mật suốt cuộc đời Tưở̉ng Giới Thạch và vẫn được giữ kín trong lịch sử của Quốc dân đảng cũng như Cộng sản. Cả hai phía đều chia sẻ một điều là không tiết lộ việc chính Tổng tư lệnh Tưở̉ng Giới Thạch đã để cho quân Đỏ đi. Đối với Quốc dân đảng, sách lược của Tưở̉ng Giới Thạch quá ranh mãnh và đã sai lầm dùng quân Đỏ - để cuối cùng dẫn đến chiến thắng của họ - quá bẽ bàng. Đối với những người Cộng sản, thật xấu hổ để thừa nhận rằng cuộc viễn chinh lừng lẫy được Tưở̉ng Giới Thạch dẫn lối.
Để cho quân Đỏ đi cũng là một chỉ dấu tốt của Tưở̉ng Giới Thạch đối với Xô Viết. Ông ta cần giữ quan hệ tốt với Xô Viết vì đang bị Nhật đe dọa, trong khi Cộng sản Trung Quốc là con nuôi của Moscow.
Một lý do khác nữa, sâu kín hơn và hoàn toàn cá nhân là Kinh Quốc (con trai nối dõi duy nhất của Tưở̉ng Giới Thạch với người vợ thứ nhất) đang bị Moscow giữ làm con tin đã 9 năm. Sau khi sinh được Kinh Quốc, Tưở̉ng Giới Thạch dường như không có khả năng có con vì bị bệnh hoa liễu nên ông ta đã nhận một người con nuôi là Weigo. Tưở̉ng Giới Thạch vẫn coi trọng truyền thống của người Trung Quốc: phải có con trai nối dõi mới là người có hiếu với tổ tiên, cha mẹ.
Năm 1925,Tưở̉ng Giới Thạch gửi Kinh Quốc (lúc này 15 tuổi) vào một trường học ở Bắc Kinh. Đó là lúc Tưở̉ng Giới Thạch thành lập Quốc Dân Đảng, được Moscow bảo trợ. Không lâu sau người Nga để ý đến Kinh Quốc và mời anh ta sang Nga học. Vài tháng sau khi đến Nga, Kinh Quốc được một gián điệp ít được biết đến song rất quan trọng của quân Đỏ trong Quốc dân Đảng là Thiệu Lực Tử đưa đến Moscow.
Việc cài cắm gián điệp là một trong những món quà vô giá mà Moscow để lại cho Đảng Cộng sản Trung Quốc (CCP). Hầu hết số gián điệp này gia nhập Quốc dân đảng vào nửa đầu những năm 1920, khi Tôn Dật Tiên ve vãn Nga, mở cửa đảng của ông ta cho những người Cộng sản. Khi Tưở̉ng Giới Thạch li khai khỏi Cộng sản năm 1927, một bộ phận lớn gián điệp này án binh bất động để được “kích hoạt” vào thời cơ thích hợp.
Và trong hơn 20 năm tiếp theo,họ không chỉ cung cấp cho quân Đỏ những thông tin quan trọng mà còn thường giữ chức vụ quan trọng có tác động đến đường lối trong Quốc dân đảng. Cuối cùng, các gián điệp đã giữ một vai trò to lớn trong việc trao Trung Quốc cho Mao - có lẽ là một vai trò lớn hơn trong chính trường thế giới. Cho đến nay nhiều gián điệp trong số đó vẫn chưa lộ diện.
Thiệu Lực Tử (Shao Li tzu) là một trong số đó. Không nghi ngờ gì là với sự dẫn dắt của Moscow, Thiệu đã đưa con của Tưở̉ng Giới Thạch đến Nga tháng 11/1925. Năm 1927, khi Kinh Quốc học xong, anh không được cho về và buộc phải công khai cha đẻ. Stalin đã giữ Kinh Quốc làm con tin khi tuyên bố với thế giới là anh ta tự nguyện ở lại.
Việc Kinh Quốc bị giữ làm con tin được Tống Khánh Linh (vợ của Tôn Trung Sơn đồng thời là chị của vợ Tưở̉ng Giới Thạch), một điệp viên của Xô Viết, thông báo cho Tưở̉ng Giới Thạch vào cuối năm 1931.
