Rồi Bính tì tì uống tiếp. Bỗng Bính đặt chén xuống trỏ vào mặt tôi nói như quát:
- Thằng đểu, suýt nữa thì ông mắc lừa mày. Thằng Cầm cũng bằng tao.
Và hai đứa cười ha hả cụng ly uống một hơi như hai nhân vật Đông Chu liệt quốc.
5. Sau họa Kinh Bắc tinh thần Hoàng Cầm suy sụp đến mức nhiều bạn anh thất vọng nghĩ rằng nhà thơ vốn tâm hồn yếu đuối kia khó có thể còn tiếp tục nổi con đường chữ đầy chông gai của mình.
Phùng Quán có kể lại:
"Văn hữu và thi hữu Bình Trị Thiên ra Hà Nội nhờ tôi dẫn đến thăm thi sĩ Hoàng Cầm. Họ hỏi anh: "Dạo này anh có làm thơ không?". Anh lắc đầu. "Anh có đọc thơ không?". Anh lắc đầu. Anh nói sau một hồi lâu im lặng: "Tôi không còn làm gì được nữa. Tinh thần tôi suy sụp"
(1)
Quán là một tâm hồn sôi nổi và ưa những cử chỉ hào hùng. Và Quán đã xé một mảnh giấy bao xi măng lấy than viết ứng tác một bài thơ dán lên tường nhà Hoàng Cầm.
...
Tôi tin núi tàn
Tôi tin sông lấp
Nhưng tôi không thể nào tin
Một nhà thơ như anh
Lại ngã lòng suy sụp(2)
...
Tuy nói mạnh thế, nhưng tôi biết trong thâm tâm lòng tin của Quán đã lung lay lắm. Quán đạp chiếc xe con vịt đến tìm tôi:
- Anh Cầm vốn tin anh, việc động viên anh Cầm lẽ ra không phải việc của em mà của anh!
Tôi cố trình bày nhưng Quán không chịu nghe. Quán không hiểu rằng một thái độ yên lặng đầy tận tâm có khi còn cần cho việc hồi sức một tâm hồn đau yếu hơn những lời thuyết phục hùng hồn.
Tôi cũng lo. Rất lo. Nhưng kinh nghiệm 30 năm trò chuyện với người bạn sâu sắc và điềm đạm là Bờ Hồ Gươm đã dạy tôi giá trị của những phút thiền lặng cũng như sự can đảm và cứu rỗi của chữ.
Tôi không tin một người đắm đuối thơ như Cầm lại có thể bỏ cuộc.
Và con người bạc nhược kia đã đứng dậy với tư cách một người chữ can đảm.
Sau năm sáu tháng gì đó, Cầm đưa tôi một bài thơ cung điệu còn chuệch choạc nhưng đã nghe thấy tiếng cánh đập của chữ.
Con chim họa mi Kinh Bắc lại vươn cổ bắt đầu hót.
6. Sinh thời, Đặng Đình Hưng thường có một cách đối xử không công bằng với Hoàng Cầm. Bao giờ Hưng cũng đánh giá Cầm như một nhà thơ bình dân "chiếu nhì".
Tôi rất thông cảm với gánh nặng kỳ thị nó đè nặng nhiều năm trên lưng nhà thơ tài năng, con cháu Đặng Trần Côn đất Chương Mỹ này, nhưng tôi có cảm giác thành công quá chóng vánh và hư danh làm Hưng chóng mặt.
Tôi đã nhiều lần thẳng thừng với Hưng: "Trong thơ chiếu nhất chiếu nhì không quan trọng, cái quan trọng là tạo được cho mình một tiếng nói "khác" thiên hạ".
Nhưng Hưng không chịu và "cố tình vu" cho tôi là bênh Hoàng Cầm.
Tôi có cảm giác Cầm cũng biết điều này, nhưng anh vốn là một người mát tính và tốt nhịn. Chỉ có một lần, tôi chứng kiến Hoàng Cầm nổi nóng thực sự.
Thời kỳ này Hưng đã có nhà ở Giảng Võ và đã có đồng ra đồng vào rủng rẻng do Đặng Thái Sơn gửi về. Hưng bỗng nảy ra sáng kiến nhắn anh em tập trung tất cả tác phẩm lại để Hưng viết lời giới thiệu và bỏ tiền ra in.
Lẽ dĩ nhiên tôi phản đối, phản đối quyết liệt. Để làm dịu không khí, Cầm lại ngâm một số câu thơ. Chẳng biết có phải Hưng muốn sửa sai không? Anh gật gù:
- Những câu thơ mới viết của Hoàng Cầm sắc nước hẳn...
Chưa bao giờ tôi thấy Hoàng Cầm giận như thế.
Mặt anh đỏ lên và anh nói dằn từng tiếng:
- Đây không phải những câu thơ mới làm, đây là những câu thơ trong phần kết tập Kinh Bắc tôi đã đưa ông xem từ 30 năm trước.
Bao giờ thì các nhà thơ mới có thói quen đọc cho nhau một cách tận tình, đối xử ân cần và chăm chút nhau trên đường trường gian nan của nghiệp chữ.
7. Không phải tôi không biết Hoàng Cầm có nhiều nhược điểm.
Bản thân nhiều nhà thơ lấp lánh trên vòm trời chữ nhân loại không phải ai cũng hoàn hảo, một số còn bất hảo như Villon.
Và tôi rất mê câu nói của Đức Phật:
"Biển khổ mênh mông quay đầu thấy bến".
Tác phẩm chính là những bến quay đầu của họ. Con người nghệ sĩ có thể lỗi lầm (lẽ dĩ nhiên nếu họ không lỗi lầm thì hay quá!) nhưng một tác phẩm chân chính bao giờ cũng thánh thiện, cũng cứu rỗi. Nó là tiếng khẩn thiết kêu gọi thanh cao, lời vật nài phần người bao giờ cũng lâm nguy trong một con người.
Cho đến khi viết những dòng này, hình như tôi vẫn chưa hết bênh Hoàng Cầm. Nhưng suy cho đến cùng, việc bênh thật không cần thiết, có thể còn lố bịch. Hoàng Cầm, Nguyễn Bính cũng như mọi nhà thơ thực tài khác không cần ai bênh, bản thân họ đã có một đội vệ sĩ đông đảo, hùng mạnh, đó là những câu thơ của họ.
Và những câu như:
Em đứng nhìn theo em gọi đôi
...
Em đừng lớn nữa chị đừng đi
...
Lớn lên em đừng tìm mẹ phía cơn mưa(1)
đủ sức, thừa sức bênh Hoàng Cầm lâu dài, rất lâu dài trong lịch sử thơ Việt Nam thế kỉ XX, và thơ nói chung.
2 - 1997
(*) Lê Đạt(1929 – 2008): Nhà thơ, tên thật là Đào Công Đạt, quê Bắc Giang, sống tại Hà Nội.
Nguồn: Bài viết nhân dịp Hoàng Cầm 75 tuổi.
(1) Mỗi bài Haiku gồm 17 âm tiết.
(1) (2) Thơ Phùng Quán, trang 51.
(1) Về Kinh Bắc của Hoàng Cầm.