I. Mở đầu:
“Dân chủ” và “khoa học” là sản phẩm vĩ đại của lịch sử nhân loại, cũng là những nhân tố làm nên sự cường thịnh và ưu việt (so với phương Đông) của các quốc gia phương Tây thời cận hiện đại. Nó trở thành biểu tượng của văn hóa phương Tây, và là mục tiêu hướng tới của các quốc gia phương Đông. “Dân chủ” và “khoa học” trở thành tiêu chí chung thể hiện trình độ văn minh của một quốc gia hiện đại, và là nội dung chủ yếu của “hiện đại hóa”.
Thất bại thảm hại trước sức mạnh quân sự của các nước đế quốc phương Tây cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX, là cái giá đắt phải trả để tầng lớp trí thức Trung Quốc và Việt Nam dần tỉnh ngộ và nhận thức ra rằng : “thể chế chính trị dân chủ” và “nền khoa học kĩ thuật hiện đại” – sản phẩm đặc hữu của văn hóa phương Tây chính là nhân tố đem lại sức mạnh cho các nước đế quốc phương Tây. Sự cường thịnh và hùng mạnh của các nước phương Tây được quyết định bởi hai nhân tố này. Đây cũng là điểm khiếm khuyết ở các quốc gia chuyên chế Nho giáo Đông Á. Bởi vậy, nếu muốn đất nước tránh được họa diệt vong, giải phóng dân tộc khỏi xiềng xích nô lệ thực dân, đưa đất nước phát triển giàu mạnh, đủ sức đương đầu với các cường quốc phương Tây, các quốc gia Đông Á buộc phải học tập khoa học kĩ thuật và xây dựng thể chế chính trị dân chủ theo mô hình phương Tây để “hiện đại hóa” đất nước. Vì thế, “hiện đại hóa” trở thành xu hướng tất yếu, là yêu cầu bức thiết mang tính thời đại, nó quán xuyến trong nhận thức và mục tiêu của giới tư tưởng hiện đại Trung Quốc và Việt Nam.
Cũng cần hiểu nội hàm “hiện đại hóa” trong quan niệm của giới tư tưởng hiện đại Trung Quốc và Việt Nam không đơn thuần chỉ là hiện đại hóa về mặt vật chất, mà nó luôn bao hàm hai tầng ý nghĩa song trùng. Công cuộc hiện đại hóa về mặt chính thể dân chủ và tri thức khoa học (vật chất) phải luôn song hành với tiến trình hiện đại hóa về mặt văn hóa – xây dựng một nền văn hóa mới (tinh thần). Do vậy, nội dung cụ thể của “hiện đại hóa” là phấn đấu xây dựng thể chế chính trị dân chủ theo mô hình các quốc gia phương Tây, học tập tri thức khoa học kĩ thuật hiện đại của họ, và kiến tạo một diện mạo văn hóa mới.
Khác với chủ trương hiện đại hóa của những người theo Chủ nghĩa tự do (Phái Tây hóa) và Chủ nghĩa Mác ở Trung Quốc và Việt Nam đầu thế kỉ XX cho rằng, văn hóa Nho giáo truyền thống là căn nguyên gây ra sự lạc hậu và yếu hèn của Trung Quốc và Việt Nam, tàn dư của Nho giáo vẫn đang cản trở tiến trình hiện đại hóa của Trung Quốc và Việt Nam. Do vậy, muốn “hiện đại hóa” thành công, muốn đi theo con đường văn minh công nghiệp phương Tây - xây dựng chính thể dân chủ, tiếp thu khoa học hiện đại và kiến tạo nền văn hóa mới theo mô hình phương Tây, thì tiền đề của nó là phải đoạn tuyệt với văn hóa Nho giáo truyền thống. Tân Nho gia hiện đại Trung Quốc và những người theo Khuynh hướng khẳng định và chấn hưng Nho giáo ở Việt Nam (chúng tôi tạm gọi là “khuynh hướng truyền thống”) lại cho rằng, “hiện đại hóa” không có nghĩa là “Tây hóa hoàn toàn”, càng không phải là đoạn tuyệt với văn hóa Nho giáo truyền thống. Công cuộc hiện đại hóa đất nước phải gắn liền với tiến trình hiện đại hóa tư tưởng Nho giáo, và phải được tiến hành trên nền tảng tư tưởng Nho giáo. Theo họ, hiện đại đất nước với mục tiêu phú quốc cường binh là kết quả trực tiếp của tiến trình hiện đại hóa tư tưởng Nho giáo, vì hiện đại hóa tư tưởng Nho giáo về bản chất là điều chỉnh và kiến tạo lại hệ tư tưởng Nho giáo, khiến Nho giáo có thể thích ứng và tiếp nhận thành tựu “khoa học” và “dân chủ” phương Tây. Nói cách khác, hiện đại hóa tư tưởng Nho giáo là lấy Nho giáo làm nền tảng để tiếp nhận và dung nạp các yếu tố “dân chủ”, “khoa học” phương Tây, nhằm xây dựng một đất nước cường thịnh với thể chế chính trị dân chủ, nền khoa học hiện đại và một diện mạo văn hóa mới – văn hóa Nho giáo hiện đại. Và như vậy, mô thức hiện đại hóa tư tưởng Nho giáo cũng chính là phương thức cụ thể hóa mục tiêu hiện đại hóa đất nước. Với ý nghĩa đó, “dân chủ” và “khoa học” trở thành điều kiện tồn tại sống còn của Nho giáo trong xã hội hiện đại, cũng là một trong những nội dung chủ yếu của tiến trình hiện đại hóa tư tưởng Nho giáo. Lí luận hiện đại hóa theo mô hình này được Tân Nho gia hiện đại Trung Quốc và giới nghiên cứu khái quát thành con đường “văn minh công nghiệp phương Đông”/Chủ nghĩa Tư bản Nho giáo. Mô hình cụ thể của nó là : Nho giáo + “dân chủ” và “khoa học”[2].
Đầu thế kỉ XX, khi nhà nước chuyên chế Nho giáo sụp đổ, chế độ khoa cử giải thể, Nho giáo rơi vào khủng hoảng nghiêm trọng. Cùng với quá trình xâm nhập mạnh mẽ của văn hoá phương Tây, là phong trào phê phán Nho giáo rầm rộ và gay gắt của những người theo Khuynh hướng phản truyền thống ở Trung Quốc và Việt Nam. Thực tế đó đã đẩy Nho giáo tới bờ vực của sự tồn vong. Để chấn hưng và khôi phục Nho giáo, khiến Nho giáo có thể thích ứng và tiếp tục tồn tại trong xã hội hiện đại, dù muốn hay không, một cách bắt buộc, Tân Nho gia hiện đại Trung Quốc và những người theo “Khuynh hướng truyền thống” ở Việt Nam đều phải tìm cơ sở tồn tại mới cho Nho giáo bằng cách hiện đại hoá tư tưởng Nho giáo.
Phong trào chấn hưng và hiện đại hóa tư tưởng Nho giáo ở Trung Quốc bắt đầu từ những năm đầu thập niên ba mươi thế kỉ XX, phát triển mạnh mẽ và liên tục thành một dòng tư tưởng lớn trong lịch sử tư tưởng hiện đại Trung Quốc – trào lưu Tân Nho học hiện đại. Thập niên ba mươi, bốn mươi, ở Việt Nam cũng diễn ra hoạt động chấn hưng Nho giáo khá rầm rộ với những đại biểu theo “Khuynh hướng truyền thống”. Nho giáo của Trần Trọng Kim là một trong những trước tác tiêu biểu của hoạt động chấn hưng Nho giáo giai đoạn này, thể hiện khá rõ xu hướng hiện đại hóa tư tưởng Nho giáo.
Nho giáo là một tác phẩm khá đồ sộ trình bày về lịch sử Nho giáo Trung Quốc và một phần sơ lược về lịch sử Nho giáo Việt Nam. Nho giáo thể hiện khá rõ xu hướng hiện đại hoá tư tưởng Nho giáo của Trần Trọng Kim từ nhiều phương diện, như : mục đích biên soạn sách “Nho giáo”; phê phán Nho giáo truyền thống; giải thích lại tư tưởng triết học Khổng tử; luận bàn về trực giác, lý trí và phương pháp triết học Nho giáo; xác lập lại phả hệ truyền thừa đạo thống Nho giáo; hiện đại hóa tư tưởng Nho giáo về mặt dân chủ và khoa học; xác lập mô thức văn hóa Việt Nam tương lai…. Việc tìm hiểu, nghiên cứu và lí giải tường tận nội dung tư tưởng của Nho giáo, đòi hỏi một công trình quy mô lớn. Trong bài viết nhỏ này, chúng tôi tự giới hạn công việc của mình là tìm hiểu tư tưởng “khoa học” Nho giáo và chủ trương kết hợp Nho giáo với khoa học hiện đại của Trần Trọng Kim trong Nho giáo, tức tìm hiểu một khâu của tiến trình hiện đại hóa tư tưởng Nho giáo của Trần Trọng Kim trong Nho giáo – khâu hiện đại hóa tư tưởng Nho giáo về mặt khoa học. Công việc cụ thể là : trên cơ sở phác thảo những nội dung và quan điểm cơ bản về mầm mống tư tưởng “khoa học” Nho giáo và chủ trương kết hợp Nho giáo với khoa học hiện đại/phương thức hiện đại hóa tư tưởng Nho giáo về mặt khoa học trong Nho giáo của Trần Trọng Kim, bài viết đưa ra đánh giá ưu nhược điểm về cách nhìn của Trần Trọng Kim về vấn đề này. Ngoài ra, bài viết cũng thử đặt khâu hiện đại hoá tư tưởng Nho giáo về mặt “khoa học” của Trần Trọng Kim vào bối cảnh vận động và phát triển chung của Nho giáo khu vực, bước đầu tìm hiểu những điểm chung và khác biệt trong nội dung và thao tác hiện đại hoá tư tưởng Nho giáo về mặt “khoa học” giữa Trần Trọng Kim với Tân Nho gia hiện đại Trung Quốc.
II. Chủ trương kết hợp Nho giáo với khoa học hiện đại của Trần Trọng Kim trong Nho giáo
Như trên đã nói, “dân chủ” và “khoa học” là mục tiêu của hiện đại hóa, cũng là điều kiện tồn tại sống còn của Nho giáo trong xã hội hiện đại. Do đó, trong khi tiến hành hiện đại hóa tư tưởng Nho giáo nhằm tìm kiếm cơ sở tồn tại mới cho Nho giáo, Tân Nho gia hiện đại Trung Quốc và những người theo Khuynh hướng truyền thống ở Việt Nam đều không thể bỏ qua khâu quan trọng này - hiện đại hoá tư tưởng Nho giáo về mặt “dân chủ” và “khoa học”.
Trong tác phẩm Nho giáo, ngoài nỗ lực giải thích, kiến tạo lại và hiện đại hóa một loạt các vấn đề tư tưởng triết học Nho giáo[3], Trần Trọng Kim còn đặc biệt quan tâm đến việc hiện đại hóa nhằm cấy ghép cho học thuyết Nho giáo tư tưởng “dân chủ” và “khoa học”. Nội dung cụ thể của công việc này là tập trung luận giải tư tưởng “dân chủ” vốn hàm chứa trong học thuyết Nho giáo, đồng thời so sánh và chỉ ra ưu nhược điểm giữa tư tưởng “dân chủ” Nho giáo với thể chế chính trị dân chủ phương Tây hiện đại. Bên cạnh đó, Trần Trọng Kim cũng trình bày về mầm mống tư tưởng “khoa học” trong học thuyết Nho giáo, và biện luận về mối quan hệ và khả năng kết hợp, dung hoà giữa Nho giáo với khoa học hiện đại phương Tây.
Vấn đề khó khăn ở chỗ, vào thời điểm đầu thế kỉ XX, trong khi những người theo Khuynh hướng Phản truyền thống ở Trung Quốc và Việt Nam đương thời phê phán gay gắt Nho giáo là cổ hủ lạc hậu, là thứ lễ giáo ăn thịt người. Nho giáo không những khiếm khuyết tư tưởng “dân chủ” và “khoa học”, mà còn mâu thuẫn với “dân chủ” và “khoa học” như nước với lửa. Nho giáo là rào cản ngăn trở sự phát triển và công cuộc hiện đại hóa đất nước, cản trở việc học tập khoa học kĩ thuật và xây dựng thể chế chính trị dân chủ theo mô hình phương Tây hiện đại. Trong mắt những người Phản truyền thống, hiện đại hóa đất nước tất yếu phải gạt bỏ và đoạn tuyệt với Nho giáo truyền thống. Vậy thì, chủ trương kết hợp và dung hòa Nho giáo với “dân chủ” và “khoa học” hiện đại phương Tây của Tân Nho gia hiện đại Trung Quốc và những người theo Khuynh hướng truyền thống ở Việt Nam như Trần Trọng Kim, liệu có phải là cách làm thỏa đáng và khả thi? Trong bối cảnh đó, để có câu trả lời khẳng định, Tân Nho gia hiện đại Trung Quốc và những người theo Khuynh hướng truyền thống ở Việt Nam buộc phải chứng minh được rằng, tuy không thành tựu thể chế chính trị “dân chủ” và nền “khoa học” hiện đại như phương Tây, nhưng Nho giáo vốn hàm chứa mầm mống tư tưởng “dân chủ” và “khoa học”, hoặc chí ít, nếu không có mầm mống thì Nho giáo cũng không mâu thuẫn, xung khắc với những tư tưởng này. Chỉ như vậy, mới có thể tạo điều kiện và cơ sở cho Nho giáo có thể tiếp nhận, dung nạp, kết hợp và dung hoà với “dân chủ” và “khoa học” một cách thuận lợi. Không chứng minh được điều này, đồng nghĩa với việc Nho giáo không còn lí do tồn tại. Đây là điểm mấu chốt buộc các nhà nho hiện đại phải cải tạo, giải thích lại và hiện đại hóa tư tưởng Nho giáo, khiến Nho giáo có thể thích ứng và dung hòa với thể chế chính trị “dân chủ” và nền “khoa học” kĩ thuật phương Tây hiện đại. Ý thức được sự sống còn của Nho giáo phụ thuộc vào việc nghiên cứu mang tính đột phá về tư tưởng, hi vọng bằng sự cố gắng của mình có thể chấn hưng Nho giáo, Trần Trọng Kim đã cố gắng giải thích lại và làm mới tư tưởng Nho giáo theo hướng hiện đại hóa, nhằm chứng minh học thuyết Nho giáo vốn hàm chứa tư tưởng “dân chủ” và “khoa học”. Từ đó khẳng định Nho giáo không những không đối lập, xung khắc với tư tưởng “dân chủ” và “khoa học” phương Tây hiện đại, mà còn bao hàm nhiều tư tưởng “dân chủ” và “khoa học”, thậm chí ở một số điểm nhất định, tư tưởng “dân chủ” và “khoa học” Nho giáo còn ưu việt hơn thể chế chính trị dân chủ và khoa học hiện đại phương Tây[4].
1.Mầm mống tư tưởng “khoa học” Nho giáo và chủ trương kết hợp Nho giáo với khoa học hiện đạiphương Tây
Trong tác phẩmNho giáo, Trần Trọng Kim đã xác lập mô thức văn hóa Việt Nam tương lai là : kết hợp Nho giáo với khoa học hiện đại phương Tây làm phương thức cụ thể hóa tiến trình hiện đại hóa đất nước. Trong đó ông khẳng định tư tưởng Nho giáo truyền thống sẽ đóng vai trò cơ sở nền tảng, là kim chỉ nam dẫn dắt tiến trình hiện đại hóa đất nước[5].
Trần Trọng Kim cho rằng, mô thức văn hóa này là lựa chọn ưu việt nhất cho văn hóa Việt Nam tương lai – mô thức văn hóa kết hợp Đông Tây hài hòa, vừa giữ được giá trị luân lí đạo đức Nho giáo truyền thống, vừa tiếp thu được nền khoa học kĩ thuật hiện đại phương Tây. Trong mô thức văn hóa này, Nho giáo có vai trò đặc biệt quan trọng, nó vừa là hạt nhân của văn hóa Việt Nam tương lai, cũng là nhân tố dẫn dắt và kiến tạo tiến trình hiện đại hóa đất nước. Trần Trọng Kim tin rằng, tiến trình hiện đại hóa đất nước dưới sự dẫn dắt của tư tưởng luân lí đạo đức Nho giáo một mặt giúp tiến trình hiện đại hóa của Việt Nam giành được thành tựu khoa học công nghệ hiện đại phương Tây, mặt khác cũng giúp Việt Nam tránh được hậu quả nghiêm trọngvề kinh tế, xã hội, văn hóa mà xã hội phương Tây đang phải đối mặt đương thời. Đó là những cuộc chiến tranh xâm lược phi nghĩa tàn khốc, cuộc sống vật chất thô thiển xô bồ, chủ nghĩa cá nhân tự do vỏ ốc và sự băng hoại giá trị đạo đức luân lí.... Theo Trần Trọng Kim, so với chủ trương hiện đại hóa đất nước bằng phương thức “Tây hóa hoàn toàn” theo kiểu “di thực, lai căng, mất gốc” của những người theo Khuynh hướng phản truyền thống Việt Nam đương thời, thì ưu điểm của mô thức văn hóa ông xác lập là vừa giúp Việt Nam có thể hiện đại hóa đất nước thành công, đạt mục tiêu phú quốc cường binh, vươn lên ngang bằng với các cường quốc phương Tây, vừa giữ được giá trị luân lí đạo đức Nho giáo truyền thống. Trần Trọng Kim cũng hi vọng thông qua thực hiện tiến trình hiện đại hóa đất nước theo mô thức văn hóa kết hợp Nho giáo với khoa học hiện đại phương Tây có thể khôi phục và chấn hưng đạo thánh Nho giáo. Một khi đạo thánh Nho giáo được chấn hưng và sáng tỏ trở lại, Nho giáo không chỉ khuôn hẹp phạm vi ảnh hưởng là dẫn dắt, kiến tạo và giúp tiến trình hiện đại hóa của Việt Nam đạt được thành tựu tốt đẹp, mà còn góp phần soi sáng “thế đạo, nhân tâm” cho cả nhân loại đang phải sống trong cảnh hôn ám, “vô đạo” đương thời, ông viết : “mong rằng ta giữ được cái nền đạo đức cũ mà tham chước với sự sinh hoạt đương thời, để cho tâm với trí cùng tiến hóa, cùng điều hòa được với nhau, thì có lẽ cái đạo của thánh hiền cũng có thể sáng rõ ra được, và nhân loại không đến nỗi lờ mờ như người đi đêm vậy”[6]. Điều đó cho thấy, sở dĩ Trần Trọng Kim lựa chọn Nho giáo làm hạt nhân của tiến trình hiện đại hóa, vì theo ông tuy xã hội phương Tây phát triển rực rỡ về khoa học và vật chất, nhưng do họ quá thiên về vật chất, xem thường và lãng quên luân lí đạo đức, đã tạo ra sự mất cân bằng trong xã hội, và hậu quả khiến cho xã hội phương Tây chao đảo băng hoại. Ưu điểm của mô thức văn hóa kết hợp Nho giáo với khoa học phương Tây hiện đại của Trần Trọng Kim là giúp Việt Nam tránh được những hậu quả mà xã hội phương Tây đang phải đối mặt đương thời trong tiến trình hiện đại hóa. Đó là lí do căn bản khiến Trần Trọng Kim lựa chọn mô thức này làm phương thức cụ thể hóa tiến trình hiện đại hóa cho Việt Nam. Mô thức văn hóa này cũng chính làmục tiêu và lí tưởng Trần Trọng Kim hướng tới trong tác phẩm Nho giáo. Với Trần Trọng Kim, mô thức này không chỉ là sự lựa chọn ưu việt cho Việt Nam tương lai, mà còn cho thế giới tương lai.
Vấn đề cần bàn ở đây là, học thuyết Nho giáo truyền thống vốn coi trọng đạo đức hơn tri thức khoa học, xem trọng kinh nghiệm chủ quan, coi nhẹ tri thức khoa học thực nghiệm khách quan. Nho giáo quan tâm hàng đầu là công việc tu dưỡng đạo đức của cá nhân, Nho giáo luôn soi xét xem con người cá nhân tu dưỡng đạo đức như thế nào, chứ không xem họ tiếp cận giới tự nhiên hay nghiên cứu khoa học thực nghiệm ra sao. Đạo đức luôn chiếm địa vị chủ đạo, tri thức khoa học chỉ là thứ yếu. Thước đo giá trị con người cá nhân là thành tích tu dưỡng đạo đức, không phải thành tựu tri thức khoa học. Với quan niệm và hệ giá trị truyền thống như thế, mô thức văn hóa Việt Nam tương lai Trần Trọng Kim xác lập nói trên, không khỏi khiến những người theo Khuynh hướng phản truyền thống chủ trương hiện đại hóa theo hướng “Tây hóa” Việt Nam đương thời tỏ ra hoài nghi về khả năng kết hợp, dung hòa Nho giáo với khoa học, bởi trong mắt họ, Nho giáo bị xem là tư tưởng cổ hủ lạc hậu, cản trở sự phát triển và tiến trình hiện đại hóa đất nước, Nho giáo vốn xung khắc với khoa học như nước với lửa. Khoa học với tư cách là một trong những thành tựu nổi bật của văn hóa phương Tây - nhân tố làm nên sự cường thịnh của các quốc gia phương Tây thời cận hiện đại - tiêu chí thể hiện trình độ văn minh của mỗi quốc gia thời hiện đại, quyết không thể kết hợp và dung hòa với Nho giáo. Bởi thế, mô thức văn hóa Việt Nam tương lai của Trần Trọng Kim phải đối mặt với một loạt câu hỏi như : Nho giáo có mầm mống tư tưởng khoa học? Nếu Nho giáo không có mầm mống tư tưởng khoa học, thì Nho giáo có mâu thuẫn, xung đột với khoa học không, có thể kết hợp Nho giáo với khoa học không? Nếu Nho giáo có mầm mốngtư tưởngkhoa học, tư tưởng khoa học vốn hàm chứa trong học thuyết Nhogiáo có tương thích với khoa học hiện đạiphương Tâykhông, có thể kết hợp chúng với nhau không, nếu có thể kết hợp thì phải kết hợp theo nguyên tắc nào? Việc kết hợp này có trái nguyên tắc của Nho giáo…? Ý thức được khó khăn, thách thức và những vấn đề cần giải đáp này, bên cạnh việc xác lập mô thức văn hóa Việt Nam tương lai và những thuyết minh ưu điểm, hiệu quả của mô thức này sẽ mang lại cho Việt Nam trong tiến trình hiện đại hóa, Trần Trọng Kim cũng đặc biệt lưu ý luận giải về mầm mống tư tưởng “khoa học” trong học thuyết Nho giáo, khẳng định Nho giáo có mầm mống tư tưởng “khoa học”, Nho giáo không mâu thuẫn, xung đột với khoa học, trên cơ sở đó ông chủ trương kết hợp, dung hòa Nho giáo với khoa học hiện đại phương Tây.