Nói thay cho Moscow, bà gợi ý đổi Kinh Quốc với hai điệp viên cấp cao của Xô Viết mới bị bắt ở Thượng Hải. Tưở̉ng Giới Thạch từ chối vì việc bắt hai điệp viên Xô Viết đã được công khai và hai điệp viên đã bị bỏ tù. Nhưng đề nghị của Moscow đã để lại cho Tưở̉ng Giới Thạch một nỗi day dứt trong lòng như ông đã viết hai lần trong nhật ký của mình vào ngày 3 và 14/12/1931: “Ta sẽ bị tội bất hiếu nếu để con trai nối dõi bị chết…”
Tưở̉ng Giới Thạch tiếp tục bị day dứt bởi lo lắng điều gì sẽ xảy ra với con trai. Tháng 12/1931,con trai của Thiệu Lực Tử bị bắn chết ở Roma. Người con trai này cũng được đưa đến Nga cùng với Thiệu khi ông ta đưa Kinh Quốc sang Nga năm 1925. Nhưng khác với Kinh Quốc, người con trai này sau đó được trở về Trung Quốc. Thiệu cho rằng chính gián điệp của Quốc dân đảng, theo lệnh Tưở̉ng Giới Thạch, đã giết con ông vì thù oán cá nhân.
Vào thời gian cuộc Trường chinh bắt đầu, Tưở̉ng Giới Thạch nghĩ ra một sự trao đổi thận trọng và xảo quyệt: Cho quân Đỏ sống sót để đổi lấy Kinh Quốc. Đó là một sự trao đổi không dễ nói ra. Ông đã thực hiện kế hoạch của mình một cách khôn khéo. Để quân Đỏ tạm thời an toàn, sau đó dùng quân Nhật tiêu diệt. Tưở̉ng Giới Thạch cho rằng chiến tranh với Nhật là không thể tránh khỏi và đó cũng là ý muốn của Nga. Tưở̉ng Giới Thạch dự tính rằng khi chiến tranh Trung-Nhật nổ ra nhất định Moscow sẽ lệnh cho con nuôi của mình là Cộng sản Trung Quốc chống lại Nhật. Cho đến lúc đó Tưở̉ng Giới Thạch nên để cho quân Đỏ sống sót để có thể đổi lấy mạng sống của con mình.
Tưở̉ng Giới Thạch không muốn quân Đỏ chiếm giữ vùng đất giàu có của Trung Quốc. Mục đích của ông ta là đuổi họ đến nơi hoang vắng và nghèo nàn, nơi quân Tưở̉ng có thể bao vây. Nhân vật chính mà Tưở̉ng Giới Thạch tận dụng để thực hiện kế hoạch đó không ai khác là Thiệu Lực Tử. Và Thiệu Lực Tử được bổ nhiệm thị trưởng tỉnh Thiểm Tây tháng 4/1933.
Đúng vào lúc cuộc Vạn lý trường chinh bắt đầu (giữa tháng 10/1934), Tưở̉ng Giới Thạch đi thăm tỉnh Thiểm Tây. Trong khi kêu gọi một cách công khai cần xua đuổi bọn kẻ cướp Đỏ, Tưở̉ng Giới Thạch để cho quân Đỏ mở rộng địa bàn trong vòng vài ba tháng tới 30 ngàn km2 với dân số 900 ngàn người.
Kế hoạch của Tưở̉ng Giới Thạch là làm suy yếu quân Đỏ dọc đường, song không giết toàn bộ. Cách mà ông ta điều khiển những người cộng sản là thông báo trên radio đường hành quân của quân mình. Quân Đỏ nhờ thế mà tránh được không gặp quân Tưở̉ng hoặc gặp rất ít. Tháng Sáu, quân Tưở̉ng ném bom bất ngờ đài phát thanh của CCP ở Thượng Hải, nơi có liên lạc với Thụy Kim và Moscow. Sau đó quân Tưở̉ng kiểm soát và tháng 10đóng cửa đài này.
Vạn lý trường chinh được Tưở̉ng Giới Thạch sử dụng để đổi lấy con trai. Trước khi quân Đỏ rời bản doanh Thụy Kim, Tưở̉ng Giới Thạch gửi thông điệp ngoại giao đề nghị cho con trai được về Trung Quốc. Ngày 2/10/1934, ông ghi trong nhật ký rằng “một đại diện chính thức đã gửi đề nghị được đưa Kinh Quốc về.” Trong thời gian ác liệt của cuộc chiến (tháng Mười và Mười Một), Tưở̉ng Giới Thạch đã báo cho Moscow biết ông sẽ lảng tránh để cho quân Đỏ đi bằng cách không xuất hiện ngoài mặt trận mà đi về hướng đối diện, lên phía bắc Trung Quốc, cách hàng ngàn km trong một cuộc hành quân kéo dài 40 ngày.