Về mầm mống tư tưởng “khoa học” Nho giáo, khả năng kết hợp, dung hòa Nho giáo với khoa học hiện đại phương Tây, Trần Trọng Kim cho rằng, Nho giáo tuy coi trọng tu dưỡng đạo đức cá nhân, luôn đòi hỏi con người phải chính tâm, tu thân, nhưng không vì thế Nho giáo xem thường tri thức khoa học tự nhiên và thực nghiệm, bởi bên cạnh coi trọng tu dưỡng đạo đức, Nho giáo vẫn lấy “cách vật, trí tri” làm cốt yếu. Quan niệm “cách vật, trí tri” của Nho giáo không những không trái, mà còn rất gần, thậm chí mang ý nghĩa khoa học hiện đại. Đây là cơ sở Trần Trọng Kim dựa vào để khẳng định Nho giáo có mầm mống tư tưởng khoa học, không trái khoa học, và chủ trương kết hợp, dung hòa Nho giáo với khoa học hiện đại. Trần Trọng Kim cũng khẳng định chủ trương kết hợp Nho giáo với khoa học phương Tây hiện đại ông đề xướng, không phải do ông thiên ái với Nho giáo, muốn chấn hưng và khôi phục Nho giáo nên đề xướng như vậy, mà chủ trương này xuất phát từ chính tôn chỉ của Nho giáo :
“Nho giáo trọng sự chính tâm, tu thân, nhưng vẫn lấy điều trí tri, cách vật làm cốt yếu. Vậy đem Nho giáo mà dung hợp với khoa học ngày nay, tưởng cũng không phải là trái với tông chỉ của Khổng Mạnh, phải tùy thời mà biến đổi. Miễn là lúc nào cũng giữ lấy nhân nghĩa làm gốc, thì càng thay đổi bao nhiêu lại càng thích hợp với cái chủ nghĩa của Nho giáo bấy nhiêu”[7].
Theo Trần Trọng Kim, người học Nho giáo phải hiểu cái học Nho giáo không phải cái học cứng nhắc giáo điều, mà là cái học “phải theo thời mà biến đổi cho hợp thời”[8], do vậy kết hợp, dung hòa Nho giáo với khoa học hiện đại phương Tây là hợp thời thế, và hoàn toàn phù hợp với nguyên tắc “tùy thời biến dịch” trong tư tưởng Khổng Mạnh. Có nghĩa, theo ông Nho giáo không đối lập, xung khắc với khoa học, hoàn toàn có thể kết hợp chúng với nhau, và việc kết hợp này phù hợp với nguyên tắc “tùy thời biến dịch” của Nho giáo. Nhưng kết hợp Nho giáo với khoa học như thế nào và theo nguyên tắc nào? Trần Trọng Kim giải đáp vấn đề này bằng cách cụ thể hóa chủ trương kết hợp Nho giáo với khoa học hiện đại phương Tây thành sựkết hợp giữa giáo dục “đức dục” Nho giáo truyền thống với giáo dục “trí dục” hiện đại phương Tây, tạo nên mô thức giáo dục Việt Nam hiện đại.
Trần Trọng Kim cho rằng, Nho giáo quan niệm tính bản nhiên chí thiện của con người là do Trời phú, ai sinh ra cũng bẩm thụ được đầu mối Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí (“tứ đoan” : trắc ẩn, tu ố, từ nhượng, thị phi). Người ta sở dĩ làm điều ác là do bị tư tâm, tư dục che lấp, do đó Nho giáo chủ trương giáo dục con người nuôi dưỡng mầm thiện, chế tài điều ác. Trọng tâm giáo dục của Nho giáo là đào luyện ra những người lương thiện, có tâm, có đức, có khí tiết, có nhân phẩm cao thượng, trung nghĩa, hiếu liêm, tu đức luyện tài để trở thành bậc chính nhân quân tử, để kinh bang tế thế, phục vụ công việc chính trị của đất nước. Và để có được những bậc chính nhân quân tử, Nho giáo phải xây dựng nền “đức dục” vững vàng, để giáo dục bồi tài đạo đức và nhân cách cho họ. Trần Trọng Kim nhấn mạnh, sở dĩ Nho giáo coi trọng giáo dục “đức dục” là vì, với Nho giáo công việc giáo dục luôn gắn bó mật thiết với công việc chính trị. Nho giáo chủ trương cai trị nước bằng nền chính trị “đức trị”, cho nên sự thành bại của giáo dục “đức dục” quyết định sự thành bại của công việc cai trị đất nước : “trong một nước mà vua ra vua, tôi ra tôi, cha ra cha, con ra con, anh ra anh, em ra em, vợ chồng ra vợ chồng, thì nước trị; trái lại thì nước loạn. Vậy nên Nho giáo nói chính trị là phải nói cả giáo dục. Phàm là người dân đã có giáo dục, thì biết có nghĩa vụ và quyền lợi, biết trọng lễ nghĩa và trật tự. Người làm vua làm quan có giáo dục thì biết rõ cái chức trách của mình, không làm điều tàn ngược”[9]. Với vai trò quan trọng đối với sự thành bại trong chính trị và sự trị loạn của đất nước như thế, nên giáo dục “đức dục” luôn được Nho giáo quan tâm hàng đầu.
Đối tượng của giáo dục “đức dục” là toàn thể dân chúng, trong đó quan trọng nhất là vua và quan, bởi họ là những người quan hệ trực tiếp đến vận mệnh đất nước, sự thịnh suy của dân tộc và sự sướng khổ của dân chúng : “những người ấy (vua quan – NTĐ) mà không có giáo dục, không biết nhân nghĩa lễ trí, thì thành ra một bọn đạo tặc dùng cái cơ thuật gian trá để làm hại thiên hạ”[10]. Người làm vua, làm quan có giáo dục là những bậc hiền nhân quân tử thấu hiểu đạo đức lễ nghĩa, luôn lấy mình làm mẫu để khuôn phép dân chúng đi theo con đường đạo đức luân lí, đưa đất nước đến cảnh thái bình thịnh trị. Còn kẻ làm vua, làm quan mà vô giáo dục thì chỉ là những kẻ hôn quân vô đạo, sớm muộn cũng đưa đất nước và dân chúng tới cảnh lầm than. Điều đó cho thấy sự quan trọng của giáo dục “đức dục” Nho giáo với dân chúng và xã hội. Người dân nhờ giáo dục “đức dục” của Nho giáo mà thấm nhuần luân lí đạo đức, từ đó khuôn phép mình trong phạm vi danh giáo, xa rời sự xảo trá gian tà. Xã hội nhờ sự đào luyện và giáo dục “đức dục” của Nho giáo mà thành một xã hội trật tự lễ nghĩa.
Nho giáo trước nay vẫn “lấy đức dục làm gốc, lấy trí dục làm ngọn”, cho nên Nho giáo thành tựu về luân lí đạo đức, mà thiếu thành tựu về khoa học kĩ thuật, nhưng lẽ nào chỉ vì khuyết điểm đó mà ngày nay chúng ta phủ nhận tác dụng tích cực và vứt bỏ nền giáo dục “đức dục” của Nho giáo? Đã đành trong giáo dục hiện đại ngày nay, chúng ta không thể không coi trọng “trí dục”, học tập khoa học hiện đại phương Tây, đưa đất nước phát triển cường thịnh, nhưng có nên bỏ nền giáo dục “đức dục” Nho giáo? Theo quan điểm của những người phê phán, phỉ báng Nho giáo đương thời thì, thời thế thay đổi, xã hội thay đổi, nền giáo dục Nho giáo cũ kĩ lạc hậu không còn phù hợp với xã hội đương thời, đang cản trở sự phát triển của đất nước, khiến đất nước lạc hậu yếu hèn, vì vậy đương nhiên phải vứt bỏ cái học đạo đức hủ bại Nho giáo, để theo cái học “trí dục” phương Tây. Trần Trọng Kim cho rằng, đó là quan niệm nông nổi sai lầm, chưa ý thức được ý nghĩa, giá trị và tầm quan trọng của cái học “đức dục” Nho giáo. Theo ông, những người tân học không chịu bình tâm suy xét kĩ cái học Nho giáo của mình và cái học phương Tây của người, xem nó hay dở ra sao, để “thủ xả cho chính đáng”. Họ không hiểu cái học cũ – Nho giáo tuy có cái dở nhưng vẫn có cái hay, cái tốt cần kế thừa phát huy; cái học mới – phương Tây tuy có điều hay, nhưng cũng có không ít cái xấu, cái dở cần chắt lọc gạn bỏ. Họ một mực theo thiên kiến chủ quan cá nhân, cái gì mới đều cho là hay, là tốt và đáng học cả, cái gì cũ đều cho là xấu, là dở và đáng bỏ cả. Trước sự thay đổi của thời cuộc, trước sự lớn mạnh và khuynh đảo của thế lực phương Tây, đối mặt với nền văn hóa vật chất phương Tây và sự suy tàn của Nho giáo, họ vội vàng đồng thanh kêu gọi vứt bỏ Nho giáo để theo Tây học. Khi Nho giáo đổ nát, văn hóa phương Tây tràn vào với sự cường thịnh và ưu thế của nó, thì ai nấy (cả nhà nho truyền thống và tri thức Tây học) đều chạy theo học phương Tây cả, không ai chịu suy nghĩ tìm hiểu nguyên do đâu mà Nho giáo vốn xưa hay là thế mà bỗng chốc lại thành ra như vậy : “không xem xét sự kém hèn của mình bởi đâu mà ra, vội vàng bỏ những điều xưa nay mình vẫn tín ngưỡng mà bắt chước cái mới của người ta”[11]. Trần Trọng Kim cho rằng, quan điểm cực đoan này của những người theo khuynh hướng “Tây hóa hoàn toàn” là chủ quan, nông cạn và không có lợi cho Việt Nam, bởi vì “cái tinh thần của Nho giáo vốn có phần rất mĩ mãn, và đã có rễ ăn sâu xa vào não tủy của người mình. Nếu ta không hiểu tinh thần ấy cho đến nơi đến chốn, chưa gì đã vội đem cắt bỏ đi, thì vị tất đã lợi cho tương lai của xã hội mình”[12]. Những người tân học cũng không hiểu sở dĩ Nho giáo suy tàn nhanh chóng, chịu khuất nhục trước văn hóa phương Tây, là vì chúng ta không hiểu và không biết theo đúng tông chỉ của Khổng Mạnh “phải tùy thời mà biến đổi cho hợp lẽ tự nhiên” để kế thừa và phát triển tư tưởng Nho giáo. Những người tân học đã không biết lỗi của mình, còn xu thời nịnh thế, một mực theo Tây học, quay lưng rũ bỏ Nho giáo. Trần Trọng Kim lưu ý họ rằng, ngày nay “giả sử ta biết nhận cái lỗi ấy, rồi tìm cách mà sửa đổi lại cho hợp thời, thì biết đâu sau này Nho giáo dung hòa với khoa học, lại không thành ra cái học có giá trị lắm hay sao?”[13]. Trần Trọng Kim phê bình gay gắt thái độ cuống cuồng học theo phương Tây và vội vàng rũ bỏ Nho giáo của trí thức tân học Việt Nam đương thời, khi họ chưa học được cái mới tốt hơn (văn hóa phương Tây) để thay thế cái cũ (Nho giáo), họ đã vội quay lưng với Nho giáo, thành ra những cái dở của mình không bỏ được, còn cái hay, cái tốt, cái “mĩ mãn” của Nho giáo lại mất đi, khiến cho văn hóa nước ta đã đổ nát, nay lại càng đổ nát hơn. Kết quả là, chúng ta rơi vào trạng thái hoang mang, “ngơ ngác, không biết đi về đường nào cho phải, không biết bấu víu vào đâu để làm cốt về đường lý tưởng”[14]. Theo Trần Trọng Kim, học tập phương Tây phải lấy tinh thần dân tộc - tinh thần Nho giáo của mình làm cốt lõi, chỉ học thêm cái hay của người để bồi bổ cho tinh thần của mình mới tốt. Đằng này, cái tinh thần của mình vốn đã hư hỏng, mà vội đi bắt chước người ta, thì chỉ làm cho mình dở hơn, làm loạn cả tính tình, tư tưởng, phong tục của mình, và tạo ra đủ loại thứ bệnh cho xã hội, đó là lỗi lầm của những người tân học ngày nay. Trần Trọng Kim nhấn mạnh, sự cường thịnh của một dân tộc quyết định bởi “tinh thần” văn hóa dân tộc đó có cường thịnh hay không : “dân tộc nào cường thịnh là vì đã biết giữ cái tinh thần của mình được tươi tốt luôn; dân tộc nào suy nhược là vì đã để cái tinh thần hư hỏng đi, không biết tìm cách mà nuôi nó lên”[15]. Tinh thần của dân tộc như cội rễ của cây cối, cội rễ cây cối được chăm bón thì cành lá xum xuê, không được chăm bón thì cằn cỗi suy nhược. Sự yếu hèn của Việt Nam là do chúng ta đã không biết giữ và nuôi dưỡng tinh thần dân tộc – văn hóa Nho giáo truyền thống của mình, chứ không phải do bản thân Nho giáo yếu hèn. Văn hóa Nho giáo có cái dở nhưng cũng có cái hay, cái tốt cần kế thừa phát huy, văn hóa phương Tây có điều hay nhưng cũng có không ít cái dở cần chắt lọc gạn bỏ. Vì thế, phương pháp hiệu quả là kết hợp hài hòa sở trường Đông Tây, không thiên một bên nào : “giả sử nay ta biết hồi tỉnh lại, cố gây lấy cái sở trưởng của mình, và lại học thêm cái sở trưởng của người, thì chắc có thể dần dần gây nên cái tinh thần tốt đẹp mạnh mẽ, đủ làm cho ta cường thịnh được. Là vì một đường ta không bỏ mất cái căn bản đã tạo tác ra tâm tính của ta, một đường ta lại học được thêm cái hay của người, để theo thời mà biến đổi cho thích hợp với cái lẽ đương nhiên, như vậy thì dẫu thế nào, cái kết quả về sau cũng có phần hay được ”[16]. Như vậy, bên cạnh khẳng định ưu điểm và vai trò của Nho giáo trong đào luyện đạo đức nhân cách con người, Trần Trọng Kim cũng thừa nhận nhược điểm của Nho giáo là do quá thiên về giáo dục “đức dục”, xem nhẹ phương diện “trí dục” nên Nho giáo không thành tựu khoa học kĩ thuật hiện đại như phương Tây, nhưng không vì thế mà vứt bỏ giáo dục “đức dục” Nho giáo, bởi trong xã hội hiện đại giáo dục “đức dục” Nho giáo lại càng có vai trò quan trọng.
Về vai trò của giáo dục “đức dục” Nho giáo trong xã hội hiện đại, Trần Trọng Kim khẳng định, dù thời thế có thay đổi thế nào, vẫn cần giáo dục “đức dục” Nho giáo. Xã hội càng hiện đại, vai trò của giáo dục “đức dục” càng có ý nghĩa quan trọng. “Đức dục” là gốc, là cơ sở nền tảng cho một xã hội lễ nghĩa trật tự, có luân thường đạo lí, “cái gốc đức dục có bền chặt, cái ngọn trí dục mới tươi tốt”. Sở dĩ như vậy là vì :
“nếu ở trong một xã hội mới ngày nay mà những người giữ quân quyền đều là người có đức hạnh cả, lại không hơn những người giảo quyệt, khôn khéo mà gian tham và vô liêm sỉ hay sao? Đã hay rằng thời khoa học mở mang ra, sự sinh hoạt không giản dị đơn sơ như trước nữa, sự giáo dục ngày nay tất không thể không chú trọng ở trí dục, nhưng thử xét xem ta có thể bỏ được đức dục đi không? Người có tài có trí mà không có tâm địa, không có khí tiết, thì dù ở thời đại nào mặc lòng, cũng chỉ là một bọn gian ác, làm những việc ích kỉ hại nhân mà thôi, vậy thì lấy gì mà phân biệt kẻ hay người dở!”[17].
Có nghĩa, trong thời hiện đại không thể không chú trọng giáo dục “trí dục”, nhưng một nền giáo dục nếu chỉ thiên về “trí dục” mà lãng quên “đức dục”, xã hội đó tuy hiện đại về khoa học kĩ thuật, phong phú về vật chất, nhưng thiếu đạo lí nhân luân. Một xã hội phát triển thiên lệch như thế là xã hội không có căn bản và mất gốc, xã hội đó sớm muộn cũng đảo điên vô đạo :
“sự giáo dục mà chỉ chú trọng ở một trí dục mà thôi, thì không đủ khiến người ta biết rõ cái đạo làm người được. Bởi vì người ở trong xã hội mà khôn ngoan đủ điều, nhưng không có cái đức dục để ràng buộc nhân tâm thì khác nào một đàn thú dữ ở với nhau, chỉ chực làm hại lẫn nhau để cầu cái lợi riêng của mình. Người ở với nhau như thế, thì còn có gì là nhân đạo nữa?”[18].
Ưu điểm và giá trị của giáo dục “đức dục” Nho giáo là làm cho đạo đức, nhân nghĩa thấm vào lòng người, loại bỏ lòng tư dục gian tà, đào luyện ra những người đức hạnh, có khí tiết, có phẩm cách cao thượng, dám xả thân vì quốc gia thiên hạ. Nhược điểm của nó là quá thiên về “đức dục”, xem nhẹ “trí dục”, nên không thành tựu các ngành khoa học kĩ thuật hiện đại, khiến đất nước yếu hèn và lạc hậu. Đó là hiện trạng của văn hóa nước ta. Giáo dục “trí dục” làm cho tài trí, khoa học, công nghệ phát triển, nhưng nếu chỉ thiên về “trí dục”, bỏ “đức dục”, thì chỉ tạo ra đám người “giảo quyệt”, “gian tham”, “vô liêm sỉ”, “gian ác”, “ích kỉ hại nhân”, “giả nhân giả nghĩa”, “tự tư tự lợi”. Kết quả là hình thành lối sống vật chất xô bồ, con người cá nhân vỏ ốc, tình cảm con người đơn bạc. Đó là hiện trạng văn hóa phương Tây. “Đức dục” và “trí dục” mỗi cái đều có sở trường và sở đoản của nó, nên không thể chỉ thiên lệch một bên nào. Nền giáo dục chỉ thiên lệch về một phương diện “đức dục” hoặc “trí dục” là nền giáo dục không căn bản và toàn diện, và chúng đều tạo ra những hậu quả đáng tiếc. Trước đây, vì chúng ta quá coi trọng “đức dục”, xem thường “trí dục”, nên khoa học kĩ thuật không phát triển, hệ quả là đất nước nghèo hèn lạc hậu. Còn các nước phương Tây đương thời, vì họ quá coi trọng “trí dục”, xem thường “đức dục”, nên khoa học kĩ thuật phát triển, đất nước cường thịnh, nhưng đạo đức nhân tâm băng hoại. Một nền giáo dục được xem là căn bản và tránh được những hậu quả đáng tiếc là nền giáo dục kết hợp hài hòa giữa “đức dục” và “trí dục”, không thiên lệch một bên nào :
“cái nền đức dục của ta là Nho giáođã xây đắp lên hằng mấy nghìn năm nay rồi, mà đã có cái hiệu quả mĩ mãn, thì ta cứ giữ lấy cái nền lưu truyền ấy để làm cái sản nghiệp riêng của ta. Ta lại thu thái lấy những điều trí dục mà ta còn khiếm khuyết, để bồi bổ thêm vào cái sản nghiệp ấy, làm cho tâm với trí điều hòa với nhau mà tiến hóa. Như thế thì cái học của ta có cái căn bản, và có thay đổi điều gì ắt cũng ít có sự lầm lỗ vậy”[19].
Sự kết hợp giữa giáo dục “đức dục” Nho giáo với giáo dục “trí dục” phương Tây được Trần Trọng Kim lựa chọn làm mô hình giáo dục lí tưởng và ưu việt cho Việt Nam tương lai. Đó là nền giáo dục kết hợp hài hòa giữa “đức dục” và “trí dục”, không thiên về “đức dục” hay “trí dục”. Mô hình giáo dục này được Trần Trọng Kim cụ thể hóa như sau :
“ta muốn rằng người mình bây giờ phải theo thời mà học tập : thực nghiệp, kinh tế, binh gia, toán pháp, vật lí, hóa học, bao nhiêu những khoa trí dục đều phải học như người ta, nhưng phải lấy Nho giáo làm cái nền đức dục, nghĩa là lấy cái nghĩa lí lưu truyền tự nghìn xưa mà gây lấy cái tinh thần, dù ở vào cảnh ngộ nào cũng có cái nhân cách đặc biệt, có cái phẩm giá tôn quí, không phụ cái tiếng nhân linh ư vạn vật. Nếu ta biết theo cái phương châm ấy mà học tập, mà hành động, thì cái nền giáo dục của ta sau này chắc có nhiều hi vọng lắm vậy”[20].
Trong sự kết hợp này, chúng ta phải kế thừa cái tinh hoa đặc sắc của nền giáo dục “đức dục” Nho giáo truyền thống, vốn được đúc kết từ lâu đời, từng phát huy hiệu quả “mĩ mãn” trong quá khứ, lấy đó làm nền tảng để tiếp thu thành quả giáo dục “trí dục” phương Tây mà ta khiếm khuyết, kết hợp hài hòa chúng với nhau, tạo nên nền giáo dục căn bản. Đó là nền giáo dục kế thừa được đặc sắc văn hóa truyền thống – tư tưởng luân lí đạo đức Nho giáo, tiếp nhận dung nạp được tinh hoa văn hóa phương Tây - thành tựu khoa học kĩ thuật hiện đại – nền giáo dục truyền thống nhưng không lạc hậu hủ bại, hiện đại nhưng không mất gốc lai căng – nền giáo dục truyền thống mà hiện đại, hiện đại mà truyền thống – nền giáo dục hiện đại mà đậm bản sắc dân tộc.
Trên đây, bài viết đã trình bày khái lược quan điểm của Trần Trọng Kim về mầm mống tư tưởng “khoa học” Nho giáo và chủ trương kết hợp Nho giáo với khoa học hiện đại phương Tây của ông trong Nho giáo. Tuy không dành nhiều thời gian trình bày và luận giải về mầm mống tư tưởng “khoa học” Nho giáo, mà thiên về luận giải khả năng kếp hợp, sự cần thiết phải kết hợp và ý nghĩa của việc kết hợp Nho giáo với khoa học hiện đại, song ta vẫn thấy quan điểm của Trần Trọng Kim nhất quán khẳng định Nho giáo có mầm mống tư tưởng khoa học, Nho giáo không mâu thuẫn, xung đột, đối lập với khoa học, có thể kết hợp Nho giáo với khoa học và cần phải kết hợp Nho giáo với khoa học, bởi những ưu điểm của việc kết hợp này như ông đã diễn giải ở trên. Vấn đề tư tưởng “khoa học” Nho giáo, mối quan hệ giữa Nho giáo với khoa học hiện đại và chủ trương kết hợp chúng với nhau được Trần Trọng Kim tiếp tục trình bày, luận giải, biện luận sâu rộng hơn khi ông tranh luận với Phan Khôi về vấn đề này.
2. Tranh luận với Phan Khôi
So với chủ trương khẳng định và chấn hưng Nho giáo của Trần Trọng Kim, Phan Khôi (1887 - 1959) là người có quan điểm đối lập, ông là đại diện tiêu biểu củaxu hướng phê phán Nho giáo ở Việt Nam thập niên ba mươi thế kỉ XX. Phan Khôi phê phán Nho giáo mạnh mẽ và gay gắt. Trước khi cuốn Nho giáo của Trần Trọng Kim xuất bản, Phan Khôi đã viết một loạt bài phê phán Nho giáo trên báo Phụ nữ Tân văn vào năm 1929[21]. Ông kêu gọi vứt bỏ tư tưởng lạc hậu và lỗi thời của Nho giáo, chủ trương học tập khoa học kĩ thuật và xây dựng thể chế chính trị dân chủ hiện đại phương Tây, để hiện đại hóa đất nước.
Theo lời Phan Khôi trong bài “Đọc cuốn “Nho giáo” của ông Trần Trọng Kim” đăng trên Phụ nữ Tân văn năm 1930, trước khi Nho giáo của Trần Trọng Kim ra mắt bạn đọc, Nhà xuất bản đã mời ông đọc thẩm định phê bình cuốn sách này. Vì thế, Phan Khôi là người đầu tiên viết bài phê bình nội dung sách Nho giáo. Trong bài viết này, bên cạnh khẳng định những ưu điểm và giá trị học thuật của sách Nho giáo, Phan Khôi cũng phê bình Nho giáo của Trần Trọng Kim trên nhiều điểm, trong đó nổi bật là vấn đề tư tưởng “khoa học” Nho giáo, vấn đề kết hợp và dung hòa Nho giáo với khoa học hiện đại.
Trong bài “Đọc cuốn “Nho giáo” của ông Trần Trọng Kim”, Phan Khôi phê phán quan điểm cho Nho giáo có mầm mống tư tưởng “khoa học” và chủ trương kết hợp, dung hòa Nho giáo với khoa học hiện đại phương Tây của Trần Trọng Kim. Theo Phan Khôi, Nho giáo không thể dung hòa với Tây học, bởi hai lí do : “một là cái vẻ huyền học của Khổng giáo trái với khoa học; hai là cái chủ nghĩa tôn quân của Khổng giáo trái với chủ nghĩa duy dân (démocratisme)”[22]. Vì vậy, ngày nay nếu chúng ta muốn học theo phương Tây, ắt phải bỏ hết tất cả những thứ của Nho giáo trái với “khoa học” và “dân chủ”, cho dù việc đó có trái với tông chỉ Khổng Mạnh hay không, vì rằng việc học theo phương Tây là vô cùng cần kíp. Có chăng cái cần kế thừa Khổng giáo “chỉ nên lấy nội cái phần tu thân để đạt đến cái mục đích làm quân tử mà thôi”[23].
Về việc Trần Trọng Kim căn cứ vào bốn chữ “cách vật trí tri” để biện luận Nho giáo không trái với khoa học và có ý nghĩa khoa học, ở mức độ nhất định Phan Khôi cũng thừa nhận “cách vật trí tri” có vẻ không trái khoa học, tuy nhiên ông cũng cho rằng, cái nghĩa gần khoa học hiện đại của bốn chữ “cách vật trí tri” là nghĩa chúng ta thường hiểu ngày nay, còn những giải thích của các vị tiên nho về ý nghĩa bốn chữ “cách vật trí tri” như Vương Dương Minh khi viết thư cho La Khâm Thuận nói rằng “cách vật giã, cách kì tâm chi vật, cách kì ý chi vật, cách kì tri chi vật; chánh tâm giã, chánh kì vật chi tâm; thành ý giã, thành kì vật chi ý; trí tri giã, trí kì vật chi tri. Nếu “cách vật trí tri” mà theo như lời họ Vương đó thì thôi, thiệt không còn ra nghĩa lí chi nữa”[24]thì quả là trái với khoa học ngày nay lắm. Và rằng, giả như chúng ta thừa nhận ý nghĩa bốn chữ “cách vật trí tri” của Nho giáo không trái khoa học, thì Nho giáo cũng chỉ có vẻn vẹn bốn chữ đó thôi, ngoài ra Nho giáo có rất nhiều điểm trái với khoa học, ngăn trở khoa học, ông viết :
“Thế nhưng chỉ bốn chữ ấy mà thôi (“cách vật trí tri” – NTĐ), ngoài ra thiệt có lắm điều trở ngại cho khoa học. Đại để Khổng giáo chỉ nói cái lẽ đương nhiên mà không nói đến cái sở dĩ nhiên, bảo người ta phải làm như vậy mà không cắt nghĩa cho người ta tại làm sao phải làm như vậy. Tôi tưởng cái phương pháp chuyên dùng trực giác ấy thiệt có hại cho cái tinh thần khoa học chẳng phải vừa”[25].
Sau bài phê bình này của Phan Khôi, Trần Trọng Kim viết bài “Mấy lời bàn với Phan tiên sinh về Khổng giáo”[26] tranh luận với Phan Khôi về tư tưởng “khoa học” Nho giáo, vấn đề kết hợp, dung hòa Nho giáo với khoa học phương Tây hiện đại. Trong bài viết này, Trần Trọng Kim thừa nhận về ý nghĩa khoa học hiện đại phương Tây ngày nay, xã hội phương Đông ngày xưa không có, nếu có cũng chỉ manh mún không rõ ràng. Về sau, dưới ảnh hưởng của Nho giáo, Trung Quốc, Việt Nam và các nước chịu ảnh hưởng tư tưởng Nho giáo đều thiên về mặt đạo đức, không quan tâm và bỏ qua khoa học, do vậy khoa học không phát triển. Hậu quả là ngày nay bị các nước phương Tây lợi dụng ưu thế khoa học xâm chiếm lấn lướt. Tuy nhiên, Trần Trọng Kim vẫn khẳng định Nho giáo không trái khoa học, bởi Nho giáo có mầm mồng tư tưởng “khoa học” :
“Bốn chữ “cách vật trí tri” của Khổng giáo tuy chưa phải là khoa học, nhưng chính là cái ý nghĩa khoa học. Những nhà học giả như Vương Dương Minh đem mấy chữ ấy cho vào tâm học, không phải là không có giá trị. Song vì ông chú ý về một mặt tâm học, cho nên ông mới nói như lời ông viết cho La Khâm Thuận. Nếu ta đem cái nhỡn giới triết học cao lên mấy độ nữa, thì ta biết cái học của họ Vương không phải là cái học tầm thường”[27].
“Khổng giáo sở dĩ không chú ý đến khoa học là vì lúc trước sự sinh hoạt của người ta không cần đến khoa học. Song xét kỹ ra cái tinh thần của Khổng giáo không trái với khoa học, bởi chưng Khổng giáo dạy người ta phải tùy thời mà biến đổi, miễn là đừng thiên lệch về một mặt nào thái quá là được”[28].
Về lối dùng “trực giác” của Nho giáo, Trần Trọng Kim cho rằng nó không những không trái khoa học mà còn chính là cái thần bí của các nhà khoa học hiện nay, bởi “nhờ có cái trực giác cho nên các nhà khoa học mới tìm ra những cái rất huyền bí và sáng tạo ra được nhiều cái rất tinh xảo”[29]. Vấn đề Khổng giáo nói cái “đương nhiên” mà không nói cái “sở dĩ nhiên”, là vì Khổng giáo không nhận có cái định lí, cho nên chỉ nói lẽ “đương nhiên”, còn cái “sở dĩ nhiên” thì mỗi thời một khác, học giả phải theo thời mà ứng biến : “ta ở đời nào ta phải lấy cái lẽ sở dĩ nhiên đời ấy, chứ đừng có thấy người ta làm sao mình bào hao làm vậy. Nếu người mình mà giữ cái thói ấy mãi, thì dẫu có theo khoa học cũng chẳng có ích gì, suốt đời chỉ đi nhặt những cái bã của người ta đã vứt ra mà thôi”[30]. Cái hay của đạo Khổng là ở chỗ “tùy thời”, việc gì hợp thời thuận lí đều theo được, cốt giữ sao cho sự việc được “điều hòa”, không “thiên lệch”. Theo lí ấy, ngày nay ta cần khoa học thì ta theo khoa học, nhưng không vì theo khoa học mà bỏ cái học đạo đức “tâm học” của Nho giáo, mà nên kết hợp và điều hòa “tâm” và “trí” với nhau. Việc kết hợp này là hợp thời thuận lí, không có gì khó khăn trở ngại : “Nay ta ở vào thời đại có khoa học và cần phải có khoa học, thì ta theo khoa học, nhưng theo khoa học mà không bỏ mất cái tâm học, thì tâm với trí có thể điều hòa được với nhau, có việc gì là việc trở ngại”[31].
Trần Trọng Kim cũng thanh minh với Phan Khôi, sở dĩ ông chủ trương kết hợp Nho giáo với khoa học, không phải vì thiên ái với Nho giáo, mà bởi Nho giáo vốn có cái hay cái đẹp cần kế thừa, cũng bởi Nho giáo vốn là tinh thần và là bản sắc của mình, cho nên đồng thời với việc học tập phương Tây để hiện đại hóa đất nước, ta phải làm sao để giữ được bản sắc của riêng mình. Có nghĩa, hiện đại hóa không phải là “Tây hóa hoàn toàn”, mà phải theo phương châm hiện đại hóa trên cơ sở kế thừa bản sắc truyến thống dân tộc : “cái gì của ta hay thì ta giữ lấy, cái gì ta không có thì ta đi học của người, làm thế nào cho ta lớn lên được mà ta vẫn là ta, chứ không lẫn với người”[32]. Tại sao phải thực hiện phương châm hiện đại hóa trên cơ sở kế thừa bản sắc truyến thống dân tộc? Là vì, theo Trần Trọng Kim nếu hiện đại hóa theo phương thức Tây hóa hoàn toàn như chủ trương học tập khoa học một cách cực đoan và vứt bỏ Nho giáo của Phan Khôi sẽ mang lại những hậu quả xấu. Trần Trọng Kim cho rằng, vì quá thiên về khoa học mà phương Tây đang phải gánh chịu những hậu quả nặng nề. Những cuộc chiến tranh động loạn, cuộc sống vật chất xô bồ và sự băng hoại giá trị đạo đức đã khiến người phương Tây chán nản khoa học. Họ đang tìm kiếm phương thức cải tạo, chữa trị những nhược điểm của xã hội phương Tây đương thời. Chúng ta đang chứng kiến sự vận động trái chiều của thế giới Đông Tây. Trong khi các nước phương Đông đua nhau vứt bỏ giá trị truyền thống của mình để chạy theo học khoa học phương Tây, những mong nhanh chóng cường thịnh như các nước phương Tây; trong khi đó các nước phương Tây lại chán nản khoa học bởi những hậu quả mà nó mang lại, họ đang hướng về phương Đông tìm kiếm phương thuốc chữa trị căn bệnh khủng hoảng đương thời. Rõ ràng, Trần Trọng Kim đã lưu ý Phan Khôi, Việt Nam sẽ phải gánh chịu hậu quả như thế nào, nếu bỏ nền đạo đức Nho giáo truyền thống, để học tập khoa học phương Tây một cách cực đoan. Do đó, chủ trương học tập khoa học phương Tây hiện đại, nhưng không bỏ đạo đức Nho giáo truyền thống, mà kết hợp chúng với nhau một cách “điều hòa” của Trần Trọng Kim là nhằm vừa tiếp nhận thành quả khoa học kĩ thuật phương Tây hiện đại, vừa tránh được những hậu quả xấu mà xã hội phương Tây đang phải đối mặt vì quá thiên về khoa học :
“ta nay thấy người cường thịnh, thì ai ai cũng háo hức theo người, biết đâu rằng cái cường thịnh ấy lại không có cái nguy cơ đã nằm sẵn đó rồi. Bởi vậy những người thức giả thường lấy làm lo. Tôi nói thế không phải là tôi bảo người mình không theo khoa học, nhưng tôi chỉ muốn người mình theo khoa học mà đừng bỏ mất cái tâm học của mình thì rồi mới có lợi được”[33].
Từ việc khẳng định ý nghĩa và giá trị hiện đại của Nho giáo, Trần Trọng Kim nhấn mạnh, trong quá trình hiện đại hóa đất nước, ngoài chủ trương học tập phương Tây những gì mình không có, chúng ta phải giữ gìn, phát huy tinh thần và bản sắc của riêng mình – tư tưởng luân lí đạo đức Nho giáo, sao cho khi ta phát triển nhưng vẫn giữ được tinh thần của mình, không bị Tây hóa hoàn toàn, không phủ định sạch trơn văn hóa truyền thống. Học tập phương Tây cần phải có chọn lọc, không phải cái gì cũng học theo, bởi không phải cái gì của phương Tây cũng hay và đều đáng học, có những cái cần học, nhưng có những cái không nên học. Trần Trọng Kim cũng lưu ý Phan Khôi, phương Tây đang đối mặt với những vấn đề xã hội nan giải, các nhà thức giả bên Tây đang phải tìm cách để chữa trị căn bệnh xã hội của họ. Vì vậy, chúng ta càng không nên mô phỏng hoàn toàn theo phương Tây, bởi như vậy ta sẽ lặp lại sai lầm của họ :
“tôi chắc Phan quân cũng biết rằng ngay ở bên Tây, những nhà thức giả có nhiều người cũng lấy cái cảnh tượng xã hội ngày nay làm lo, còn đi tìm tòi, xem có cách gì mà sửa đổi lại được không. Huống chi ta đây cũng là tai mắt, có đủ trí tuệ, ta há lại không làm ra được việc gì là riêng của ta, mà lại cứ nhất nhất phải chạy theo đuôi người ta làm gì”[34].
“trước kia tôi cũng như Phan quân, điều gì của ta, tôi cũng cho là dở, muốn bỏ đi cho hết, để đi lượm lặt của người về mà thay vào, sau dần dần tôi thấy những cái mình muốn lặt của người, lại là cái bã người ta nhai chán đã muốn nhả ra. Nếu mình lại chạy theo mà lượm lấy đem về làm của quý, thế chẳng hóa ra mình dại lắm ru!”[35].
Sự lo lắng về hiện trạng căn bệnh xã hội phương Tây đương thời do quá thiên về khoa học mà xem thường đạo đức nhân luân, là lí do khiến Trần Trọng Kim chủ trương học tập khoa học phương Tây phải được tiến hành trên cơ sở kế thừa tinh hoa văn hóa dân tộc – luân lí đạo đức Nho giáo. Tuy nhiên, Trần Trọng Kim cũng không khẳng định một chiều ưu điểm, cái hay, cái tốt cần kế thừa từ Nho giáo, ông cũng thừa nhận Nho giáo có những mặt khuyết điểm và hạn chế của nó. Có điều, theo ông sở dĩ Nho giáo có nhiều hạn chế và khuyết điểm là vì các nhà nho truyền thống và hiện đại không biết “tùy thời mà biến đổi”để lĩnh hội cái tinh thần và tinh túy của Nho giáo, cứ khư khư ôm lấy cái cặn bã hẩm nátcủa Nho giáo, đến khi Nho giáo suy tàn đổ nát, lạiquay ra đổ tội cho Nho giáo. Ông cho rằng, cần phải lĩnh hội, kế thừa tinh thần, tông chỉ của Nho giáo, đồng thời gạn lọc, vứt bỏ những điều cặn bã, lỗi thời của Nho giáo:
“xét ra tông giáo nào và học thuật nào cũng vậy, người sáng lập ra chỉ biết dạy mình cái tông chỉ mà thôi. Về sau cái hình thể cứ biến đi mãi, đến khi không biến được nữa là mất. Nho giáo sở dĩ đến mực này là vì ta không biết theo thời mà biến. Giả sử ta bỏ hết những cái vụn vặt cặn bã đi, những cái ấy có lẽ thích hợp với thời cổ mà không thích hợp với thời này nữa; rồi ta rút lấy cái tinh thần, gây nó lên cho mạnh mẽ, thì biết đâu ta lại không làm được việc rất đáng làm hay sao?”[36].
Cuộc tranh luận giữa Trần Trọng Kim và Phan Khôi được tiếp tục với bài hồi đáp của Phan Khôi có tiêu đề “Mời Trần Trọng Kim tiên sanh đi với Khổng tử Mạnh tử đến nhà M.Logique chơi, tại đó, chúng ta sẽ nói chuyện”[37]. Trong bài viết này, Phan Khôi tiếp tục khẳng định quan điểm Nho giáo có nhiều điểm trái với khoa học, bởi Nho giáo chỉ nói cái “đương nhiên” mà không nói cái “sở dĩ nhiên”. Ông cho rằng trong sách Luận ngữ, khi trả lời chất vấn của các học trò, rất nhiều lần Khổng tử chỉ nói cái kết quả mà không giải thích nguyên do tại sao phải như thế. Ví dụ đoạn Diệp công hỏi việc chính trị, Khổng tử đáp : “cận giả duyệt, viễn giả lai” (Luận ngữ - Tử lộ), đoạn này chỉ nói về kết quả, không nói nguyên nhân. Đó là chỗ Khổng giáo “trái với khoa học. Vì khoa học dạy người ta phải tìm đến cái lẽ sở dĩ nhiên”[38].
Phan Khôi cũng cho rằng Khổng tử và Mạnh tử trong khi biện luận về học vấn “thỉnh thoảng hay trái với luận lí học (論理學/lôgíc học). Điều đó là không hợp với sự học vấn ngày nay”[39]. Ví như, cách trả lời của Khổng tử với Mạnh Ý tử khi Mạnh Ý tử hỏi về “hiếu” trong thiên “Vi chính” sáchLuận ngữ; cách trả lời của Mạnh tử với Đào Ứng khi Đào Ứng hỏi Mạnh tử : giả thiết Thuấn làm thiên tử, Cao Dao làm quan toà, mà cha Thuấn là Cổ Tẩu giết người, thì Cao Dao phải làm như thế nào? (Mạnh tử - Tận tâm thượng); lại như cách biện luận của Mạnh tử với học trò Vạn Chương trong câu chuyện Vạn Chương hỏi Mạnh tử : “vua Nghiêu lấy thiên hạ cho vua Thuấn, có việc ấy không? (Mạnh tử - Vạn Chương thượng)”; hay nội dung Mạnh tử biện luận về thuyết “tịnh canh” của Hứa Hành (Mạnh tử - Đằng Văn công thượng)… đều vi phạm những nguyên tắc cơ bản của lôgíc học như “mậu vọng”, “độn từ”, “biến canh luận điểm”… cho nên cần phải bỏ hết.
Không chỉ thế, Phan Khôi còn cho rằng thuyết “minh đức tân dân” trong sách Đại học của Nho giáo cũng trái khoa học. Sách Đại học đưa ra “tam cưỡng lĩnh” và “bát điều mục” làm tôn chỉ cho việc tu thân và trị quốc, trong đó “minh đức” là tu thân, “tân dân” là trị quốc. Sách Đại học viết : “người quân tử chẳng ra khỏi nhà mà làm nên giáo hóa trong nước; chưa hề có ai học nuôi con rồi sau mới gả lấy chồng”. Đại ý nói rằng, người ta chỉ cần tu thân hoàn thiện, rồi lấy mình cảm hóa mọi người từ gần đến xa, từ nhà ra nước, để đạt mục tiêu tề gia, trị quốc và bình thiên hạ. Phan Khôi khẳng định, quan điểm này của sách Đại học trái khoa học, vì theo khoa học ngày nay, không có việc gì không học mà người ta có thể làm được, sao có thể nói chỉ cần “minh đức” là có thể “tân dân” được ngay, ông viết : “khoa học trọng chứng cứ và thiệt nghiệm. Cái thuyết “minh tân” chỉ là một cái lí tưởng cao siêu, chớ đem mà đối chiếu với lịch sử thì không thể chứng nghiệm là thiệt được”[40]. Vì trái khoa học, nên theo Phan Khôi, nếu đầu óc chúng ta còn bị ảnh hưởng bởi thuyết “minh đức tân dân”, thì không thể theo khoa học được, do vậy phải bỏ nó đi.