Moscow hiểu thông điệp đó. Đúng vào thời gian Tưở̉ng Giới Thạch yêu cầu thả con trai và ngày quân Mao vượt sông Tương và giải tỏa lô cốt quân Tưở̉ng Giới Thạch, Moscow tăng cường giám sát con tin. Kinh Quốc lúc đầu làm việc ở một làng quê và ở một hầm mỏ ở Siberi bây giờ làm trong một công xưởng ở Ural. Sau này anh ta cho biết: “Từ tháng Tám đến tháng 10/1934 tôi bất ngờ được KGB giám sát một cách chặt chẽ. Hàng ngày tôi bị hai người đàn ông theo dõi.”
Đầu tháng 12, ngay trước khi quân Đỏ phá hủy lô cốt cuối cùng của quân Tưở̉ng, Tưở̉ng Giới Thạch lại gửi đề nghị thả con trai (như KGB báo cho Kinh Quốc). Nhưng phía Xô Viết nói cho Tưở̉ng Giới Thạch rằng con trai ông không muốn về. Tưở̉ng Giới Thạch đã viết trong nhật ký “Sự lừa dối của kẻ thù Nga không chấm dứt”, mặc dù ông ta nói ông ta có thể “giữ kín nó”. “Tôi nghĩ rằng quả thật tôi đã tiến một bước vì tôi đã với tới tai họa của gia đình”. Tưở̉ng Giới Thạch biết con trai sẽ an toàn nếu ông ta nới tay hơn với quân Đỏ. (tr.142)
3. Huyền thoại 2: Trận đánh trên cầu Đại Độ
Tranh cổ động chiếc cầu bắc qua sông Đại Độ
Giữa tháng 12, Tưở̉ng Giới Thạch lái Vạn lý trường chinh đến Quý Châu, tỉnh đầu tiên ông ta muốn kiểm soát. Sau đó Tưở̉ng Giới Thạch hướng quân Đỏ đến Tứ Xuyên bằng cách chặn các đường khác và dể ngỏ đường này. Nhưng Mao không đi vào Tứ Xuyên. Ông ta không lo đối phó với Tưở̉ng Giới Thạch mà đương đầu với việc giành quyền lực trong đảng.
Mao, Vương Gia Tường và Lạc Phủ đi cùng với nhau, thường nằm trên cáng tre. Cáng tre được dùng cho một số chỉ huy, mỗi người còn có 1 ngựa và một số lính khiêng đồ. Hầu hết chặng đường Vạn lý họ đều được khiêng. Mao còn trang bị cho mình một cáng riêng.
Chính Mao đã nói với nhân viên của ông ta vài thập kỷ sau rằng: “Trong cuộc Vạn lý, tôi nằm trên một chiếc cáng. Vậy tôi làm gì? Tôi đọc. Tôi đọc rất nhiều.” Rất khó khăn cho những người khiêng. Nhiều người lính nhớ lại: “Khi trèo núi, những người khiêng cáng đôi khi chỉ có thể tiến lên bằng đầu gối; da và thịt trên đầu gối của họ xước trước khi lên đến đỉnh. Mỗi lần trèo núi để lại một vệt máu và mồ hôi họ”. (tr.144)
Ngày 28/1/1935,Mao ra lệnh phục kích ở phía tây Thổ Thành (Tucheng). Mao đứng trên một điểm cao từ rất xa quan sát quân Đỏ bị sát hại và chỉ đến cuối ngày mới hạ lệnh rút lui. Đây là trận chiến duy nhất khi quân Đỏ chạm trán với quân Tưở̉ng trong cuộc Vạn lý trường chinh. 4.000 (10%) quân Đỏ bị tiêu diệt. Thổ Thành là thất bại lớn nhất trong cuộc Vạn lý và được giữ kín, vì Mao là người chịu trách nhiệm về việc chọn địa điểm và thời gian. Huyền thoại là Mao đã bảo toàn quân Đỏ ở Tuân Nghĩa (Zunyi). Sự thật là ngược lại.
Thất bại thứ hai là cuộc tấn công ở Mao Đài (Maotai), địa danh một loại rượu nổi tiếng của Trung Quốc. Hàng ngàn quân Đỏ bị thiệt mạng. Sau khi dồn quân Đỏ vào nơi dự định, Tưở̉ng Giới Thạch chặn đường trở lại Quý Châu. Nhưng Mao vẫn bác bỏ khả năng tốt nhất- tiến lên phía Bắc - và ra lệnh cho quân Đỏ đi vòng quanh và qua sông trở lại Quý Châu. Đó là một lệnh lạ lùng và không được công bố sau này. Quân Đỏ quanh quẩn ở vài địa phương trong vòng khoảng hai tháng. Mao còn đặt quân Trương Quốc Đào ở vào tình thế nguy hiểm là ở nguyên vị trí và chờ ông ta. Mao sau này không hề lấy làm xấu hổ gọi thất bại đó là “tour de force”. Trên thực tế, những thất bại đó là vì mánh khóe để giành quyền lực cá nhân mà ngày nay vẫn không được biết đến. (tr.152)
Một nạn nhân của mưu đồ của Mao là người vợ hai, Dương Khai Tuệ. Trong thời gian đi Vạn lý Trường chinh cùng Mao, Dương Khai Tuệ sinh con thứ tư với Mao. Cũng như hai con trước sau khi sinh được 2 ngày phải để con lại và sau ba tháng đứa con bị chết. Nhưng cho đến khi chết (1984) bà vẫn không biết mình sinh đứa con gái này ở đâu.