Nếu Trần Trọng Kim giải thích sở dĩ Nho giáo không chú ý đến khoa học vì thời xưa không cần khoa học, và viện vào hai chữ “tùy thời” để biện luận Khổng giáo không trái khoa học, thì Phan Khôi cũng căn cứ vào hai chữ “tùy thời” biện bác lại quan điểm của Trần Trọng Kim. Phan Khôi cho rằng, thuyết “minh đức tân dân” hợp với xã hội tông pháp thời Xuân thu, nhưng nó không phù hợp với xu hướng tự do bình đẳng ngày nay, cho nên phải bỏ nó đi, “sự biến đổi ấy chẳng qua là tuỳ thời, chẳng có gì lạ hết, cũng như hồi Xuân Thu, con gái không học nuôi con, cứ việc gả lấy chồng; còn đời nay, trước khi lấy chồng, các cô phải học nuôi con đã”[41]. Nếu Trần Trọng Kim chủ trương kết hợp Nho giáo với khoa học hiện đại phương Tây, thì Phan Khôi chỉ chấp nhận giữ lại những phần của Nho giáo theo ông còn phù hợp với thời đại ngày nay, những phần không phù hợp đều bỏ hết. Cụ thể với thuyết “minh đức tân dân”của sách Đại học, Phan Khôi chỉ giữ lại phần “tu thân” (chính tâm, thành ý) và bỏ hết phần “trị quốc, bình thiên hạ”, vì theo ông quan điểm chỉ cần “tu thân” là có thể “trị quốc, bình thiên hạ”, hay cứ “minh” được “đức” là có thể “tân dân” là trái khoa học ngày nay.
Trong khi Trần Trọng Kim chủ trương kết hợp, dung hòa luân lí đạo đức Nho giáo với khoa học hiện đại phương Tây, nhằm tránh những hậu quả xấu mà các nước phương Tây đang phải đối mặt do theo đuổi khoa học cực đoan, thì Phan Khôi lại cho rằng sự lo lắng của Trần Trọng Kim là thừa và không cần thiết. Phan Khôi nhấn mạnh, việc một số người chán nản khoa học ở các nước Âu Mĩ là có thực, nhưng đó chỉ là số rất ít, vả lại “cũng tại họ đã thừa rồi họ mới chán nản; còn mình chưa có mà lại cần có, thì thế nào cũng phải đeo đuổi theo mới đặng”[42], không thể thấy người ta chán mà mình cũng chán theo được.
Sau bài phản hồi này của Phan Khôi, Trần Trọng Kim viết bài “Mời Phan Khôi tiên sanh trở về nhà học của ta mà nói chuyện”[43]tiếp tục tranh luận vấn đề Nho giáo với khoa học. Trong bài viết này, Trần Trọng Kim vẫn giữ quan điểm Nho giáo có mầm mống tư tưởng “khoa học”, Nho giáo có ý nghĩa khoa học, Nho giáo mâu thuẫn xung đột với khoa học, cần kết hợp và dung hòa Nho giáo với khoa học. Ông thanh minh lại một lần nữa rằng, ông không phản đối việc học tập khoa học phương Tây, vì học tập khoa học là xu hướng chung của nhân loại, không có khoa học đất nước không thể phát triển hùng cường. Khoa học đương nhiên có cái lợi của nó, nhưng nếu thiên về khoa học thái quá lại hoá dở, cái dở do quá thiên về khoa học biểu hiện rõ ở sự chán nản khoa học của nhiều người thức giả bên Tây hiện nay. Do vậy, ngoài khoa học (phần vật chất), cuộc sống con người cần phải có cái “tâm” (tâm học Nho giáo – tinh thần), vậy nên bên cạnh việc học khoa học của người, ta phải lấy cái “tâm” của ta làm gốc, làm cơ sở nền tảng cho việc học tập khoa học. Chỉ như vậy sự học tập và tiến hoá của ta mới có ý nghĩa, có gốc, bền vững và giữ được bản sắc của ta : “ta tiến hoá như thế thì ta không bỏ mất cái đặc tính của ta, mà những sự tiến hoá của ta lại có nghĩa lí và chắc chắn, không đến nỗi hồ đồ hỗn độn, không biết gốc ở đâu, ngọn ở đâu”[44]. Xã hội nào cũng cần khoa học và tâm học, theo khoa học là cần thiết, nhưng không thể bỏ tâm học, mà phải lấy tâm học Nho giáo làm nền tảng, bởi “Nho giáo là tinh thần văn hoá của dân tộc ta”. Khoa học giúp ta phát triển trí tuệ và vật chất, tâm học Nho giáo giúp ta tu thân xử thế về phương diện luân lí đạo đức. Sự kết hợp hài hoà giữa khoa học và tâm học giúp tinh thần chúng ta phát triển mạnh mẽ, hài hoà và không thiên lệch.Vì thế “cho nên tôi cố sức muốn duy trì cái nền Khổng giáo, mong rằng người mình đừng có thiên về một mặt khoa học hay là một mặt tâm học mà rồi thành ra chếch lệch, có thể hại cho tinh thần, bởi tôi sợ như lời một nhà văn sĩ bên Tây nói rằng : “có khoa học mà không có lương tâm, chỉ là cái hại cho tinh thần”. Nếu cái tinh thần đã hèn yếu thì còn tiến hoá làm sao được”[45]. Trần Trọng Kim nhấn mạnh, việc chúng ta kế thừa, giữ gìn và phát huy tâm học Nho giáo cũng giống như các nước phương Tây bên cạnh phát triển khoa học, họ vẫn giữ nền tôn giáo Cơ đốc giáo làm gốc.
Cũng như Phan Khôi, Trần Trọng Kim thừa nhận những người chán nản khoa học bên Tây chỉ là số ít, tuy nhiên ông lại cho rằng những tư tưởng cao siêu xuất chúng thường hay nằm ở đám người số ít, còn số đông chỉ biết cái thiển cận trước mắt. Đa phần mọi người đều thích sự tiện nghi của khoa học, nhưng cũng có người không coi đó là cái sinh thú ở đời, “như Phan tiên sinh thì cho người ấy là người quái lạ, biết đâu người ấy lại không cho mình là lũ cuồng dại. Xét cho cùng kì lí, thì đã chắc là ai phải; người ấy hay là bọn ta đây?”[46].
Về những điểm Phan Khôi phê bình Nho giáo trái với khoa học, tuy đồng ý với Phan Khôi ngày nay ta chỉ nên giữ lại phần “tu thân” của Khổng giáo và loại bỏ tất cả những điều Khổng giáo trái với khoa học, nhưng Trần Trọng Kim lại không tán thành những dẫn chứng cho Nho giáo trái khoa học của Phan Khôi. Chẳng hạn Trần Trọng Kim không thừa nhận quan điểm của Phan Khôi cho “cái vẻ huyền học của Khổng giáo trái với khoa học”, thuyết “minh đức tân dân” của Nho giáo chỉ là một ý tưởng cao siêu, không thể chứng nghiệm được, nó trái với khoa học, cản trở khoa học. Theo Trần Trọng Kim, nghĩa rộng của “khoa học hiện đại” là chỉ toàn bộ tri thức của nhân loại, “có lí quán thông và có phương pháp mà lập thành hệ thống”[47]. Nghĩa hẹp của khoa học là chỉ những môn khoa học cụ thể như Vật lí, Hoá học… Theo nghĩa rộng của khoa học, thì “Khổng giáo là một khoa triết học có lí quán nhất, có phương pháp và có thống hệ, tức là nó vẫn hợp với khoa học”[48]. Hệ thống của Khổng giáo là “thiên địa vạn vật nhất thể”, phương pháp của Khổng giáo lấy “trực giác” làm chủ.
Trần Trọng Kim cho rằng về đại thể, triết học phương Tây hiện đại có hai phương pháp, một là phương pháp Chứng luận : lấy cái định nghĩa hoặc cái “Lí” tiên thiên làm tiền đề căn bản, sau đó lấy “Lí” đó chứng luận các quan niệm khác, sao cho các quan niệm khác phù hợp với cái “Lí” ban đầu. Phương pháp này chỉ suy xét theo thuần lí; hai là phương pháp Thực nghiệm : lấy quan sát, thực nghiệm làm căn bản. Theo Trần Trọng Kim, xét nội dung và nghĩa lí, Khổng giáo là khoa triết học theo phương pháp triết học thứ nhất (chứng luận) của phương Tây. Khổng giáo theo chủ nghĩa “thiên địa vạn vật nhất thể”, “lấy cái định nghĩa tiên thiên đích làm gốc”[49]. Đã là thiên địa vạn vật cùng “đồng một thể”, thì đạo “Nhân” 仁trong tâm con người cũng đồng nhất với đạo “Nhân” của trời đất và vạn vật, tạo thành đạo “Nhân” của nhất thể. Đạo “Nhân” là cái chiêu minh linh giác, trong sáng thuần thiện do trời phú cho con người, nó tồn tại trong tâm con người, gọi là “minh đức” (cái đức sáng trong tâm). Nếu ta để tư tâm, tư dục che lấp cái đức sáng, làm mờ đạo “Nhân”, sẽ làm mất sự “nhất thể” của đạo “Nhân” giữa lòng ta với thiên địa vạn vật, khi đó ta thành kẻ tiểu nhân hèn hạ chỉ biết tư tâm tư dục mà quên nhân nghĩa đạo đức. Cho nên, nhiệm vụ của con người là tu dưỡng, rèn luyện, loại bỏ lòng dục, làm sáng cái đức sáng trong tâm, để đạt trạng thái “nhất thể” của đạo “Nhân” trong tâm ta với đạo “Nhân” của trời đất vạn vật, và trở thành bậc chính nhân quân tử. Đó là cái học của bậc đại nhân trong Nho giáo. Khi cái “đức” trong ta đã sáng, ta tất có lòng “thân dân”, bởi vì : “làm cho sáng cái minh đức là lập thành cái “thể” của “thiên địa vạn vật nhất thể”, thân dân là đạt được cái “dụng” của “thiên địa vạn vật nhất thể”. Cho nên “minh minh đức” là ở sự “thân dân” mà sự “thân dân” là để làm cho sáng cái minh đức”[50]. Sau khi cái “đức” của ta đã “minh”, ta thân với cha ta, cha người và cha thiên hạ, để lòng Nhân của ta nhất thể với lòng Nhân của cha ta, cha người và cha thiên hạ. Chỉ có nhất thể như thế, cái “minh đức” của đạo “hiếu” mới sáng rõ ở khắp nơi. Đạo quân thần, bằng hữu, phu phụ cũng tương tự như vậy. Chỉ khi ta nhất thể với thiên địa vạn vật, cái “minh đức” của đạo phụ tử, quân thần, bằng hữu, phu phụ trong ta mới sáng rõ ra toàn thiên hạ. Bởi vậy mới nói làm sáng cái đức sáng là có thể tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ. Ba cương lĩnh trong sách Đại học là “minh minh đức”, “thân dân” và “chỉ ư chí thiện”. “Minh minh đức” là tu dưỡng bản thân mình, “thân dân” là đối với người, “chỉ ư chí thiện” là kết quả vẹn toàn của “minh minh đức” và “thân dân”, đối với mình hay đối người đều phải đạt trạng thái bản nhiên “chí thiện” mà trời vốn phú cho ta. Trần Trọng Kim khẳng định, thuyết “minh minh đức, thân dân” của sách Đại học bắt đầu từ tu dưỡng bản thân rồi quán thông ra toàn thiên hạ, ý nghĩa rõ ràng và xuyên suốt từ gốc đến ngọn, “thực là rất hợp với phương pháp chứng luận của Tây”[51].
Cần lưu ý, ở đây Trần Trọng Kim không dùng chữ “tân dân” mà dùng chữ “thân dân”, vì theoTrần Trọng Kim chữ “thân dân” là văn bản gốc, còn chữ “tân dân” là do Trình Di và Chu Hi sửa lại. Hơn nữa chỉ có chữ “thân dân” mới thông nghĩa trong văn bản và hợp tư tưởng Khổng giáo, còn chữ “tân dân” không thông với văn bản và không hợp tư tưởng Khổng giáo. Đó cũng là lí do Trần Trọng Kim phê bình Phan Khôi đã không suy xét kĩ nguồn gốc văn bản thời xưa, cứ theo lí giải của Trình Chu nên mới hiểu “tân dân” là lấy mình cảm hoá mọi người trong thiên hạ. Cũng vì sai lầm đó mà Phan Khôi cho thuyết “minh đức tân dân” của Nho giáo trái với khoa học. Trần Trọng Kim trách Phan Khôi : “giá tiên sinh (Phan Khôi – NTĐ) bẻ lỗi ông Trình ông Chu thì phải, chứ đem đổ lỗi ấy cho Khổng giáo thì thật là tiên sinh lầm”[52].
Trần Trọng Kim cũng cho rằng việc Phan Khôi trích dẫn đoạn “người quân tử chẳng ra khỏi nhà mà làm nên giáo hóa trong nước; chưa hề có ai học nuôi con rồi sau mới gả lấy chồng”trong sách Đại học và cho nó trái với khoa học cũng không đúng. Theo giải thích của Trần Trọng Kim, ý đoạn này nói người ta khi hoàn thành việc tu thân – làm sáng cái đức sáng thì trở thành người quân tử. Người quân tử biết lấy đạo “hiếu” thờ cha thì biết thờ vua; biết lấy “đễ” coi trọng anh mình, thì biết thờ bậc tôn trưởng trong nước; biết lấy lòng nhân ái, từ thiện đối đãi với người trong nhà, thì biết sai khiến dân chúng trong nước. Ý nói người quân tử lấy “hiếu”, “đễ”, “từ” đối đãi với người trong nhà, thì có thể sai khiến dân chúng trong nước, vì về mặt đạo đức, Nho giáo xem sự tu dưỡng của bản thân, sự giáo hoá của một nhà và một nước đều bắt nguồn từ “hiếu”, “đễ”, “từ”. Do đó, sự giáo hoá trong nhà mà thành thì sự giáo hoá trong nước cũng đạt, bởi Nho giáo theo thuyết “nhất thể” nên người một nhà và người một nước đều theo một đạo giáo hoá như nhau. Cho nên mới nói “người quân tử không rakhỏi nhà,mà làm nênsựgiáo hóa trong nước”. Còn câu “chưa hề có ai học nuôi con rồi sau mới gả chồng”là câu trích từ thiên “Khang cáo” 康告trong kinh Thư書經để nói rõ kết quả của việc trị quốc, bình thiên hạ của sách Đại học. Ý câu này khớp với đoạn “như nuôi con đỏ, lòng tinh thành tìm đó, tuy không trúng nhưng cũng không sai mấy” trong thiên “Khang cáo”, ý nói người làm chính trị phải giống như người mẹ nuôi con đỏ mới sinh. Mẹ nuôi con với tấm lòng tinh thành và sự yêu mến rất mực của mình, nên cho dù con nhỏ không nói ra ý thích của nó, người mẹ vẫn có thể hiểu được. Người làm chính trị phải yêu mến dân như con đỏ, phải lấy tâm bản nhiên tinh thành thuần thiện do trời phú cho mình để hiểu dân, thì mình tự biết dân muốn gì. Tâm tinh thành và lòng thiện của người làm chính trị với dân chúng có sẵn trong lòng, không cần học mà có, nó giống như tình yêu tự nhiên của người mẹ với con đỏ, không cần phải học rồi mới biết yêu con. Ý nghĩa câu đó là như thế, “chứ không phải như Phan tiên sinh đã hiểu : “chưa học nuôi con” là chưa học cách nuôi con như ta thường hiểu ngày nay. Bởi tiên sinh hiểu như thế, cho nên mới nói là trái với khoa học”[53]. Trần Trọng Kim trách Phan Khôi không hiểu ý nghĩa tinh vi của triết học, phán đoán vội vàng, nên đã hiểu sai ý nghĩa thuyết “minh minh đức, thân dân, chỉ ư chí thiện” – một tư tưởng trọng yếu của Nho giáo, đã vậy Phan Khôi lại lấy sự hiểu sai của mình chỉnh sửa lại nghĩa đúng của sách Đại học. Vì thế, Trần Trọng Kim khẳng định thuyết “minh minh đức, thân dân” không trái khoa học, sở dĩ nó bị xem là trái khoa học, là do Phan Khôi thiếu thận trọng trong suy xét ý nghĩa tư tưởng Nho giáo tạo thành. Phan Khôi mới chính là người trái khoa học, trái lôgíc. Nếu Phan Khôi cho thuyết “minh minh đức, thân dân” không chứng nghiệm được trong thực tế, thì Trần Trọng Kim lí luận rằng : “vậy chứ tiên sinh (Phan Khôi – NTĐ) đã thấy có mấy cái lí thuyết triết học đúng hẳn với sự thực nghiệm chưa? Khi ta xét một khoa triết học thuần lí thì ta phải xét xem nó có đúng với cái lí mà đã nhận làm chuẩn đích hay không. Nếu có đúng là hợp khoa học rồi; chứ lại lấy cái triết học thực nghiệm mà xét cái triết học thuần lí, thì xét sao được, bởi vì mỗi bên theo một phương pháp khác nhau, thì không có thể lấy cái nọ mà xét cái kia được. Nếu lại muốn rằng các lí thuyết của triết học phải đúng với sự thực nghiệm, thì tôi tưởng không còn gì là triết học nữa. Vậy nói rằng cái thuyết “minh minh đức, thân dân” không đúng khoa học là tôi không chịu, vì những nghĩa của tiên sinh hiểu đều sai cả”[54].
Về việc Phan Khôi trích dẫn đoạn vấn đáp về chính trị giữa Diệp công với Khổng tử, rồi cho rằng Khổng giáo chỉ nói cái “đương nhiên” mà không nói cái “sở dĩ nhiên” là trái khoa học, Trần Trọng Kim hồi đáp như sau. Theo Trần Trọng Kim, Luận ngữ là sách ghi lại những đoạn đối đáp ngắn gọn, súc tích giữa Khổng tử và các học trò, sách có nhiều đoạn ý nghĩa sâu xa, hàm súc, phải nghĩ lâu mới hiểu hết và thấy hay. Luận ngữ không phải sách giảng dạy về một điều cụ thể nào, nên không thể đòi hỏi câu trả lời đầy đủ, có đầu có cuối. Hơn nữa, phương pháp dạy của Khổng tử là “đối chứng lập phương” (tuỳ theo đối tượng học mà có những cách dạy khác nhau) và “cử nhất ngung” (nói cho người học biết một điều, người học tự tìm biết những điều còn lại), vậy nên đọc sách Luận ngữ phải hiểu ý ở ngoài lời, phải lấy ý mà hiểu, “bất dĩ từ hại ý”. Ở đây, Diệp công hỏi phương pháp trị nước, Khổng tử trả lời “cận giả duyệt, viễn giả lai”(người ở gần vui vẻ yêu mến, người ở xa ngưỡng mộ tìm đến). Đó là cái kết quả (cái đương nhiên). Sở dĩ trả lời như vậy, vì Khổng tử biết Diệp công trị nước bằng sức mạnh vũ lực, không hiểu gốc của việc chính trị ở chỗ được lòng người. Diệp công nghe xong không hỏi lại, là vì biết Khổng tử chê chính sách trị dân bằng vũ lực của mình. Còn cái “sở dĩ nhiên” như thế nào? Là Khổng tử muốn Diệp công bỏ chính sách vũ lực và dùng chính sách nhân chính để thu phục lòng người. Ý đoạn này tuy hơi khó một chút, nhưng đó chính là cách dạy “cử nhất ngung” của Khổng tử. Nếu Phan tiên sinh cho đoạn này trong sách Luận ngữ trái khoa học, vì chỉ nói “quả” mà không nói “nhân”, và đòi hỏi tất cả các đoạn đối đáp trong sách Luận ngữ hễ nói quả thì phải nói nhân, “thì ngay trong Tây học, những sách như “Les Pensées” của Pascal, hay là Le jardin d’Epicure của Anatole France có nhiều chỗ lại khó hơn những lời của Khổng tử, tất phải bỏ đi hết”[55]. Giảng dạy có nhiều phương pháp, có phương pháp nói rõ ràng mọi lẽ, nghe qua là hiểu, có phương pháp chỉ nói điều cốt yếu, người nghe phải suy nghĩ để hiểu, mỗi người theo một phương pháp khác nhau, miễn sao hợp lí là được. Khoa học cũng vậy, cũng có nhiều phương pháp, chứ đâu phải chỉ theo một phương pháp nhất định nào, “nay Phan tiên sinh chỉ dùng một phương pháp muốn điều gì đã nói cái lẽ đương nhiên là phải nói cái lẽ sở dĩ nhiên, và bắt bao nhiêu học thuyết cũng như thế cả thì thật là tiên sinh có một cách hiểu sự học vấn rất lạ, xưa nay chưa ai nghĩ đến!”[56].
Nếu Phan Khôi áp dụng nguyên tắc luận lí học (lôgíc học) làm thước đo, tiêu chuẩn để phân tích, bình luận, đánh giá sự đúng sai các đoạn đối đáp giữa Khổng tử, Mạnh tử với học trò trong sách Luận ngữ và Mạnh tử, rồi kết luận cách giảng giải và lập giáo của Khổng tử và Mạnh tử thường trái với nguyên tắc cở bản của lôgíc học, thì Trần Trọng Kim lại thông qua phân tích, luận giải ý nghĩa, tính chất và đặc điểm của triết học Nho giáo để phủ định quan điểm của Phan Khôi.
Về luận lí học của Nho giáo, Trần Trọng Kim cho rằng Khổng giáo là một khoa triết học, xét kĩ triết học Khổng giáo, ta thấy triết học Khổng giáo cũng bao gồm bốn bộ phận như triết học phương Tây, tức : tâm lí học, luận lí học, siêu vật học (siêu hình học/hình nhi thượng học) và luân lí học. Trong đó, triết học Nho giáo nổi bật ở phần siêu vật học và luân lí học, còn luận lí học và tâm lí học mờ nhạt hơn. Về sau tâm lí học được Mạnh tử kế thừa và phát triển, còn luận lí học do Khổng tử đề xướng ban đầu là thuyết “chính danh” trongLuận ngữ được Tuân tử kế thừa và phát triển. Sở dĩ Khổng tử không dùng phương pháp luận lí học chuyên dùng “lí trí” suy luận như phương Tây, vì Khổng tử “chủ lấy “trực giác” của tâm làm cái biết nhanh hơn và rõ hơn”[57]làm công cụ nhận thức. “Trực giác” của tâm bao gồm “lí trí”, nhưng “trực giác” là chủ yếu và mang tính chủ động, “lí trí” chỉ là phần thứ yếu. Cho nên, khi xem xét, tìm hiểu nghĩa lí của sự vật, nếu ta chỉ dùng đơn độc mỗi “lí trí”, thì rất khó hiểu được chân lí của sự vật, bởi “lí trí” là phần thứ yếu và không được chắc chắn và đầy đủ. Tương tự như vậy, khi ta tìm hiểu nghĩa lí học thuyết Khổng giáo, ta phải vượt ra ngoài vòng của “lí trí”, dùng “hư tâm” lĩnh hội mới thấy rõ và hiểu thấu nghĩa lí tư tưởng Khổng giáo. Chính vì thế, phương pháp luận lí học của Khổng tử còn hay và sâu sắc hơn luận lí học “lí trí” đơn thuần của phương Tây : “cái phép luận lí học của Khổng giáo vẫn hợp lí mà lại có phần sâu xa hơn, nhưng chỉ vì khó lắm, ít người theo được. Song nó cũng là một phương pháp”[58]. Phương pháp luận lí học coi trọng “trực giác” của tâm và xem nhẹ “lí trí” của Khổng tử khác với luận lí học “lí trí” phương Tây, nhưng lại rất giống với phương pháp luận lí học của một số triết gia đương đại phương Tây : “những nhà triết học như ông Boutroux bên nước Pháp nói rằng : “cái lí trí của ta là cái để cho các giác quan và cái tưởng tượng của ta sai khiến, những cái ấy là cái quyền lực lưu đãng và giả trá; mà lí trí thì uốn ra mặt nào cũng được. Cả là quân thượng, cả là nô lệ, ấy là cái lí trí của ta vậy”. Chính nhà đại triết học nước Pháp là Pascal cũng nói phải lấy tâm mới biết rõ các nguyên lí, là bởi “cái tâm có những lẽ của nó, mà lí trí không biết được””[59]. Từ dẫn chứng này, Trần Trọng Kim kết luận : “vậy xét những việc sâu xa mà chỉ dùng lí trí là không đủ, cần phải có tâm nữa, cho nên cái phương pháp dùng trực giác (của Nho giáo – NTĐ), dẫu Phan tiên sinh có tin hay không mặc lòng, vẫn là cái phương pháp rất có giá trị trong khoa học”[60]. Điều đó có nghĩa, theo Trần Trọng Kim, sở dĩ Phan Khôi cho Khổng, Mạnh trái với luận lí học phương Tây, vì Phan Khôi không hiểu phương pháp luận lí học của Khổng giáo cũng chính là một phương pháp rất có giá trị trong khoa học.
Từ quan điểm về luận lí học của Khổng giáo nêu trên, Trần Trọng Kim đi vào phân tích, biện luận và phản biện các trường hợp cụ thể mà Phan Khôi nêu ra và cho rằng Khổng giáo trái với khoa học.
Về đoạn đối đáp giữa Khổng tử với Mạnh Ý tử về đạo “hiếu” (Luận ngữ - Vi chính), nếu Phan Khôi cho cách trả lời của Khổng tử với Mạnh Ý tử là cách nói “mô lăng” (Amphibologie) và “mậu vọng” (dối trá, huyễn hoặc), thì Trần Trọng Kim lại có cách nhìn ngược lại. Theo Trần Trọng Kim, Khổng tử trả lời như thế, vì lối dạy của Ngài là “đối chứng lập phương”, “cử nhất ngung” và “tuần tuần thiện dụ” (chỉ dẫn lần lượt từng bước), phương pháp ấy vẫn “hợp với phép luận lí”[61]. Sở dĩ Phan Khôi cho cách trả lời của Khổng tử trong đoạn đối thoại này trái với lôgíc học hiện đại, vì Phan Khôi “chỉ nệ về một phép luận lí, mà chưa hiểu hết lí đó mà thôi. Như thế là một điều rất nên cẩn thận trong sự học vấn”[62]. Nếu Phan Khôi cho rằng cách trả lời của Mạnh tử với Đào Ứng trong đoạn đối đáp khi Đào Ứng hỏi : “giả thiết rằng Thuấn làm thiên tử, Cao Dao làm quan toà, mà cha Thuấn là Cổ Tẩu giết người, thì Cao Dao phải làm như thế nào? (Mạnh tử - Tận tâm thượng)” trái với nguyên tắc giả ngôn suy lí (tam đoạn luận) và “độn từ” trong lôgíc học, cho nên phải xoá bỏ đi, thì Trần Trọng Kim hồi đáp rằng cả câu hỏi và câu trả lời của đoạn vấn đáp này đều rõ ràng mà Phan tiên sinh lại cho là trái lôgíc và không thành lập thì “tôi không hiểu cái phép luận lí của tiên sinh. Có lẽ vì cô Logique có nhan sắc làm cho tiên sinh quẫn chăng”[63]. Hơn nữa, đây là câu chuyện giả định để dạy người ta về đạo lí, giàu ý nghĩa giáo dục, “thế mà Phan tiên sinh lại nói nên bỏ đi, thì thật tôi không biết cái học của tiên sinh thế nào, mà có những ý kiến lạ như vậy”[64].
Về đoạn vấn đáp giữa Mạnh tử với Vạn Chương khi Vạn Chương hỏi : “vua Nghiêu lấy thiên hạ cho vua Thuấn, có việc ấy không? (Mạnh tử - Vạn Chương thượng)”, nếu Phan Khôi cho cách trả lời của Mạnh tử phạm lỗi “biến canh luận điểm” trong lôgíc học, thì Trần Trọng Kim cho rằng ở đoạn đối đáp này, câu trả lời khớp với câu hỏi, không có gì là “biến canh luận điểm” cả, vậy mà “theo phép luận lí của tiên sinh (Phan Khôi – NTĐ) thì các câu trả lời ấy lại phạm vào cái luật “biến canh luận điểm”. Lạ thật, câu hỏi có chữ “hữu chư” nghĩa là “có không”, hay là “việc ấy có không”; câu trả lời rằng “phủ” nghĩa là “không”. Phan tiên sinh luận lí quanh quẩn thế nào mà rồi lại nói : “theo đúng luận lí học thì chỗ này Mạnh tử phải trả lời việc ấy là có hay không cái đã, rồi nói gì hãy nói”. Vậy thì tiên sinh bảo chữ “phủ” trong câu trả lời của Mạnh tử nghĩa là gì? Trước tiên sinh bẻ Mạnh tử là phạm phép luận lí, thế thì bây giờ người ta bẻ tiên sinh phạm vào phép gì trong luận lí học?”[65]. Đây là một chương có ý nghĩa sâu xa, vậy mà Phan tiên sinh cho là “mậu vọng” và “biến canh luận điểm”, tôi cho rằng “có lẽ là Phan tiên sinh giỏi khoa luận lí, có những ý kiến cao xa, tôi xin thú thật là không hiểu được lời tiên sinh bàn”[66].
Về đoạn đối đáp giữa Mạnh tử với Trần Tương về thuyết “tịnh canh” của Hứa Hành, nếu Phan Khôi cho cách trả lời của Mạnh tử là “mậu vọng”, “xiên xỏ”, “cưỡng biện”, thì Trần Trọng Kim lại có quan điểm ngược lại. Sau khi phân tích ý nghĩa chương này, Trần Trọng Kim cho rằng Phan Khôi chỉ căn cứ vào văn từ mà bỏ mất tinh thần nghĩa lí, nên không hiểu đạo thánh hiền, mà còn cho nó trái với luận lí học. Cái học Nho giáo cốt ở tinh thần, người học phải xem xét kĩ càng để hiểu hết nghĩa lí, các ý nghĩa hợp nhau mà chữ nghĩa không rõ, rời rạc, lỏng lẻo, hoặc sai, cũng không câu nệ văn từ và “bất dĩ từ hại ý”, phải lấy ý mà hội mới hiểu thấu những lời của Khổng Mạnh. Trần Trọng Kim nhấn mạnh, phương pháp luận lí học hiện đại phương Tây rất cần cho tri thức của chúng ta, nhưng nếu chỉ căn cứ vào luận lí học, không đủ giúp chúng ta hiểu đến chỗ tinh vi, thâm viễn của chân lí được. Do đó, trong khám phá chân lí, bên cạnh luận lí học của “lí trí”, ta còn cần phải có “trực giác” của “tâm”, bởi vậy “ngay trong Tây học, người hiền triết như Pascal đã nói : “ta biết cái chân lí, không những là bởi lí trí, mà còn bởi cái tâm nữa”. Vậy cái biết của tâm cũng cần lắm, cho nên Nho giáo chú trọng ở sự giữ cho cái tâm hư và tĩnh, không để nó bị bế tắc chỗ nào, thì mới “tinh nghĩa nhập thần” và mới biết rõ những điều cao xa. Nên chi ta phải chú ý vào trực giác, là cái biết rất nhanh, rất sáng của tâm. Nhờ có trực giác thì ta mới đạt được cái chân lí, thường hay ẩn khuất khó biết rõ được”[67]. Trần Trọng Kim chê Phan Khôi quá thiên về lí trí, muốn chuyên dùng qui thức của luận lí học phương Tây làm tiêu chuẩn để khuôn đúc, đo đếm, soi xét, đánh giá, phán xét tư tưởng Nho giáo, mà bỏ quên cái “tâm” và những nghĩa lí sâu xa, uyên áo của đạo thánh hiền. Điều đó khiến sự hiểu biết của Phan Khôi về nghĩa lí đạo thánh hiền trở nên nông cạn và sai lầm : “cái học của thánh hiền có nhiều điều tinh vi, hễ ta vô ý, sai mất một hào li là lầm đến nghìn dặm. Nếu ta không thận trọng, không đem cái tâm công chính hư tĩnh mà cân nhắc điều phải điều trái, thì thành ra ta làm hại đạo, và lại làm thiệt thòi cho học vấn”[68].
Tóm lại, qua trình bày, phân tích và biện luận nội dung, đặc điểm tư tưởng học thuyết Khổng giáo, nhất là phương pháp luận lí học coi trọng “trực giác” xem nhẹ “lí trí” đặc thù của Khổng giáo, Trần Trọng Kim đã phản biện lại mọi quan điểm cho Nho giáo trái với khoa học của Phan Khôi, đồng thời Trần Trọng Kim nhiều lần khẳng định tư tưởng Nho giáo không những không trái khoa học phương Tây hiện đại, mà ở một số điểm như phương pháp luận lí học coi trọng “trực giác”, Nho giáo còn tỏ ra ưu việt hơn luận lí học lí trí phương Tây.
Sau bài phản hồi này của Trần Trọng Kim, không thấy Phan Khôi tiếp tục viết bài tranh luận. Cuộc tranh luận giữa Trần Trọng Kim và Phan Khôi về ý nghĩa “khoa học” của cụm từ “cách vật trí tri” trong học thuyết Nho giáo, về khả năng kết hợp và dung hòa Nho giáo với khoa học hiện đại phương Tây kết thúc mà không có kết quả ngã ngũ, bởi hai bên đều khăng khăng bảo vệ quan điểm của mình. Trần Trọng Kim khẳng định Nho giáo có mầm mống tư tưởng “khoa học”, Nho giáo không mâu thuẫn, xung khắc với khoa học hiện đại, hoàn toàn có thể kết hợp chúng với nhau, Phan Khôi lại phủ nhận ý nghĩa hiện đại tư tưởng “khoa học” Nho giáo, khẳng định Nho giáo trái khoa học, không thể kết hợp, dung hòa chúng với nhau. Cuộc tranh luận cho thấy cách thức lựa chọn phương thức hiện đại hóa khác nhau giữa Phan Khôi và Trần Trọng Kim, trong khi Trần Trọng Kim chủ trương hiện đại hóa bằng phương thức kế thừa, phát huy, kết hợp, dung hòa truyền thống với hiện đại – kết hợp Nho giáo với khoa học hiện đại phương Tây, Phan Khôi lại chủ trương phủ định truyền thống để thực hiện Tây hóa hoàn toàn. Sự khác biệt và đối lập trong cách lí giải tư tưởng “khoa học” Nho giáo, khả năng kết hợp, dung hòa Nho giáo với khoa học hiện đại giữa Trần Trọng Kim và Phan Khôi cũng cho thấy sự khác biệt về quan niệm, cách nhìn và phương pháp tư tưởng giữa hai trường phái triết học thực chứng, lôgíc (trường phái triết học Lí tính phương Tây) và trường phái triết học “thuần lí” theo cách nói của Trần Trọng Kim (triết học Nho giáo và trường phái triết học Phi lí tính phương Tây). Nhìn nhận vấn đề từ hai quan điểm khác biệt này, có thể thấy những luận giải về sự mẫu thuẫn, xung khắc giữa Nho giáo với khoa học hiện đại và những phê bình của Phan Khôi với quan điểm Trần Trọng Kim không phải không có lí. Tuy nhiên, những luận giải về mầm mống tư tưởng “khoa học” Nho giáo, về khả năng kết hợp, dung hòa Nho giáo với khoa học hiện đại, cùng những phản biện, phê bình của Trần Trọng Kim với Phan Khôi cũng không hoàn toàn vô lí.
3. Tương đồng và khác biệt về nội dung và thao tác hiện đại hóa tư tưởng Nho giáo về mặt “khoa học” giữa Trần Trọng Kim và Tân Nho gia hiện đại Trung Quốc
Như phần đầu đã nói, “dân chủ” và “khoa học” theo nghĩa phương Tây cận hiện đại là cái thiếu của văn hoá truyền thống Trung Quốc và các nước Đông Á có truyền thống Nho giáo, nhưng lại là tiêu chuẩn cơ bản của hiện đại hoá, vì thế nội dung chủ yếu của “hiện đại hóa” là tiếp nhận và xây dựng thể chế chính trị dân chủ và nền khoa học hiện đại phương Tây. Với Tân Nho gia hiện đại Trung Quốc và những người theo Khuynh hướng truyền thống ở Việt Nam, cách thức cụ thể là hiện đại hóa tư tưởng Nho giáo về mặt “dân chủ” và “khoa học”/cấy ghép tư tưởng “dân chủ” và “khoa học” cho học thuyết Nho giáo, và lấy mô thức Nho giáo + “dân chủ” và “khoa học” làm mô thức cụ thể hóa mục tiêu hiện đại hóa.
Trong một bài viết trước đây, qua so sánh ban đầu, chúng tôi đã kết luận, về đại thể, trong tiến trình hiện đại hóa tư tưởng Nho giáo, Trần Trọng Kim đã ít nhiều tiếp nhận ảnh hưởng tư tưởng của Lương Thấu Minh梁漱溟(1893-1988)[69], bởi vậy nội dung, quan điểm và thao tác hiện đại hóa tư tưởng Nho giáo giữa Lương Thấu Minh và Trần Trọng Kim có những điểm tương đồng. Tuy nhiên, ở những điểm cụ thể, họ cũng có sự khác biệt nhất định.
Điểm chung giữa Lương Thấu Minh và Trần Trọng Kim là đều thừa nhận và khẳng định giá trị của “dân chủ” và “khoa học”, tiến hành hiện đại hóa tư tưởng Nho giáo về mặt “dân chủ”, “khoa học” và đều lấy mô thức : Nho giáo + “dân chủ” và “khoa học” làm phương thức cụ thể hóa mục tiêu hiện đại hóa. Họ tin rằng, chỉ có mô thức văn hóa này mới giúp Trung Quốc và Việt Nam thực hiện thành công công cuộc hiện đại hóa, và chỉ thông qua hiện đại hoá tư tưởng Nho giáo về mặt “dân chủ” và “khoa học”, mới có thể giúp Nho giáo thoát khỏi cuộc khủng hoảng đương thời và tiếp tục tồn tại trong xã hội hiện đại. Tuy thống nhất lấy mô thức hiện đại hoá tư tưởng Nho giáo về mặt “dân chủ” và “khoa học” làm phương thức cụ thể hoá mục tiêu hiện đại hoá, nhưng do cách nhìn của Lương Thấu Minh và Trần Trọng Kim về tư tưởng “khoa học” Nho giáo khác nhau, dẫn đến thao tác hiện đại hoá tư tưởng Nho giáo về mặt “khoa học”/phương thức cấy ghép nhân tố khoa học hiện đại cho học thuyết Nho giáo giữa họ không hoàn toàn giống nhau.
Lương Thấu Minh cho rằng, tư tưởng Nho gia là hạt nhân và đại diện của văn hoá Trung Quốc. Văn hóa Trung Quốc và văn hoá phương Tây phát triển theo những đường hướng khác nhau, nên thành tựu của chúng khác nhau. Thành tựu nổi bật của văn hóa phương Tây là “khoa học” kĩ thuật và thế chế chính trị “dân chủ” hiện đại. Văn hóa Trung Quốc không đi theo con đường của văn hóa phương Tây, nên không thành tựu “khoa học” và “dân chủ” như văn hóa phương Tây[70]. Theo Lương Thấu Minh, nếu cứ đi theo con đường văn hóa của mình, không tiếp xúc với phương Tây, Trung Quốc không bao giờ sản sinh thể chế chính trị “dân chủ” và “khoa học” kĩ thuật hiện đại phương Tây, bởi văn hóa Trung Quốc, tư tưởng Nho gia truyền thống không hàm chứa tư tưởng “dân chủ”và “khoa học”.Ông viết :
“Hành động thiếu tinh thần chinh phục tự nhiên và hòa hợp vui vẻ với tự nhiên, thực tế [là hai thái độ] không khác nhau. Vậy nó là gì? Nó chính là thái độ, là đường hướng thứ hai của văn hóa nhân loại. Giữ thái độ này, [văn hóa Trung Quốc] đương nhiên không thể có tinh thần chinh phục tự nhiên. Bởi vậy, bất luận thế nào, tàu thuyền, xe cộ, máy bay cũng không thể xuất hiện. Giữ thái độ đó, [người Trung Quốc] đều nhẫn nhịn chịu đựng trước mọi quyền uy, sao có thể đấu tranh để giải phóng [tự do cá nhân]? Do đó, bất luận thế nào, “dân chủ” cũng không thể xuất hiện ở Trung Quốc! Giữ thái độ này, về cơ bản [người Trung Quốc] không quan sát và phân tích tỉ mỉ giới tự nhiên, mà đi vào con đường trực quan huyền học, như tôi đã nói trong chương hai; [họ] lại cũng không có hoài bão chinh phục tự nhiên, vì thế “khoa học” cũng không thể hình thành. Những điều này đều chứng minh tiêu cực rằng, văn hóa Trung Quốc không đi theo đường hướng thứ nhất của văn hóa phương Tây, mà thực sự đi theo đường hướng văn hóa thứ hai”[71].
“Tôi cho rằng, nếu văn hóa phương Tây không tiếp xúc với chúng ta, Trung Quốc đóng cửa không tiếp xúc với bên ngoài, thì dù ba trăm năm, năm trăm năm, thậm chí cả nghìn năm nữa, Trung Quốc cũng không bao giờ sản sinh các loại thuyền bè, tàu hỏa, máy bay, phương pháp “khoa học” và tinh thần “dân chủ”. Câu này có nghĩa : người Trung Quốc không đi chung đường với người phương Tây. Bởi vì, nếu đi chậm, có thể chậm hơn người ta vài chục bước. Nếu đi chung đường mà đi chậm hơn, cứ đi từ từ cuối cùng cũng sẽ đuổi kịp; nhưng nếu mỗi người đi một đường khác nhau, phương hướng khác nhau, thì cho dù đi lâu bao nhiêu, cũng không thể đi đến nơi người phương Tây đã đi đến”[72].
Từ luận điểm này, Lương Thấu Minh chủ trương tiếp nhận hoàn toàn thể chế chính trị “dân chủ” và nền “khoa học” kĩ thuật hiện đại phương Tây, để cấy ghép cho tư tưởng Nho gia, tạo thành mô thức Nho giáo + “dân chủ” và “khoa học” hiện đại phương Tây. Đây là mô thức hiện đại hóa tư tưởng Nho gia, là mô thức văn hóa Trung Quốc tương lai, cũng là phương thức cụ thể hóa mục tiêu hiện đại hóa Trung Quốc mà Lương Thấu Minhđề xướng.
Điểm khác biệt giữa Lương Thấu Minhvà Trần Trọng Kim là, Trần Trọng Kim tuy cũng thừa nhận Nho giáo không thành tựu nền “khoa học” kĩ thuật hiện đại, nhưng ông không thừa nhận Nho giáo vốn khiếm khuyết tư tưởng “khoa học”. Thông qua giải thích cụm từ “cách vật trí tri”, Trần Trọng Kim khẳng địnhNho giáo có mầm mốngtư tưởng “khoa học” và có ý nghĩa khoa học hiện đại, vì thế Nho giáo không mâu thuẫn, xung khắc với khoa học hiện đại, hoàn toàn có thể kết hợp, dung hòa Nho giáo với khoa học hiện đại. Đây là khác biệt căn bản trong cách nhìn tư tưởng “khoa học” Nho giáogiữa Trần Trọng Kim và Lương Thấu Minh. Sự khác biệt này đã đưa đến thao tác hiện đại hoá tư tưởng Nho giáo về mặt “khoa học” giữa họ không hoàn toàn giống nhau. Trong khi Lương Thấu Minh chủ tương tiếp nhận hoàn toàn nền khoa học kĩ thuật hiện đại phương Tây bởi cho rằng Nho giáo vốn thiếu tư tưởng “khoa học”, thì Trần Trọng Kim lại quay về tìm kiếm tư tưởng “khoa học” vốn có trong học thuyết Nho giáo và khẳng định ý nghĩa hiện đại của nó, đồng thời lấy đó làm cơ sở tiền đề để ông dựa vào nhằm hợp lí hóa chủ trương kết hợp, dung hòa Nho giáo với khoa học hiện đại của ông, với mục đích tiếp dẫn thuận lợi khoa học hiện đại phương Tây vào học thuyết Nho giáo.