Dương Khai Tuệ bị tổn thương bởi sự lãnh đạm của Mao. Bà từng nói với một người bạn rằng điều làm bà đau đớn nhất là câu nói của Mao với những người phụ nữ khác: “Vì sao phụ nữ quá sợ việc sinh nở? Nhìn vào Dương Khai Tuệ, sinh nở với bà dễ như gà đẻ trứng”. Hai tháng sau khi sinh, trên đường Vạn lý Trường chinh, Dương Khai Tuệ bị bom suýt chết. Mao được báo tin song không đến thăm bà, mặc dù chỉ ở làng bên cạnh.
Đoàn quân của Mao tiến về phía Bắc để sáp nhập với quân Trương Quốc Đào. Chặng đường này đã cung cấp một tấm màn cho huyền thoại về Vạn lý Trường chinh: việc đi qua cầu trên sông Đại Độ.
Chiếc cầu này là trung tâm huyền thoại Vạn lý Trường chinh, được Mao cung cấp cho nhà báo Mỹ, Edgar Snow năm 1936, dựng lên. Snow viết: “Việc qua sông là một tình tiết độc đáo nhất của Vạn lý Trường chinh. Một nửa sàn cầu đã bị quân Tưở̉ng Giới Thạch dỡ bỏ và phía trước họ chỉ có những mắt xích đung đưa giữa dòng nước. Ở đầu cầu phía Bắc một cỗ đại bác của kẻ thù hướng chĩa về phía họ với quân Tưở̉ng Giới Thạch phía sau. Ai có thể nghĩ quân Đỏ dám qua cầu chỉ với dây xích được? Nhưng họ đã làm.”[2]
Ông ta mô tả quân lính bị bắn và rơi xuống sông. “Paraffin được ném xuống ván cầu và chúng bắt đầu cháy. Lúc đó khoảng 20 hồng quân tiến lên, liên tiếp ném lựu đạn vào các ổ súng của quân thù.”
Điều đó là hoàn toàn bịa đặt. Không hề có trận đánh nào ở cầu Đại Độ. Cũng không có quân Tưở̉ng Giới Thạch ở bên cầu khi quân Đỏ đi qua vào ngày 29/5. Khá xa cầu ở Lô Định, từng có một đơn vị của quân Tưở̉ng đóng, nhưng đã chuyển đi trước khi hồng quân đến.
Khi Hồng quân đến vùng này, họ đã lập một doanh trại ở một nhà thờ đạo Thiên chúa cạnh cầu. Một phụ nữ 93 tuổi khi mà các tác giả gặp năm 1997 đã kể lại lính Hồng quân trú trong nhà bà. Gần cầu có các tiệm bán hàng của người dân địa phương. Bà không nhớ phía đầu cầu bên mình có bị đốt. Bà nhớ rằng Hồng quân mượn các cánh cửa của nhà bà cũng như hàng xóm để lót lên cầu. Cầu không phải chỉ còn trơ trụi các dây xích. Điều đó chỉ có khi chính quyền Mao làm một bộ phim tuyên truyền. (tr.159-160)
Trung tâm của huyền thoại là khẳng định rằng một phần cầu bị đốt và lính hồng quân phải bò trên dây xích để qua sông. Điều này đã bị người phụ trách bảo tàng ở cầu bác bỏ vào năm 1983. Cầu không hề bị đốt, mặc dù có hỏa hoạn trong thị trấn mà hình như là do quân Đỏ đốt.
Bằng chứng mạnh mẽ khác nữa là không hề có trận đánh “anh hùng” nào dẫn đến thương vong. Quân Đỏ đã qua sông không có ai bị chết. Theo huyền thoại, đội quân tiên phong gồm 20 người đã xông lên cảm tử. Nhưng tại một buổi lễ không lâu sau đó, 20 người này vẫn sống, được tặng một bộ quần áo Lenin, một chiếc bút máy, một bát và một đôi đũa. Thậm chí không ai bị thương.