Khác với phương thức hiện đại hóa tư tưởng Nho giáo về mặt “dân chủ” và “khoa học” bằng cách cấy ghép cơ giới : Nho giáo + “khoa học” và “dân chủ”của Lương Thấu Minh, Tân Nho gia hiện đại Trung Quốc sau Lương Thấu Minh không tán đồng cách thức hiện đại hoá tư tưởng Nho giáo về mặt “dân chủ” và “khoa học” này.
Men theo con đường từ cái học “tâm tính nội thánh” Nho gia truyền thống mở ra “tân ngoại vương” hiện đại – “dân chủ” và “khoa học”, Tân Nho gia hiện đại Trung Quốc sau Lương Thấu Minh không chấp nhận phương thức hiện đại hóa tư tưởng Nho gia về mặt “dân chủ” và “khoa học” bằng cách tiếp nhận “dân chủ” và “khoa học” phương Tây như một phép cộng giản đơn : Nho giáo + “dân chủ” và “khoa học”, mà cố gắng thông qua hiện đại hóa tư tưởng triết học Nho gia để tìm kiếm những nhân tố nội tại hàm chứa tư tưởng “dân chủ” và “khoa học”, lấy đó làm cơ sở lí luận siêu hình để “hợp lí hóa” cho luận điểm khẳng định phát triển “dân chủ” và “khoa học” là nhu cầu nội tại tất yếu của cái học tâm tính Nho gia. Theo Tân Nho gia hiện đại, chỉ có “hiện đại hóa” được dẫn dắt bởi cơ sở lí luận của tư tưởng triết học Nho gia mới là hiện đại hóa một cách triệt để nhất và tự thân từ gốc rễ văn hóa Trung Quốc - văn hóa Nho gia. Các mô thức hiện đại hóa khác chỉ là kiểu vay mượn di thực mất gốc và không bền vững, nó sẽ đẩy Trung Quốc vào mảnh đất thực dân văn hoá. Chỉ có phương thức hiện đại hóa tư tưởng Nho gia từ bản thân cái học tâm tính của nó, Trung Quốc mới có thể tiếp nhận “dân chủ” và “khoa học” phương Tây một cách thuận lợi, sâu sắc, bền vững và phát huy hiệu quả thực sự, đồng thời tránh được những nguy cơ văn hóa mà các nước phương Tây đang phải đối mặt.
Mâu Tông Tam 牟宗三(1909-1995), đại diện tiêu biểu của Tân Nho gia hiện đại Trung Quốc thế hệ thứ ba cho rằng, sở dĩ ông lựa chọn phương thức hiện đại hóa tư tưởng Nho gia này, là vì trong thực tế phát triển của mình, tuy văn hóa Trung Quốc, tư tưởng Nho gia không thành tựu thể chế chính trị “dân chủ” và “khoa học” hiện đại như văn hóa phương Tây cận hiện đại, nhưng điều đó không có nghĩa bản thân văn hóa Trung Quốc, văn hóa Nho gia vốn khiếm khuyết tư tưởng “dân chủ” và “khoa học”. Văn hóa Trung Quốc, văn hóa Nho gia không hề khiếm khuyết những hạt mầm “dân chủ”, “khoa học”. Về cơ bản, chính trị “dân chủ” phải là yêu cầu nội tại của sự phát triển tự thân của tinh thần đạo đức của văn hóa Trung Quốc, văn hóa Nho gia. Xuất phát từ nhu cầu nội tại hoặc mục đích tự thân của Nho gia, đương nhiên phải đòi hỏi hoàn thành việc kiến tạo chính thể “dân chủ” và phát triển “khoa học” kĩ thuật hiện đại. Vì vậy, “dân chủ” và “khoa học” là đòi hỏi tất yếu của việc hoàn thiện sự phát triển tinh thần đạo đức của văn hóa Trung Quốc và văn hóa Nho gia. Mâu Tông Tam nhấn mạnh, nếu tinh thần văn hóa Trung Quốc chỉ là hình thái trực giác 直覺形態thỏa mãn nhân cách thánh nhân聖人人格, thì không thể tiếp nhận “dân chủ” và “khoa học” phương Tây, và cũng không thể xem quan hệ giữa tư tưởng Nho gia và “hiện đại hóa” chỉ là vấn đề “thích ứng” 適應, mà phải xem nó là vấn đề “thực hiện” 實現. Bởi từ trong sinh mệnh nội tại của mình, Nho gia luôn tích cực đòi hỏi “dân chủ” và “khoa học”, hơn nữa bản thân Nho gia có thể thúc đẩy và thực hiện “dân chủ” và “khoa học”.
Để chứng minh luận điểm này, Mâu Tông Tam đưa ra thuyết “đạo đức lương tri tự ngã khảm hạm” 道德良知自我坎陷làm phương thức cụ thể hóa việc thực hiện phương châm hiện đại hóa “từ nội thánh mở ra tân ngoại vương” 由内聖開出新外王/“phản bản khai tân” 返本開新mà Tân Nho gia hiện đại đề xướng. Trong đó, “phản bản” 返本là kế thừa cái học nội thánh Nho gia, “khai tân” 開新là đem tinh thần đạo đức luân lí Nho gia hiện thực hóa vào sự nghiệp ngoại vương, mở ra và thành tựu “khoa học” và “dân chủ”, tức “tân ngoại vương” 新外王. Nội dung cụ thể thuyết “đạo đức lương tri tự ngã khảm hạm” thuyết minh sự ra đời của “dân chủ” và “khoa học” là kết quả của sự chuyển hóa sáng tạo từ chủ thể đạo đức 道德主體ra chủ thể chính trị 政治主體và chủ thể tri tính 知性主體, tức từ góc độ chuyển hóa của chủ thể đạo đức thuyết minh căn cứ của “dân chủ” và “khoa học”. Ở phương diện “khoa học”, thuyết “đạo đức lương tri tự ngã khảm hạm” thuyết minh chủ thể đạo đức (lương tri良知) dưới tiền đề khẳng định giá trị của tri thức, có thể tự giác “giáng mình xuống” 坎陷自己để chuyển ra chủ thể tri tính. Chủ thể đạo đức thông qua “đạo đức lương tri tự ngã khảm hạm” [tự giáng mình xuống của lương tri đạo đức] chuyển ra chủ thể tri tính độc lập tương đối, làm căn cứ nội tại cho sự phát triển khoa học. Nói cách khác, đạo đức lương tri thông qua phủ định tự ngã自我否定, tự giác chuyển từ “vô chấp” 無執sang “hữu chấp” 有執, từ chủ thể đạo đức (tâm đạo đức道德心) chuyển sang chủ thể tri tính (tâm tri thức認知心) để phát triển khoa học. Tác dụng của chủ thể đức tính (lương tri) là hoàn thiện đức tính nhân cách, tác dụng của chủ thể tri tính là thành tựu tri thức và khoa học. Ở phương diện “dân chủ”, thuyết “đạo đức lương tri tự ngã khảm hạm” khẳng định từ sự tự do của chủ thể đạo đức tiến tới đòi hỏi sự tự do của chủ thể chính trị, thúc đẩy phát triển và thành tựu thể chế chính trị dân chủ.
Nói cách khác, theo Mâu Tông Tam, “dân chủ” và “khoa học” nhất thiết phải được nảy sinh và phát triển từ cơ sở cái học tâm tính nội thánh Nho gia儒家内聖心性之學, chứ không phải cấy ghép một cách giản đơn, cơ giới và khiên cưỡng tư tưởng “dân chủ” và “khoa học” phương Tây vào tư tưởng Nho gia. Hiện đại hóa tư tưởng “dân chủ” và “khoa học” cho học thuyết Nho gia không thể tách rời cái học tâm tính nội thánh Nho gia, mà phải lấy cái học tâm tính nội thánh Nho gia làm cơ sở lí luận siêu hình, cái học tâm tính nội thánh Nho gia phải là cơ sở siêu hình cho sự hình thành và phát triển “dân chủ” và “khoa học”. Đây là phương thức xử lí và thuyết minh quan hệ giữa tinh thần đạo đức vốn có của Nho gia với “dân chủ” và “khoa học” của Mâu Tông Tam[73].
Điểm qua vài nét về thao tác hiện đại hóa tư tưởng Nho gia về mặt “dân chủ” và “khoa học” của Mâu Tông Tam, có thể thấy, so với Mâu Tông Tam, việc hiện đại hóa tư tưởng Nho giáo về mặt “khoa học” của Trần Trọng Kim chủ yếu là “tìm chữ lọc câu”, thông qua biện luận chữ nghĩa để khẳng định và gán ghép tư tưởng “khoa học” cho Nho giáo một cách giản đơn theo thuyết “từ xưa đã có” của truyền thống Nho giáo. Trần Trọng Kim không xuất phát từ căn cội cái học tâm tính triết học Nho giáođi tìm kiếm cơ sở lí luận siêu hình cho những luận giải về tư tưởng “khoa học” Nho giáo. Có lẽ, Trần Trọng Kim chưa ý thức được rằng, hiện đại hóa tư tưởng Nho giáo về mặt “khoa học”, ngoài cách thức “tìm chữ lọc câu” trong kinh điển Nho giáo để thông diễn hiện đại tư tưởng “khoa học” Nho giáo như ông đã làm trong Nho giáo, việc tìm kiếm căn cứ siêu hình từ cái học tâm tính nội thánh Nho giáo, lấy đó làm cơ sở lí luận cho những luận giải hiện đại về tư tưởng “khoa học” Nho giáo, cũng là thao tác có ý nghĩa quan trọng về mặt lí luận. Nếu Mâu Tông Tam xuất phát từ tiền đề khẳng định Nho gia có mầm mống tư tưởng “khoa học”, từ đó tìm kiếm cơ sở lí luận siêu hình trong cái học tâm tính nội thánh Nho gia để khẳng định phát triển và thành tựu nền khoa học kĩ thuật hiện đại là tất yếu, nhằm tạo cơ sở lí luận cho Nho gia tiếp nhận, dung nạp nền khoa học kĩ thuật hiện đại phương Tây một cách thuận lợi, thì Trần Trọng Kim chỉ dừng lại ở việc thông diễn hiện đại và khẳng định ý nghĩa hiện đại tư tưởng “khoa học” Nho giáo từ góc độ câu chữ khá giản đơn. Phương thức hiện đại hóa tư tưởng Nho giáo về mặt “khoa học” của Trần Trọng Kim chỉ dừng ở việc thông diễn từ ngữ bên ngoài, mà thiếu sự tìm tòi, gắn kết chiều sâu bên trong giữa tư tưởng “khoa học” Nho giáo theo sự thông diễn của ông với cơ sở lí luận triết học Nho giáo.Thiếu một cơ sở lí luận triết học làm hậu thuẫn, khiến cho những luận giải của Trần Trọng Kim về tư tưởng “khoa học” Nho giáo và mô thức văn hóa Việt Nam tương lai : Nho giáo + “khoa học” hiện đại phương Tây mà ông xác lập cho tiến trình hiện đại hóa Việt Nam thiếu sức thuyết phục về mặt lí luận. Đây cũng là khác biệt cơ bản trong nội dung và thao tác hiện đại hoá tư tưởng Nho giáo về mặt “khoa học” giữa Trần Trọng Kim với Mâu Tông Tam.
Cũng cần nói thêm rằng, Trần Trọng Kim là người cùng thời với Lương Thấu Minh, việc so sánh thao thác và nội dung hiện đại hóa tư tưởng Nho giáo về mặt “khoa học” giữa Trần Trọng Kim với Mâu Tông Tam có phần không tương xứng, và cũng là đòi hỏi quá tầm với Trần Trọng Kim, bởi Mâu Tông Tam là đại biểu Tân Nho gia hiện đại Trung Quốc thế hệ thứ ba sau Lương Thấu Minh. Tuy nhiên, việc so sánh là cần thiết, nhằm chỉ ra sự khác biệt về thao tác và nội dung hiện đại hóa tư tưởng Nho giáo về mặt “khoa học” giữa Trần Trọng Kim với đại biểu các thế hệ Tân Nho gia hiện đại Trung Quốc, hơn nữa việc so sánh cũng cho thấy khác biệt giữa Tân Nho gia hiện đại Trung Quốc với Nho giáo hiện đại Việt Nam – Xu hướng hiện đại hóa tư tưởng Nho giáo Việt Nam hiện đại, đó là sự truyền thừa tiếp nối. Sau Lương Thấu Minh – người khởi xướng trào lưu Tân Nho học hiện đại Trung Quốc, Tân Nho học hiện đại Trung Quốc tiếp tục được kế thừa và phát triển liên tục đến ngày nay qua nhiều thế hệ, với nhiều thành tựu triết học và văn hóa khá đồ sộ mang tính sáng tạo đột phá về tư tưởng và lí luận. Trong khi đó, sau Trần Trọng Kim và Phan Bội Châu – những đại diện hiếm hoi của xu hướng chấn hưng Nho giáo Việt Nam bằng phương thức hiện đại hóa tư tưởng Nho giáo, ta không thấy những tác phẩm của những người thế hệ sau kế tục xu hướng này. Xu hướng hiện đại hóa tư tưởng Nho giáo về mặt “khoa học” và các phương diện khác như “dân chủ”, “tư tưởng triết học”, “phương pháp triết học”...ở Việt Nam đầu thế kỉ XX được khởi phát bởi Trần Trọng Kim và Phan Bội Châu, nhưng có lẽ cũng kết thúc chóng vánh sau sự ra đời của hai tác phẩm tiêu biểu của xu hướng này - Nho giáo và Khổng học đăng[74].
Điểm qua vài nét tương đồng và khác biệt trong thao tác và nội dung hiện đại hoá tư tưởng Nho giáo về mặt “khoa học” giữa Trần Trọng Kim với Tân Nho gia hiện đại Trung Quốc, ta thấy họ thống nhất về mục đích và phương thức hiện đại hoá tư tưởng Nho giáo, tuy nhiên, do quan điểm của họ về tư tưởng “khoa học” Nho giáo khác nhau, nên thao tác và nội dung cụ thể hoá việc hiện đại hoá tư tưởng Nho giáo về mặt “khoa học” giữa họ không hoàn toàn giống nhau.
III. Lời kết
Qua những luận giải về ý nghĩa khoa học của cụm từ “cách vật trí tri” trong học thuyết Nho giáo, về khả năng kết hợp, dung hòa Nho giáo với khoa học, và chủ trương kết hợp Nho giáo với khoa học hiện đại phương Tây của Trần Trọng Kim, cùng những tranh luận giữa ông với Phan Khôi xoay quanh vấn đề này, có thể thấy cách giải thích tư tưởng “khoa học” Nho giáo của Trần Trọng Kim chủ yếu là biện luận nghĩa lí câu chữ, mà chưa bàn luận đến bản chất vấn đề, những luận giải của Trần Trọng Kim mang tính chủ quan áp đặt, gán ghép khiên cưỡng. Ông chưa nhận rõ sự khác biệt về chất giữa nền khoa học hiện đại phương Tây với tư tưởng “khoa học” trong cụm từ “cách vật trí tri” của Nho giáo, thậm chí ông cũng chưa hiểu ý nghĩa thực chất cụm từ “cách vật trí tri” trong quan niệm của Nho giáo. Về ý nghĩa, nếu xét theo tự nghĩa hiện đại như cách nói của Phan Khôi, thì cách lí giải ý nghĩa cụm từ “cách vật trí tri” có ý nghĩa khoa họchiện đại của Trần Trọng Kim không phải không có lí, tuy nhiên nếu xét trong thực tế lịch sử phát triển Nho giáo, đây lại là quan điểm không thỏa đáng. Bởi ý nghĩa “cách vật trí tri” trong truyền thống Nho giahoàn toàn khác biệt về chất với khoa học hiện đại phương Tây. Trong lịch sử phát triển Nho gia, ý nghĩa thực chất của “cách vật trí tri” thiên về phương diện đạo đức, khôngphải tìm hiểu tri thức khoa họctự nhiên theo nghĩa khoa học hiện đại. Nho gia đặc biệt chú trọng và nhấn mạnh tu dưỡng nội tâm để đạt cảnh giới đạo đức nội tại chủ quan, nó đối lập với nhận thức và tìm hiểu khoa học tự nhiên khách quan, dù là Lí học Trình Chu hay Tâm học Lục Vương, “cách vật trí tri” đều không hướng tới tìm hiểu sự vật tự nhiên khách quan để thu lượm tri thức khoa học tự nhiên, mà là tìm hiểu nghĩa lí trong kinh điển thánh hiền để lĩnh hội nghĩa lí đạo đức và làm sáng tỏ bản thể tâm tính trong nội tại con người. Điều Nho gia quan tâm tìm kiếm không phải tri thức khoa học tự nhiên khách quan, mà là tu dưỡng và thành tựu đạo đứcnội tâm chủ quan. Vì chú trọng phương diện tu dưỡng nội tâm nên Nho gia xa rời kinh nghiệm và xem thường tri thức, và vì quá nhấn mạnh tu dưỡng đạo đức nội tâm, Nho gia tiến đến phủ nhận, thủ tiêu tri thức, cho quá trình tìm kiếm tri thức bên ngoài làm động tâm con người, phá vỡ sự yên tĩnh nội tâm, ảnh hưởng tiêu cực đến quá trình và hiệu quả tu dưỡng đạo đức nội tâm con người. Với Nho gia, tri thức mang nghĩa tiêu cực, phiền nhiễu tới quá trình tu dưỡng. Tiền đề của tu dưỡng đạo đức nội tâm là phải cắt đứt liên hệ giữa cái tôi nội tại với thế giới ngoại tại, và để nội tâm con người yên tĩnh, bình thản, tập trung tu dưỡng đạo đức và thành tựu đạo đức, phải xa rời, bài xích, vứt bỏ việc tìm kiếm tri thức bên ngoài. Một khi đạo đức, “nhân nghĩa đã thuộc về nội tại, nên việc thể hiện nhân nghĩa phải qua hoạt động nội tâm. Những nhà nho đời sau [Khổng, Mạnh – NTĐ] đã tiếp tục đẩy quan niệm đó tới cực đoan, từ chỗ coi thường tri thức chuyển sang bác bỏ tri thức, cho rằng đi tìm tri thức sẽ làm mất sự yên tĩnh của nội tâm con người”[75]. Suốt lịch sửphát triển Nho gia từ Khổng Mạnh về sau, tư tưởng đạo đức Nho giađã ăn sâu vào ý thức con người, khiến người ta chỉ chú trọng tìm kiếm nhân tố đạo đức nội tại chủ quan, mà xa rời tìm kiếm tri thức khoa họckhách quan. Thực tế này cho thấy, những luận giải của Trần Trọng Kim về mầm mống tư tưởng “khoa học” Nho giáovà ý nghĩa khoa học hiện đạicủa cụm từ “cách vật trí tri”là không thỏa đáng và thiếu thuyết phục.
Chỉ ra hạn chế này của Trần Trọng Kim không có nghĩa phủ nhận nỗ lực hiện đại hoá tư tưởng Nho giáo về mặt “khoa học” của ông trong Nho giáo, mà chỉ muốn nói rằng, trong nỗ lực hiện đại hoá tư tưởng Nho giáo về mặt “khoa học”, nhằm tìm kiếm cơ sở tồn tại cho Nho giáo trong xã hội hiện đại, Trần Trọng Kim chưa đầu tư thời gian và công sức cần thiết để xây dựng hệ lí luận chặt chẽ làm cơ sởcho luận giải tư tưởng “khoa học” Nho giáo, cũng như mối quan hệ giữa Nho giáo với nền khoa học kĩ thuật hiện đại phương Tây một cách thuyết phục. Do đó, những luận giải về tư tưởng “khoa học” Nho giáo của ông còn đơn giản, sơ sài, thiếu chiều sâu, mang tính chủ quan áp đặt. Công việc chủ yếu của ông là biện luận và thông diễn chữ nghĩa, mà thiếu sáng tạo về mặt lí luận.
Mặc dù nội dung và thao tác hiện đại hoá tư tưởng Nho giáo về mặt “khoa học” của Trần Trọng Kim chưa thực sự chặt chẽ và thuyết phục, nhưng từ ý thức vấn đề một cách tự giác đến giải quyết vấn đề một cách chủ động, Trần Trọng Kim dường như là một trong những người đầu tiên thổi vào Nho giáo hiện đại Việt Nam một luồng sinh khí mới, mang đến cho Nho giáo cơ hội tồn tại và phục hưng, cho dù cơ hội đó còn mong manh về lí luận và cũng khó đem lại hiệu quả trong thực tế. Người viết cho rằng, điểm cần khẳng định ở Trần Trọng Kim là sự ưu tư với di sản văn hóa Nho giáo truyền thống và sự quan tâm lo lắng về đường hướng phát triển của văn hoá dân tộc trước ngưỡng cửa tương lai. Nhận thức này là động cơ thôi thúc Trần Trọng Kim cố gắng hiện đại hoá tư tưởng Nho giáo về mặt “khoa học”, nhằm tìm kiếm cơ sở tồn tại mới cho Nho giáo trong xã hội hiện đại. Theo ông, sở dĩ Nho giáo suy tàn đổ nát, vì nó đã mất cơ sở tồn tại vốn có là nhà nước chuyên chế Nho giáo và chế độ khoa cử. Trong điều kiện xã hội mới, với những đòi hỏi mới của thời đại, Nho giáo đã trở thành học thuyết giáo điều và lạc hậu. Nó không thể tiếp tục tồn tại đơn độc trong xã hội hiện đại. Nền khoa học kĩ thuật hiện đại phương Tây là một trong những căn nguyên đẩy Nho giáo đến khủng hoảng, cũng là khiếm khuyết căn bản của học thuyết Nho giáo, nhưng nó lại là thách thức Nho giáo phải đối mặt. Muốn chấn hưng và khôi phục Nho giáo, muốn Nho giáo thích ứng được với yêu cầu mới của thời đại và tiếp tục tồn tại trong xã hội hiện đại, không thể không cải tạo, làm mới và hiện đại hoá nó. Sự tồn vong của Nho giáo phụ thuộc vào Nho giáo có tự vượt qua hạn chế, khiếm khuyết của mình, và có thể làm mới mình bằng cách thích ứng với nền khoa học kĩ thuật hiện đại phương Tây hay không. Việc xác lập mô thức văn hoá Việt Nam tương lai kết hợp Nho giáo với khoa học hiện đại phương Tây cho thấy Trần Trọng Kim không bảo thủ một cách cứng nhắc với văn hóa truyền thống Nho giáo,ông đã nhận thức được khuyết điểm của Nho giáo là không thành tựu được nền khoa học kĩ thuật hiện đại, cho nên muốn Nho giáo tiếp tục tồn tại trong xã hội hiện đại, không thể mãi cố thủ đơn độc với tư tưởng Nho giáo truyền thống, mà buộc phải bổ khuyết, làm mới và hiện đại hóa Nho giáo, phải kết hợp Nho giáo với khoa học hiện đại phương Tây. Bên cạnh đó, với khoa học hiện đại phương Tây, Trần Trọng Kim cũng không giữ thái độ cự tuyệt, bởi ông nhận thức được sự cần thiết và tính tất yếu của khoa học hiện đại trong tiến trình hiện đại hóa đất nước.
Nhìn nhận vấn đề từ góc độ này, có lẽ không nên xem việc khẳng định giá trị hiện đại của Nho giáo, từ đó chủ trương kế thừa và kết hợp Nho giáo với khoa học hiện đại phương Tây làm mô thức văn hóa Việt Nam tương lai – phương thức cụ thể hóa tiến trình hiện đại hóa Việt Nam nhằm chấn hưng Nho giáo của Trần Trọng Kim hoàn toàn xuất phát từ sự thiên ái, tiếc nuối, níu kéo Nho giáo truyền thống một cách bảo thủ mù quáng của chủ quan cá nhân Trần Trọng Kim như có học giả từng nhận xét. Từ những trình bày về ưu nhược điểm của văn hóa phương Tây và văn hóa Việt Nam truyền thống và hiện đại, cùng với luận giải khá biện chứng của Trần Trọng Kim về quan hệ giữa truyền thống và hiện đại, giữa đức dục và trí dục như trên, người viết cho rằng, sự lựa chọn của Trần Trọng Kim ít nhiều đã qua cân nhắc, phản tỉnh. Theo Trần Trọng Kim, Nho giáo với tư cách là thành tố gắn bó mật thiết lâu đời với văn hóa truyền thống dân tộc, từng góp phần hàm dưỡng, hun đúc nên tính cách, bản sắc và tinh thần dân tộc trong quá khứ, sẽ không thể chỉ là một “tử vật” khi dân tộc bước vào thời kì hiện đại, mà ngược lại, Nho giáo vẫn sẽ là nhân tố có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển của văn hóa dân tộc trong tương lai. Hiện đại hoá không phải chỉ là học theo cái “hiện đại” của người, vứt bỏ cái “truyền thống” của mình, mà phải trên cơ sở hiểu biết và kế thừa cái “truyền thống” của mình, để tiếp nhận, dung nạp và kết hợp hài hoà cái “truyền thống” của mình với cái “hiện đại” của người, sao cho tiến trình hiện đại hoá phù hợp với hoàn cảnh, trình độ và tâm tính của mình :
“việc tiến hóa của một dân tộc không phải là chỉ cần lấy học cho biết cái biết của người (văn hóa phương Tây – NTĐ) mà thôi, lại cần phải biết rõ những cái của mình (văn hóa Nho giáo – NTĐ) đã có, để đem dung hòa cái mới với cái cũ mà gây thành ra cái tinh thần mới, có thể thích hợp với hoàn cảnh của mình, thích hợp với trình độ và tâm tính của mình”[76].
Dường như Trần Trọng Kim đã sớm lưu ý chúng ta, bước vào hiện đại không có nghĩa miết đuổi học theo văn hóa phương Tây và quay lưng đoạn tuyệt với văn hóa truyền thống dân tộc – văn hóa Nho giáo. Hiện đại hóa không có nghĩa là “Tây hóa hoàn toàn”, hiện đại hóa là sự vận hành của văn hóa truyền thống dân tộc trong một bối cảnh mới – bối cảnh hiện đại. Do đó, học tập phương Tây không đồng nghĩa với vứt bỏ văn hóa truyền thống Nho giáo. Mà ngược lại, muốn học tập phương Tây có hiệu quả, ta phải hiểu rõ truyền thống văn hóa dân tộc mình. Chỉ khi hiểu rõ “thể trạng văn hóa” dân tộc mình trong quá khứ, mới có thể điều chỉnh, kết hợp, dung hòa văn hóa truyền thống dân tộc với văn hóa hiện đại phương Tây, tạo nên một diện mạo văn hóa Việt Nam mới – nền văn hóa kết hợp bản sắc văn hóa truyền thống dân tộc – luân lí đạo đạo Nho giáo với tinh hoa văn hóa hiện đại phương Tây – khoa học hiện đại. Đó mới là nền văn hóa thích hợp với hoàn cảnh, trình độ và tâm tính của mình. Có nghĩa, văn hóa Việt Nam tương lai không phải cố thủ với văn hóa Nho giáo truyền thống, cũng không phải xu phụ cực đoan theo văn hóa hiện đại phương Tây, mà là sự kết hợp hài hòa giữa truyền thống và hiện đại - giữa luân lí đạo đức Nho giáo truyền thống và khoa học hiện đại phương Tây - giữa đức dục và trí dục – giữa đạo đức và tri thức.
Qua nỗ lực cải tạo và hiện đại hoá Nho giáo về mặt “khoa học” của Trần Trọng Kim, Nho giáo - hệ tư tưởng vốn bị những người theo Khuynh hướng Phản truyền thống Việt Nam đương thời phê phán là giáo điều hủ bại, là căn nguyên gây họa mất nước, xung đột và cản trở tiến trình hiện đại hóa, đã trở thành học thuyết Nho giáo mới hội đủ tư tưởng “khoa học”. Với Trần Trọng Kim, Nho giáo không phải học thuyết chỉ biết luân lí đạo đức, mà còn hàm chứa mầm mống tư tưởng “khoa học”. Khẳng định ưu điểm này của Nho giáo, Trần Trọng Kim muốn chúng ta nhìn nhận lại rằng, không nên căn cứ vào việc Nho giáo không phát triển và thành tựu nền khoa học kĩ thuật hiện đại mà vội kết luận Nho giáo không có tư tưởng “khoa học”, Nho giáo mâu thuẫn, xung khắc với khoa học. Theo ông, Nho giáo không mâu thuẫn, xung đột với khoa học, cũng không cản trở tiến trình hiện đại hóa, mà ngược lại tư tưởng “khoa học” vốn có trong Nho giáo sẽ là cơ sở thuận lợi để chúng ta tiếp dẫn, kết hợp và dung hòa với nền khoa học kĩ thuật phương Tây hiện đại, còn tư tưởng luân lí đạo đức Nho giáo sẽ đóng vai trò dẫn dắt, kiến tạo và hậu thuẫn cho tiến trình hiện đại hóa. Dưới sự dẫn dắt, kiến tạo của tư tưởng luân lí đạo đức Nho giáo, tiến trình hiện đại hóa của chúng ta sẽ đạt hiệu quả tốt và tránh được xu hướng “vật chất hóa con người” và “cực đoan hoá khoa học” của phương Tây.
Ở thời điểm Việt Nam trong buổi Âu Á giao thời, với sự tồn tại đan xen của những giá trị cũ mới, trong bối cảnh đa phần tri thức đương thời đua nhau phê phán Nho giáo gay gắt, cả xã hội quay lưng hắt hủi, ghẻ lạnh và quy mọi tội lỗi cho Nho giáo, ít ai đoái hoài, suy xét đến di sản Nho giáo và giá trị hiện đạicủa nó, thì nỗ lực cải tạo và hiện đại hoá tư tưởng Nho giáo về mặt “khoa học” của Trần Trọng Kim nhằmkế thừa, phát huy và khẳng định giá trị hiện đại của Nho giáo, từ đó kết hợp ưu điểm của Nho giáo truyền thống với khoa học hiện đại phương Tâyđể kiến tạo mô thức văn hóa Việt Nam tương lai, là việc làm có ý nghĩa và đáng được khẳng định. Nó thể hiện tinh thần tự nhiệm và sứ mệnh cảm của một trí thức Việt Nam đầu thế kỉ XX với di sản văn hoá Nho giáo truyền thống và tương lai văn hóa dân tộc. Đó cũng là sự khác biệt giữa Trần Trọng Kim với trí thức Việt Nam đương thời trong cách nhìn nhận và đối đãi với di sản Nho giáo truyền thống.
Nhìn từ góc độ lịch sử phát triển Nho giáo Việt Namhiện đại, cùng với nỗ lực hiện đại hoá tư tưởng Nho giáo về mặt “khoa học” của Phan Bội Châu trong Khổng học đăng[77], Trần Trọng Kim là một trong những người Việt Nam đầu tiên đưa vấn đề “khoa học” vào Nho giáo bàn bạc, thảo luận. Qua đó tiến hành giải thích lại và hiện đại hóa tư tưởng Nho giáo về mặt “khoa học”. Đây là phản ứng tích cực và chủ động đầu tiên của nhà nho Việt Nam trên con đường tìm kiếm cơ sở tồn tại mới cho Nho giáo trong xã hội hiện đại. Thay vì xót xa, tiếc nuối trước sự suy tàn của Nho giáo, hoặc hô hào chấn hưng Nho giáo bằng những khẩu hiệu tuyên truyền như một số nhà nho Việt Nam đương thời, Trần Trọng Kim đã hiện thực hóa việc chấn hưng Nho giáo bằng giải pháp cụ thể - hiện đại hoá tư tưởng Nho giáo về mặt “khoa học”. So với nhà nho Việt Nam đương thời, nhận thức và nỗ lực hiện đại hoá tư tưởng Nho giáo về mặt “khoa học” của Trần Trọng Kim thể hiện một cách nhìn mới mẻ, độc đáo và có phần sáng tạo. Nỗ lực hiện đại hoá tư tưởng Nho giáo về mặt “khoa học” của Trần Trọng Kim cũng cho thấy chuyển động tích cực trong học thuật Nho giáo Việt Nam giai đoạn đầu thế kỉ XX. Nó đã đưa Nho giáo truyền thống Việt Nam phát triển theo một hướng mới– xu hướng chấn hưng Nho giáo bằng phương thức hiện đại hóa tư tưởng Nho giáovề mặt “triết học”, “phương pháp triết học”, “dân chủ”, “khoa học” … Đây cũng là xuhướng vận động và phát triển chung của Nho giáo khu vực Đông Á đầu thế kỉ XX.
Hệ quả của quá trình cận, hiện đại hóa ở phương Tây đã tạo ra sự va chạm, xung đột và đứt gãy giữa truyền thống và hiện đại. Làm sao kết hợp, dung hòa hữu hiệu truyền thống và hiện đại là vấn đề được đặt ra ở phương Tây từ thế kỉ XIX. Ở các nước Đông Á có truyền thống Nho giáo, quá trình cận, hiện đại hóa cũng tạo ra sự xung đột, mâu thuẫn và đứt gãy giữa hệ giá trị Nho giáo truyền thống với hệ giá trị khoa học hiện đại phương Tây. Kết hợp, dung hòa truyền thống với hiện đại như thế nào, để vừa hiện đại hóa thành công, vừa giữ được giá trị luân lí đạo đức Nho giáo truyền thống, cũng trở thành vấn đề được đặt ra ở các nước có truyền thống Nho giáo Đông Á từ đầu thế kỉ XX, và cho đến nay, có lẽ nó vẫn là vấn đề mang tính thời sự.
Cùng với thành quả đạt được từ công cuộc công nghiệp hóa hiện đại hóa, Việt Nam cũng đối mặt với những hậu quả tiêu cực của hiện đại hóa, đó là sự xói mòn, băng hoại giá trị luân lí đạo đức truyền thống. Để khơi dậy, kế thừa và phát huy giá trị văn hóa truyền thống dân tộc, nhất là phương diện luân lí đạo đức, nhằm điều hòa và hạn chế hậu quả tiêu cực do tiến trình hiện đại hóa mang lại, chúng ta đã chủ trương “xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc” và phát động phong trào “học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”. Trong bối cảnh đó, nhìn lại chủ trương và mô thức văn hóa kết hợp Nho giáo với khoa học hiện đại phương Tây/kết hợp giáo đục “đức dục” Nho giáo với “trí dục” phương Tây của Trần Trọng Kim hồi đầu thế kỉ XX, ta vẫn thấy phần nào giá trị, tính thời sự và tầm nhìn của ông về vấn đề tương lai văn hóa dân tộc. Nói như vậy, không có nghĩa chúng ta hi vọng sẽ tìm được lời giải đáp thỏa đáng cho hiện thực hiện đại hóa từ Trần Trọng Kim hay nhà triết học, tư tưởng, văn hoá nào của Việt Nam trong quá khứ, bởi từ kiến tạo lí luận chủ quan đến triển khai thực tiễn khách quan là hai vấn đề khác nhau. Xây dựng được mô thức lí luận, không có nghĩa có thể triển khai, cụ thể hóa thành công mô thức lí luận đó trong thực tế, bởi khác biệt giữa sự thuần nhất của lí luận với sự đa dạng phức tạp của thực tiễn. Về lí tưởng, khó nói Nho giáo mâu thuẫn, xung đột với khoa học hiện đại, cũng khó nói không thể kết hợp, dung hòa chúng với nhau, nhưng thực tế cho thấy kết hợp, dung hòa hữu hiệu Nho giáo với khoa học/đức dục với trí dục là không đơn giản. Hiện đại hóa tư tưởng Nho giáo về lí luận khác xa việc triển khai mô thức lí luận này trong thực tiễn. Thực tiễn hiện đại hóa cho thấy, nó không phải là quá trình tiếp nhận khoa học hiện đại một cách cơ giới, chỉ cần tiếp nhận khoa học hiện đại và kết hợp nó với luân lí đạo đức Nho giáo truyền thống là có thể giải quyết thỏa đáng mọi vấn đề trong tiến trình hiện đại hóa, và thực hiện thành công hiện đại hóa. Là bởi, một khi vẫn giữ những giá trị và nếp sống luân lí đạo đức Nho giáo truyền thống, người ta sẽ không dễ tiếp nhận toàn bộ hệ giá trị của khoa học hiện đại, ngược lại khi nhiệt thành theo khoa học hiện đại, người ta cũng khó tiếp nhận toàn bộ nếp cũ của hệ giá trị luân lí đạo đức Nho giáo truyền thống. Thêm vào đó, với phương thức đánh giá giá trị dựa vào trực giác của lương tri - cái tâm đúng sai, mà không dựa vào lí trí – cơ sở phán đoán của khoa học[78], và truyền thống coi trọng tu dưỡng đạo đức nội tâm chủ quan, xem thường tìm hiểu tri thức khách quan như trên đã nói của truyền thống Nho giáo, thì việc kết hợp Nho giáo với khoa học hiện đại sẽ trở nên khó khăn hơn. Đó là sự mâu thuẫn, xung đột giữa luân lí đạo đức Nho giáo với khoa học hiện đại trong tiến trình hiện đại hóa. Hiệu quả thực tế chủ trương xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộcvà phong trào học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh phần nào đã cho thấy điều đó. Nhưng mâu thuẫn không có nghĩa không thể dung hòa, văn hóa có thể đổi mới, hệ giá trị truyền thống cũng có thể điều chỉnh để thích ứng và hóa giải mâu thuẫn với hiện thực hiện đại hóa. Vấn đề mấu chốt là điều chỉnh như thế nào giá trị luân lí đạo đức Nho giáo truyền thống để nó phù hợp và phát huy hiệu quả tối ưu trong thực tiễn tiếp nhận, kết hợp và dung hòa với khoa học hiện đại trong tiến trình hiện đại hóa. Thao tác cụ thể hóa việc điều chỉnh hệ giá trị luân lí đạo đức Nho giáo truyền thống và kết hợp nó với khoa học hiện đại phương Tây như thế nào trong thực tiễn kết hợp dung hòa Nho giáo với khoa học hiện đại trong tiến trình hiện đại hóa để đạt hiệu quả tối ưu – vừa kế thừa, phát huy được bản sắc văn hóa dân tộc, vừa tiếp nhận, phát triển được tinh hoa khoa học hiện đại, là vấn đề chưa được Trần Trọng Kim đưa ra giải đáp thỏa đáng, cho dù chủ trương kết hợp Nho giáo với khoa học hiện đại theo mô thức “Trung thể Tây dụng” kiểu Trương Chi Động của Trần Trọng Kim ít nhiều đã mang hơi hướng biện chứng giữa hiện đại và truyền thống/giữa Nho giáo và khoa học/giữa đức dục và trí dục. Nói cách khác, Trần Trọng Kim chưa đưa ra các thao tác cụ thể nhằm hiện thực hóa một cách hài hòa và hữu hiệu việc kết hợp luân lí đạo đức Nho giáo truyền thống với khoa học hiện đại phương Tây trong tiến trình hiện đại hóa. Giải pháp thỏa đáng vấn đề kế thừa, điều chỉnh, phát huy giá trị luân lí đạo đức Nho giáo truyền thống, đồng thời kết hợp hài hòa hữu hiệu luân lí đạo đức Nho giáo truyền thống với khoa học hiện đại trong thực tiễn hiện đại hóa, có lẽ vẫn còn là vấn đề có tính thời sự đang chờ lời giải từ những tìm tòi, nghiên cứu, sáng tạo của giới trí thức Việt Nam đương đại. Tuy nhiên, thiết nghĩ đi sâu tìm hiểu nghiên cứu nội dung tư tưởng, phương thức tư duy, thành quả lí luận và ưu nhược điểm mô thức văn hóa của Trần Trọng Kim và các nhà tư tưởng, triết học, văn hóa của Việt Nam trong quá khứ, lại cũng không phải là việc hoàn toàn vô nghĩa trong quá trình nhận thức và tìm kiếm chân lí của chúng ta.
03/02/2015
[1]Trường ĐHKHXH&NV Hà Nội
[2]Về lí luận hiện đại hóa tư tưởng Nho gia và mối quan hệ của nó với vấn đề hiện đại hóa Trung Quốc, xin xem Phương Khắc Lập, Tân Nho học hiện đại dữ Trung Quốc hiện đại hóa (Thiên Tân : Thiên Tân Nhân dân xuất bản xã, 1997) 方克立:《現代新儒學與中國現代化》(天津:天津人民出版社,1997年); Trịnh Gia Đống, Đương đại Tân Nho học luận hằng, “Tân Nho gia dữ Trung Quốc hiện đại hóa” (Đài Bắc : Quế Quan đồ thư cổ phần hữu hạn công ty, 1995), tr. 51-67. 鄭家棟:《當代新儒學論衡》,〈新儒家與中國現代化〉(臺北:桂冠圖書股份有限公司,1995年),頁51-67。
[3]Về động cơ, mục đích viết sách Nho giáo và nội dung hiện đại hóa tư tưởng và phương pháp triết học Nho giáo của Trần Trọng Kim trong sách Nho giáo, xin xem thêm Nguyễn Thọ Đức, “Quá trình hiện đại hóa tư tưởng Nho học của Tân Nho gia hiện đại Trung Quốc và ảnh hưởng của nó đến Nho học Việt Nam đầu thế kỉ XX : khảo sát qua trường hợp Lương Thấu Minh và Trần Trọng Kim”, trong Đại học Quốc gia Hà Nội – Trường Đại học KHXH&NV – Khoa Đông phương học, Nhật Bản & thế giới phương Đông (Kỉ yếu Hội thảo Quốc tế Đông phương học Việt Nam lần thứ tư) (Hà Nội : Nhà xuất bản Thế giới, 2009), tr. 241-261; Nguyễn Thọ Đức, “Về việc xác lập lại đạo thống Nho giáo và phê phán tư tưởng Chu Hi của Trần Trọng Kim trong Nho giáo”, trong Kỷ yếu Hội thảo Quốc tế Chu Hi với Nho học Đông Á, Trường Đại học KHXH&NV – Trung tâm Nghiên cứu Trung Quốc, Hà Nội, tháng 8 – 2010, tr. 106 – 163; Nguyễn Thọ Đức, “Trực giác, lí trí và phương pháp triết học Nho giáo – Luận về phương pháp triết học Nho giáo của Trần Trọng Kim trong Nho giáo”, Hội thảo khoa học Nghiên cứu Nho giáo Việt Nam : Quan điểm và phương pháp, Trung Tâm Nghiên cứu Trung Quốc – Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, tháng 12/2013.
[4]Trong Nho giáo, Trần Trọng Kim tiến hành hiện đại hóa tư tưởng Nho giáo ở cả hai phương diện “dân chủ” và “khoa học”, do khuôn khổ của bài viết, chúng tôi sẽ trình bày vấn đề hiện đại hóa tư tưởng Nho giáo về mặt “dân chủ” của Trần Trọng Kim trong Nho giáo ở một bài viết khác.