Sau họ, không ai khác bị chết vì hỏa lực cả. Chu Ân Lai sau đó đã hỏi Dương Thành Vũ, người chỉ huy một đơn vị qua cầu, rằng “Không ai thương vong ư?” Dương trả lời: Không!
Ngày 31/5/1935,Mao bước lên cầu Lô Định bắcqua sông Đại Độ.
Ngày 4/7,em rể của Tưở̉ng Giới Thạch gọi cho đại sứ Xô Viết, Dimitri Bogomolov, bề ngoài là để thảo luận về việc quân Nhật tiến về phía bắc Trung Quốc, song cái chính là để nói về việc Tưở̉ng Giới Thạch rất muốn được đón con trai về. Đây là điều Tưở̉ng Giới Thạch nói với Stalin: Tôi đã để cho hai cánh quân Đỏ sống sót và sát nhập với nhau, ông có thể vui lòng để con trai tôi trở về với tôi được chứ? Bogomolov đáp một cách dối trá “Chúng tôi không cản trở việc anh ấy trở về. Nhưng theo như tôi biết anh ấy không muốn đi đâu cả.”
Mặc dù không đón được con về, nhưng Tưở̉ng Giới Thạch đã đạt được mục đích khác là giành ba tỉnh tây nam dưới sự kiểm soát của chính quyền trung ương. Với quân đội của mình ở Tứ Xuyên, Tưở̉ng Giới Thạch trở lại đây vào tháng 5 để xây dựng căn cứ cho cuộc chiến với Nhật.
Mao cũng giành được mục đích của mình. Với 2.000km hành trình, ông ta đã thiết lập được con rối của mình là Lạc Phú làm người đứng đầu đảng và đặt Mao vào vị trí lên ngôi. Như thường lệ, Mao coi Kremlin chỉ là chỗ dựa nếu ông ta thống lĩnh Trung Quốc. Giờ đây ông ta đã gần hơn bất cứ lúc nào với lãnh thổ do Nga kiểm soát và bắt đầu nói đến việc xin trợ giúp về vật chất và kỹ thuật.
Ngày 15/10,Phái viên của Mao là Trần Vân chuyển thông điệp của Mao đến Quốc tế Cộng sản. Lần đầu tiên Mao được công nhận là người đứng đầu Đảng Cộng sản Trung Quốc. 2 tuần sau tờ Pravda đăng một bài viết với tiêu đề “Mao Trạch Đông, Nhà Lãnh đạo của nhân dân Trung Quốc.”
Ngày 18/10,khi Vạn Lý Trường Chinh kết thúc với Mao, Tưở̉ng Giới Thạch gặp đại sứ Nga là Bogomolov và đề nghị kí một hiệp ước quân sự bí mật với Nga. Nga yêu cầu “Quốc dân đảng phải nối lại quan hệ với Đảng Cộng sản Trung Quốc”. Trong cuộc đàm phán về vấn đề này phái viên của Tưở̉ng Giới Thạch là Trần Lập Phu đã hỏi Bogomolov về việc thả con trai của Tưở̉ng Giới Thạch. Nhưng Stalin vẫn không thả Kinh Quốc. Lúc này Kinh Quốc đã xa gia đình đúng 10 năm. Tháng 3/1935 anh yêu một cô gái Bạch Nga và tháng Mười hai, họ có con đầu lòng.
Lê Lamlược dịch từ tiếng Anh.
Nguồn: “Mao - The Unknown Story”, Jung Chang and Jon Halliday, Jonathan Cape, London, 2005
[1]Theo mục “Vạn lý trường chinh” của Wikimedia tiếng Việt là 12.000 km, của tiếng Phần Lan là 6 000–9 600 km, của tiếng Anh là 9,000 km, của tiếng Hungary là 12 500 km…
[2]Snow, Edgar, Red Star Over China, Gollanz, London, 1973.
tin tức liên quan
Videos
Ông nghè Ngô Đức Kế và cô Kiều
Những kỷ vật của Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Bảo tàng Xô viết Nghệ Tĩnh
Huyện Quế Phong, tỉnh Nghệ An: Kỷ niệm 60 năm thành lập huyện và đón nhận bằng xếp hạng di tích lịch sử cấp Quốc gia đền Chín Gian
Quản trị quốc gia: Nên học Nhật Bản
Ngành Văn hóa và Thể thao Nghệ An: 03 tập thể và 02 cá nhân nhận giải thưởng sáng tác, quảng bá tác phẩm văn học nghệ thuật về chủ đề học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh
Thống kê truy cập
114576520

218

2306

21833

223577

130677

114576520