[5]Về động cơ mục đích viết sách Nho giáo và việc xác lập mô thức văn hóa tương lai của Trần Trọng Kim, xin xem thêm Nguyễn Thọ Đức, “Quá trình hiện đại hóa tư tưởng Nho học của Tân Nho gia hiện đại Trung Quốc và ảnh hưởng của nó đến Nho học Việt Nam đầu thế kỉ XX : khảo sát qua trường hợp Lương Thấu Minh và Trần Trọng Kim”, trong Đại học Quốc gia Hà Nội – Trường Đại học KHXH&NV – Khoa Đông phương học, Nhật Bản & thế giới phương Đông (Kỉ yếu Hội thảo Quốc tế Đông phương học Việt Nam lần thứ tư) (Hà Nội : Nhà xuất bản Thế giới, 2009), tr. 241-261.
[6]Trần Trọng Kim, Nho giáo (Hà Nội : Nhà xuất bản Văn hóa Thông tin, 2001), tr. 37.
[7]Nho giáo, sđd, tr. 38.
[8]Nho giáo, sđd, tr. 744.
[9]Nho giáo, sđd, tr. 741.
[10]Nho giáo, sđd, tr. 741.
[11]Nho giáo, sđd, tr. 18.
[12]Nho giáo, sđd, tr. 37.
[13]Nho giáo, sđd, tr. 40.
[14]Nho giáo, sđd, tr. 17.
[15]Nho giáo, sđd, tr. 19.
[16]Nho giáo, sđd, tr. 20.
[17]Nho giáo, sđd, tr. 742-743.
[18]Nho giáo, sđd, tr. 743.
[19]Nho giáo, sđd, tr. 743.
[20]Nho giáo, sđd, tr. 745.
[26]Trần Trọng Kim : “Mấy lời bàn với Phan tiên sinh về Khổng giáo”, Phụ nữ tân văn, Sài Gòn, s.60 (10.7.1930), in lại trong Trần Trọng Kim : Nho giáo, Phụ lục (Hà Nội : Nhà xuất bản Văn học, 2003), tr. 671 – 687.
[27]Trần Trọng Kim : “Mấy lời bàn với Phan tiên sinh về Khổng giáo”, Phụ nữ tân văn, Sài Gòn, s.60 (10.7.1930), in lại trongTrần Trọng Kim : Nho giáo, Phụ lục (Hà Nội : Nhà xuất bản Văn học, 2003), tr. 683.
[28]Trần Trọng Kim : “Mấy lời bàn với Phan tiên sinh về Khổng giáo”, Phụ nữ tân văn, Sài Gòn, s.60 (10.7.1930),in lại trongTrần Trọng Kim : Nho giáo, Phụ lục (Hà Nội : Nhà xuất bản Văn học, 2003), tr. 681.
[29]Trần Trọng Kim : “Mấy lời bàn với Phan tiên sinh về Khổng giáo”, Phụ nữ tân văn, Sài Gòn, s.60 (10.7.1930), in lại trongTrần Trọng Kim : Nho giáo, Phụ lục (Hà Nội : Nhà xuất bản Văn học, 2003), tr. 683.
[30]Trần Trọng Kim : “Mấy lời bàn với Phan tiên sinh về Khổng giáo”, Phụ nữ tân văn, Sài Gòn, s.60 (10.7.1930), in lại trongTrần Trọng Kim : Nho giáo, Phụ lục (Hà Nội : Nhà xuất bản Văn học, 2003), tr. 683.
[31]Trần Trọng Kim : “Mấy lời bàn với Phan tiên sinh về Khổng giáo”, Phụ nữ tân văn, Sài Gòn, s.60 (10.7.1930), in lại trongTrần Trọng Kim : Nho giáo, Phụ lục (Hà Nội : Nhà xuất bản Văn học, 2003), tr. 682.
[32]Trần Trọng Kim : “Mấy lời bàn với Phan tiên sinh về Khổng giáo”, Phụ nữ tân văn, Sài Gòn, s.60 (10.7.1930), in lại trongTrần Trọng Kim : Nho giáo, Phụ lục (Hà Nội : Nhà xuất bản Văn học, 2003), tr. 686.
[33]Trần Trọng Kim : “Mấy lời bàn với Phan tiên sinh về Khổng giáo”, Phụ nữ tân văn, Sài Gòn, s.60 (10.7.1930), in lại trongTrần Trọng Kim : Nho giáo, Phụ lục (Hà Nội : Nhà xuất bản Văn học, 2003), tr. 682.
[34]Trần Trọng Kim : “Mấy lời bàn với Phan tiên sinh về Khổng giáo”, Phụ nữ tân văn, Sài Gòn, s.60 (10.7.1930), in lại trongTrần Trọng Kim : Nho giáo, Phụ lục (Hà Nội : Nhà xuất bản Văn học, 2003), tr. 686.
[35]Trần Trọng Kim : “Mấy lời bàn với Phan tiên sinh về Khổng giáo”, Phụ nữ tân văn, Sài Gòn, s.60 (10.7.1930), in lại trongTrần Trọng Kim : Nho giáo, Phụ lục (Hà Nội : Nhà xuất bản Văn học, 2003), tr. 686.
[36]Trần Trọng Kim : “Mấy lời bàn với Phan tiên sinh về Khổng giáo”, Phụ nữ tân văn, Sài Gòn, s.60 (10.7.1930), in lại trongTrần Trọng Kim : Nho giáo, Phụ lục (Hà Nội : Nhà xuất bản Văn học, 2003), tr. 686.
[37]Phan Khôi: “Mời Trần Trọng Kim tiên sanh đi với Khổng tử Mạnh tử đến nhà M.Logique chơi, tại đó, chúng ta sẽ nói chuyện”, Phụ nữ Tân văn, Sài Gòn, s.54 (29.5.1930), trong Hồ sơ Phan Khôi, Lại Nguyên Ân sưu tầm, biên soạn, nguồn : http://www.viet-studies.info/Phankhoi/index.htm.
[38]Phan Khôi: “Mời Trần Trọng Kim tiên sanh đi với Khổng tử Mạnh tử đến nhà M.Logique chơi, tại đó, chúng ta sẽ nói chuyện”, Phụ nữ Tân văn, Sài Gòn, s.54 (29.5.1930), trong Hồ sơ Phan Khôi, Lại Nguyên Ân sưu tầm, biên soạn, nguồn : http://www.viet-studies.info/Phankhoi/index.htm.
[39]Phan Khôi: “Mời Trần Trọng Kim tiên sanh đi với Khổng tử Mạnh tử đến nhà M.Logique chơi, tại đó, chúng ta sẽ nói chuyện”, Phụ nữ Tân văn, Sài Gòn, s.54 (29.5.1930), trong Hồ sơ Phan Khôi, Lại Nguyên Ân sưu tầm, biên soạn, nguồn : http://www.viet-studies.info/Phankhoi/index.htm.
[40]Phan Khôi: “Mời Trần Trọng Kim tiên sanh đi với Khổng tử Mạnh tử đến nhà M.Logique chơi, tại đó, chúng ta sẽ nói chuyện”, Phụ nữ Tân văn, Sài Gòn, s.54 (29.5.1930), trong Hồ sơ Phan Khôi, Lại Nguyên Ân sưu tầm, biên soạn, nguồn : http://www.viet-studies.info/Phankhoi/index.htm.
[41]Phan Khôi: “Mời Trần Trọng Kim tiên sanh đi với Khổng tử Mạnh tử đến nhà M.Logique chơi, tại đó, chúng ta sẽ nói chuyện”, Phụ nữ Tân văn, Sài Gòn, s.54 (29.5.1930), trong Hồ sơ Phan Khôi, Lại Nguyên Ân sưu tầm, biên soạn, nguồn : http://www.viet-studies.info/Phankhoi/index.htm.
[42]Phan Khôi: “Mời Trần Trọng Kim tiên sanh đi với Khổng tử Mạnh tử đến nhà M.Logique chơi, tại đó, chúng ta sẽ nói chuyện”, Phụ nữ Tân văn, Sài Gòn, s.54 (29.5.1930), trong Hồ sơ Phan Khôi, Lại Nguyên Ân sưu tầm, biên soạn, nguồn : http://www.viet-studies.info/Phankhoi/index.htm.
[43]Trần Trọng Kim : “Mời Phan Khôi tiên sanh trở về nhà học của ta mà nói chuyện”, Phụ nữ tân văn, Sài Gòn, s.71 (25.9.1930); s.72 (2.10.1930); s.74 (16.10.1930), in lại trong Trần Trọng Kim : Nho giáo, Phụ lục (Hà Nội : Nhà xuất bản Văn học, 2003), tr. 687 – 720.
[44]Trần Trọng Kim : “Mời Phan Khôi tiên sanh trở về nhà học của ta mà nói chuyện”, Phụ nữ tân văn, Sài Gòn, s.71 (25.9.1930); s.72 (2.10.1930); s.74 (16.10.1930), in lại trong Trần Trọng Kim : Nho giáo, Phụ lục (Hà Nội : Nhà xuất bản Văn học, 2003), tr. 706.
[45]Trần Trọng Kim : “Mời Phan Khôi tiên sanh trở về nhà học của ta mà nói chuyện”, Phụ nữ tân văn, Sài Gòn, s.71 (25.9.1930); s.72 (2.10.1930); s.74 (16.10.1930), in lại trong Trần Trọng Kim : Nho giáo, Phụ lục (Hà Nội : Nhà xuất bản Văn học, 2003), tr. 706.
[46]Trần Trọng Kim : “Mời Phan Khôi tiên sanh trở về nhà học của ta mà nói chuyện”, Phụ nữ tân văn, Sài Gòn, s.71 (25.9.1930); s.72 (2.10.1930); s.74 (16.10.1930), in lại trong Trần Trọng Kim : Nho giáo, Phụ lục (Hà Nội : Nhà xuất bản Văn học, 2003), tr. 720.
[47]Trần Trọng Kim : “Mời Phan Khôi tiên sanh trở về nhà học của ta mà nói chuyện”, Phụ nữ tân văn, Sài Gòn, s.71 (25.9.1930); s.72 (2.10.1930); s.74 (16.10.1930), in lại trong Trần Trọng Kim : Nho giáo, Phụ lục (Hà Nội : Nhà xuất bản Văn học, 2003), tr. 710.
[48]Trần Trọng Kim : “Mời Phan Khôi tiên sanh trở về nhà học của ta mà nói chuyện”, Phụ nữ tân văn, Sài Gòn, s.71 (25.9.1930); s.72 (2.10.1930); s.74 (16.10.1930), in lại trong Trần Trọng Kim : Nho giáo, Phụ lục (Hà Nội : Nhà xuất bản Văn học, 2003), tr. 711.
[49]Trần Trọng Kim : “Mời Phan Khôi tiên sanh trở về nhà học của ta mà nói chuyện”, Phụ nữ tân văn, Sài Gòn, s.71 (25.9.1930); s.72 (2.10.1930); s.74 (16.10.1930), in lại trong Trần Trọng Kim : Nho giáo, Phụ lục (Hà Nội : Nhà xuất bản Văn học, 2003), tr. 711.
[50]Trần Trọng Kim : “Mời Phan Khôi tiên sanh trở về nhà học của ta mà nói chuyện”, Phụ nữ tân văn, Sài Gòn, s.71 (25.9.1930); s.72 (2.10.1930); s.74 (16.10.1930), in lại trong Trần Trọng Kim : Nho giáo, Phụ lục (Hà Nội : Nhà xuất bản Văn học, 2003), tr. 712.
[51]Trần Trọng Kim : “Mời Phan Khôi tiên sanh trở về nhà học của ta mà nói chuyện”, Phụ nữ tân văn, Sài Gòn, s.71 (25.9.1930); s.72 (2.10.1930); s.74 (16.10.1930), in lại trong Trần Trọng Kim : Nho giáo, Phụ lục (Hà Nội : Nhà xuất bản Văn học, 2003), tr. 713.
[52]Trần Trọng Kim : “Mời Phan Khôi tiên sanh trở về nhà học của ta mà nói chuyện”, Phụ nữ tân văn, Sài Gòn, s.71 (25.9.1930); s.72 (2.10.1930); s.74 (16.10.1930), in lại trong Trần Trọng Kim : Nho giáo, Phụ lục (Hà Nội : Nhà xuất bản Văn học, 2003), tr. 713.
[53]Trần Trọng Kim : “Mời Phan Khôi tiên sanh trở về nhà học của ta mà nói chuyện”, Phụ nữ tân văn, Sài Gòn, s.71 (25.9.1930); s.72 (2.10.1930); s.74 (16.10.1930), in lại trong Trần Trọng Kim : Nho giáo, Phụ lục (Hà Nội : Nhà xuất bản Văn học, 2003), tr. 715.
[54]Trần Trọng Kim : “Mời Phan Khôi tiên sanh trở về nhà học của ta mà nói chuyện”, Phụ nữ tân văn, Sài Gòn, s.71 (25.9.1930); s.72 (2.10.1930); s.74 (16.10.1930), in lại trong Trần Trọng Kim : Nho giáo, Phụ lục (Hà Nội : Nhà xuất bản Văn học, 2003), tr. 715.
[55]Trần Trọng Kim : “Mời Phan Khôi tiên sanh trở về nhà học của ta mà nói chuyện”, Phụ nữ tân văn, Sài Gòn, s.71 (25.9.1930); s.72 (2.10.1930); s.74 (16.10.1930), in lại trong Trần Trọng Kim : Nho giáo, Phụ lục (Hà Nội : Nhà xuất bản Văn học, 2003), tr. 718.
[56]Trần Trọng Kim : “Mời Phan Khôi tiên sanh trở về nhà học của ta mà nói chuyện”, Phụ nữ tân văn, Sài Gòn, s.71 (25.9.1930); s.72 (2.10.1930); s.74 (16.10.1930), in lại trong Trần Trọng Kim : Nho giáo, Phụ lục (Hà Nội : Nhà xuất bản Văn học, 2003), tr. 719.
[57]Trần Trọng Kim : “Mời Phan Khôi tiên sanh trở về nhà học của ta mà nói chuyện”, Phụ nữ tân văn, Sài Gòn, s.71 (25.9.1930); s.72 (2.10.1930); s.74 (16.10.1930), in lại trong Trần Trọng Kim : Nho giáo, Phụ lục (Hà Nội : Nhà xuất bản Văn học, 2003), tr. 707.
[58]Trần Trọng Kim : “Mời Phan Khôi tiên sanh trở về nhà học của ta mà nói chuyện”, Phụ nữ tân văn, Sài Gòn, s.71 (25.9.1930); s.72 (2.10.1930); s.74 (16.10.1930), in lại trong Trần Trọng Kim : Nho giáo, Phụ lục (Hà Nội : Nhà xuất bản Văn học, 2003), tr. 706.
[59]Trần Trọng Kim : “Mời Phan Khôi tiên sanh trở về nhà học của ta mà nói chuyện”, Phụ nữ tân văn, Sài Gòn, s.71 (25.9.1930); s.72 (2.10.1930); s.74 (16.10.1930), in lại trong Trần Trọng Kim : Nho giáo, Phụ lục (Hà Nội : Nhà xuất bản Văn học, 2003), tr.708.
[60]Trần Trọng Kim : “Mời Phan Khôi tiên sanh trở về nhà học của ta mà nói chuyện”, Phụ nữ tân văn, Sài Gòn, s.71 (25.9.1930); s.72 (2.10.1930); s.74 (16.10.1930), in lại trong Trần Trọng Kim : Nho giáo, Phụ lục (Hà Nội : Nhà xuất bản Văn học, 2003), tr.708.
[61]Trần Trọng Kim : “Mời Phan Khôi tiên sanh trở về nhà học của ta mà nói chuyện”, Phụ nữ tân văn, Sài Gòn, s.71 (25.9.1930); s.72 (2.10.1930); s.74 (16.10.1930), in lại trong Trần Trọng Kim : Nho giáo, Phụ lục (Hà Nội : Nhà xuất bản Văn học, 2003), tr. 691.
[62]Trần Trọng Kim : “Mời Phan Khôi tiên sanh trở về nhà học của ta mà nói chuyện”, Phụ nữ tân văn, Sài Gòn, s.71 (25.9.1930); s.72 (2.10.1930); s.74 (16.10.1930), in lại trong Trần Trọng Kim : Nho giáo, Phụ lục (Hà Nội : Nhà xuất bản Văn học, 2003), tr. 691.
[63]Trần Trọng Kim : “Mời Phan Khôi tiên sanh trở về nhà học của ta mà nói chuyện”, Phụ nữ tân văn, Sài Gòn, s.71 (25.9.1930); s.72 (2.10.1930); s.74 (16.10.1930), in lại trong Trần Trọng Kim : Nho giáo, Phụ lục (Hà Nội : Nhà xuất bản Văn học, 2003), tr. 693.
[64]Trần Trọng Kim : “Mời Phan Khôi tiên sanh trở về nhà học của ta mà nói chuyện”, Phụ nữ tân văn, Sài Gòn, s.71 (25.9.1930); s.72 (2.10.1930); s.74 (16.10.1930), in lại trong Trần Trọng Kim : Nho giáo, Phụ lục (Hà Nội : Nhà xuất bản Văn học, 2003), tr. 694.
[65]Trần Trọng Kim : “Mời Phan Khôi tiên sanh trở về nhà học của ta mà nói chuyện”, Phụ nữ tân văn, Sài Gòn, s.71 (25.9.1930); s.72 (2.10.1930); s.74 (16.10.1930), in lại trong Trần Trọng Kim : Nho giáo, Phụ lục (Hà Nội : Nhà xuất bản Văn học, 2003), tr. 695.
[66]Trần Trọng Kim : “Mời Phan Khôi tiên sanh trở về nhà học của ta mà nói chuyện”, Phụ nữ tân văn, Sài Gòn, s.71 (25.9.1930); s.72 (2.10.1930); s.74 (16.10.1930), in lại trong Trần Trọng Kim : Nho giáo, Phụ lục (Hà Nội : Nhà xuất bản Văn học, 2003), tr. 696.
[67]Trần Trọng Kim : “Mời Phan Khôi tiên sanh trở về nhà học của ta mà nói chuyện”, Phụ nữ tân văn, Sài Gòn, s.71 (25.9.1930); s.72 (2.10.1930); s.74 (16.10.1930), in lại trong Trần Trọng Kim : Nho giáo, Phụ lục (Hà Nội : Nhà xuất bản Văn học, 2003), tr. 698.
[68]Trần Trọng Kim : “Mời Phan Khôi tiên sanh trở về nhà học của ta mà nói chuyện”, Phụ nữ tân văn, Sài Gòn, s.71 (25.9.1930); s.72 (2.10.1930); s.74 (16.10.1930), in lại trong Trần Trọng Kim : Nho giáo, Phụ lục (Hà Nội : Nhà xuất bản Văn học, 2003), tr. 698.
[69]Về việc Trần Trọng Kim tiếp nhận ảnh hưởng tư tưởng của Lương Thấu Minh, xin xem Nguyễn Thọ Đức, “Quá trình hiện đại hóa tư tưởng Nho học của Tân Nho gia hiện đại Trung Quốc và ảnh hưởng của nó đến Nho học Việt Nam đầu thế kỉ XX : khảo sát qua trường hợp Lương Thấu Minh và Trần Trọng Kim”, trong Đại học Quốc gia Hà Nội – Trường Đại học KHXH&NV – Khoa Đông phương học, Nhật Bản & thế giới phương Đông (Kỉ yếu Hội thảo Quốc tế Đông phương học Việt Nam lần thứ tư) (Hà Nội : Nhà xuất bản Thế giới, 2009), tr. 241-261.
[70]Về tư tưởng văn hóa của Lương Thấu Minh, xin xem Nguyễn Kim Sơn, “Lương Thấu Minh và sự khởi xướng Tân Nho học hiện đại”, Tạp chí Khoa học Đại học Quốc gia Hà Nội, Chuyên san Khoa học Xã hội và Nhân văn, số 1, 2005.
[71]Lương Thấu Minh, Đông tây văn hóa cập kì triết học, (Bắc Kinh : Thương vụ Ấn thư quán, 1999), tr. 72. 梁漱溟:《東西文化及其哲學》(北京:商務印書館,1999年),頁72。
[72]Lương Thấu Minh, Đông tây văn hóa cập kì triết học, (Bắc Kinh : Thương vụ Ấn thư quán, 1999), tr. 72. 梁漱溟:《東西文化及其哲學》(北京:商務印書館,1999年),頁72。
[73]Về thuyết “tam thống” và thuyết “đạo đức lương tri tự ngã khảm hạm” của Mâu Tông Tam, xin xem Trịnh Gia Đống, Hiện đại Tân Nho học khái luận, Chương 1 mục 5 : Dân chủ, khoa học dữ Nho học đệ tam kì phát triển, (Nam Ninh : Quảng Tây Nhân dân xuất bản xã, 1990), tr.25-35 . 鄭家棟:《現代新儒學概論》,第一章〈作爲文化思潮的新儒學〉,第五節「科學、民主與儒學第三期發展」(南寧:廣西人民出版社,1990年),頁25-35;Trịnh Gia Đống, Đương đại Tân Nho học luận hằng, “Tân Nho gia dữ Trung Quốc hiện đại hóa” (Đài Bắc : Quế Quan đồ thư cổ phần hữu hạn công ty, 1995), tr. 51-67. 鄭家棟:《當代新儒學論衡》,〈新儒家與中國現代化〉(臺北:桂冠圖書股份有限公司,1995年),頁51-67。
[74]Xin xem Nguyễn Thọ Đức, “Tìm hiểu xu hướng hiện đại hóa tư tưởng Nho giáo trong “Khổng học đăng” của Phan Bội Châu”,Tạp chí Hán nôm, số 6, năm 2011.
[75]Vi Chính Thông, Nho gia với Trung Quốc ngày nay (Hà Nội : Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, 1996), tr. 237.
[76]Nho giáo, Tựa, sđd, tr. 8.
[77]Xin xem Nguyễn Thọ Đức, “Tìm hiểu xu hướng hiện đại hóa tư tưởng Nho giáo trong “Khổng học đăng” của Phan Bội Châu”,Tạp chí Hán nôm, số 6, năm 2011.
[78]Về vấn đề này, xin xem thêm Vi Chính Thông, “Sự tấn công của khoa học vào tư tưởng nhân văn Trung Quốc”, trong Nho gia với Trung Quốc ngày nay(Hà Nội : Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, 1996), tr. 235 - 249.