Góc nhìn văn hóa
Tìm thấy cuốn ‘Phụ nữ vận động”, một trong 13 cuốn sách của Quan hải tùng thư, 1928

Gần đây, bạn Kim Hiền, hiện làm việc tại Pháp, nhân đến đọc tại Thư viện Quốc gia Pháp, đã tìm thấy cuốn “Phụ nữ vận động” do Quan hải tùng thư xuất bản tại Huế, 1928.
Theo hồi ký Nhớ nghĩ chiều hôm (1989) của Đào Duy Anh thì chính ông đề xuất lập Quan hải tùng thư như cơ quan xuất bản của Tân Việt cách mạng đảng nhằm “gieo vào tâm trí của thanh niên ta một ít kiến thức sơ đẳng về chủ nghĩa Mác, lẫn với một ít kiến thức mới về khoa học, nhất là khoa học xã hội, là những điều cần thiết để hiểu chủ nghĩa Mác dễ hơn, để nhắm các độc giả của tùng thư mà phát triển đảng” (Đào Duy Anh /1989/: Nhớ nghĩ chiều hôm, hồi ký, bản tái bản, Tp.HCM.: Nxb. Trẻ, tr. 33). Cũng theo hồi ký dẫn trên, tính đến tháng 7.1929, khi Đào Duy Anh bị bắt giam, thì Quan hải tùng thư đã in và phát hành 13 cuốn:
1/ Trí khôn, Trần Đình Nam biên soạn;
2/ Lich sử các học thuyết kinh tế, quyển thượng, Đào Duy Anh lược dịch;
3/ Đông Tây văn hóa phê bình, quyển thượng,
4/ Đông Tây văn hóa phê bình, quyển hạ, hai cuốn này đều do Ngạc Am Võ Liêm Sơn biên dịch;
5/ Thế giới cường quốc chính thể, do Trần Mạnh Nhẫn biên dịch;
5/ Hài văn, tập sáng tác của Ngạc Am Võ Liêm Sơn;
7/ Phụ nữ vận động, Đào Duy Anh dịch;
8/ Lịch sử nhân loại, Đào Duy Anh biên dịch;
9/ Xã hội luận, Phan Đăng Lưu dịch;
10/ Lịch sử các học thuyết kinh tế, quyển hạ, Phan Đăng Lưu biên dịch;
11/ Tôn giáo là gì?
12/ Xã hội là gì?
13/ Dân tộc là gì ? ba cuốn sau cùng này (hồi ký Đ.D.A. không kể rõ tên người dịch) chủ yếu biên dịch theo sách của Boukharine. (Theo: Đào Duy Anh /1989/: Nhớ nghĩ chiều hôm, hồi ký, bản tái bản, Tp.HCM.: Nxb. Trẻ, tr. 33-39).
Bản Phụ nữ vận động mà bạn Kim Hiền tìm được tại Thư viện quốc gia Pháp, là bản microfiche, tức là bản chụp trên film đen trắng (âm bản); trang bìa ghi như sau:
Phụ nữ vận động, Dã Lan Nữ Sĩ biên dịch, Quan hải tùng thư, 1928. In lần thứ nhất, tại nhà in Tiếng Dân, đường Đông Ba, Huế, Giá bán: 0$20
(Tôi tra trên trang web Thư viện quốc gia, 31 Tràng Thi, Hà Nội, cũng thấy có tư liệu này, ký hiệu S87. 912, có lẽ là bản microfiche do Thư viện quốc gia Pháp in tráng gửi tặng).
Sách ghi tên người biên dịch là Dã Lan Nữ Sĩ, còn trong hồi ký thì Đào Duy Anh viết rõ sách này do chính ông dịch từ một cuốn trong tủ sách Đông phương văn khố của Trung Hoa.
Vậy, Dã Lan Nữ Sĩ là một trong số các bút hiệu của Đào Duy Anh.
Nhân đây nói thêm, trên báo Tiếng dân những năm 1927-1929, chúng tôi thấy có khá nhiều bài báo ký bút danh Dã Lan Nữ Sĩ, nhất là trong mục “Phụ nữ diễn đàn” của báo này. Như vậy có thể khẳng định đó là những bài báo do Đào Duy Anh viết.
Người ta biết, Đào Duy Anh là một trong những người tham gia sáng lập báo Tiếng dân, và đảm nhận vai trò Thư ký tòa soạn (tức Chủ bút) báo này từ khởi đầu đến tháng 10/1929. Loạt bài báo kể trên - sẽ cần đề cập trong một nghiên cứu riêng - cho thấy đóng góp của Đào Duy Anh trong việc cập nhật vào xã hội Việt Nam những hiểu biết mới của thế giới bên ngoài về vấn đề phụ nữ. Một phần khá lớn những hiểu biết ấy là từ cuốn sách Phụ nữ vận động (hiểu theo thuật ngữ ngày nay là “phong trào phụ nữ”) do chính ông biên dịch và xuất bản trong tủ sách của Quan hải tùng thư.
Xin lưu ý bạn đọc là bản đánh máy giữ nguyên cách viết chính tả các từ ngữ đương thời (cuốn “Phụ nữ vận động” hiện vẫn còn thiếu từ trang từ trang 35-41). Phần 11 chú thích ở cuối bản "Phụ nữ vận động" được Lại Nguyên Ân bổ sung.
Trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc.
LẠI NGUYÊN ÂN, NGUYỄN KIM HIỀN
Bìa cuốn sách "Phụ nữ vận động"
LỆ NGÔN
- Sách này là biên dịch theo các bài luận thuyết và khảo cứu chữ Pháp và chữ Hán
- Đem các bài ấy, bỏ những đoạn phiền tạp, lược những điểm yếu ước thêm bớt ít nhiều, chỉnh đốn lại thành những bài dễ hiểu
- Mục đích sách này là cốt để giúp tài liệu cho những nhà nghiên cứu vấn đề phụ nữ. Bởi vậy nên không sắp đặt theo thể đoạn, chỉ là những bài riêng mà thôi
- Sách này đã không phải là sách chuyên luận thì không có thể xét về vấn đề phụ nữ cho chuẩn được (nói thiên về vận động tham chính hơn), xin độc giả lượng cho.
D. L. cẩn chí
I. PHỤ NỮ VẬN ĐỘNG
Vấn đề phụ nữ thực ra thì phát sinh từ hồi Đại-cách-mạnh Pháp, mà Đại-cách-mạnh Pháp là do ảnh hưởng của học thuyết Rút-xô (Rousseau) (1) mà gây nên. Truy nguyên cho xa nữa thì Rút-xô cũng chịu ảnh hưởng của tư tưởng Luy-tê (Luther) (2) là nhà thủ lãnh cuộc Tôn-giáo-đại-cách-mạnh hồi thế kỷ thứ 16.
Chủ nghĩa của Rút-xô là chủ nghĩa tự nhiên, tư tưởng của Rut-xô là tư tưởng tự do bình đẳng, nhân quyền dân quyền, chính là cái căn bản bài Tuyên ngôn năm 17893. Kể thực ra thì Rút-xô không phải chủ trương nữ quyền, chỉ nói rằng người ta khi mới sinh ra đều là thiện cả, sau vì xã hội tổ chức, vì oai quyền, qui phạm, nhân tập mà mất cái tính tự do; nhưng theo tư tưởng ấy thì đối với đàn bà có thể nhận rằng địa vị đàn bà kém địa vị đàn ông là một cái tệ sinh ra bởi xã hội. Hai chữ nữ quyền xuất hiện là vì lẽ đó.
Hồi năm đầu Cách-mạnh Pháp là năm 1789, một bọn phụ nữ lấy bà Mê-ri-cua (Théroigne de Méricourt) (3) và bà La-công-ba (Rosa Lacombe) (4) làm lãnh tụ mà đề xướng vấn đề nam nữ bình quyền về chính trị ở Quốc dân nghị hội.
Đến năm sau (1790) tại tạp chí Ô-bột-nhi bà Đờ-gu (Degouze) (5) đăng một bài đề mục là “Sự thừa nhận cho phụ nữ được có công quyền” (Admission des femmes au droit de cité) cực lực chủ trương yêu cầu cho nam nữ được bình quyền làm công dân. Đối với sự vận động ấy, trong phe đàn ông, trừ nhà triết học Công-đốc-xê (Condorcet) (6) có góp tiếng hô hào cùng phụ nữ, còn trong xã hội ai ai cũng chỉ chê cười cho là điên dại. Hồi ấy đàn bà lại bị cấm không được tới câu lạc bộ (club) cùng các chỗ công chúng tập hội; chính các nhà thủ lĩnh cách mạnh như Mi-ra-bô (Mirabeau) (7) và Rô-biết-pi-e (Robespierre) (8) cũng đều phản đối sự vận động của phụ nữ. Nhân vì thế mà năm 1793 bà Đơ-gu bị lên đoạn đầu đài, thế là phụ nữ đoàn phải giải tán vậy.
Sự vận động phụ nữ ở Pháp đã phải thất bại, nhưng ảnh hưởng đã qua eo biển mà sang đất nước Anh, rồi sự vận động phụ nữ cả Âu châu là bắt đầu từ đó. Người có danh trong cuộc vận động nầy là nữ sĩ Ôn-tô-nê-cáp (Mary Wollstonecraft, 1759-1797). Năm 1791 nữ sĩ đã xuất bản quyển “Nữ quyền biện hộ luận” (Justification des droits de la femmes) để phản đối cái thuyết nam tôn nữ ty; về phương diện kết hôn và sinh hoạt, nhất thiết chủ trương sự trai gái ngang nhau, giáo dục thì trai gái đều học với nhau, chức nghiệp thì đàn ông làm cái gì đàn bà được làm cái ấy, rồi theo đó mà xướng đến quyền kinh tế độc lập của phụ nữ cùng yêu cầu cho phụ nữ được tham dự vào Nghị viện.
Chủ nghĩa của nữ sĩ thật có cái tinh thần nhiệt liệt, làm chuyển động cả trong tư tưởng giới bấy giờ. Tuy rằng so với ngày nay thì chưa thể mười phần hoàn thiện, nhưng đương buổi tín điều của giáo hội, qui định của pháp luật bắt ép phụ nữ phải tuyệt đối phục tòng, mà nữ sĩ đứng giậy tuyên bố tôn chỉ mà phản kháng cái nhân tập bó buộc như thế, cái công lao của nữ sĩ đối với lịch sử phụ nữ thật không nhỏ vậy.
Trong các nhà tư tưởng về phụ nữ vận động, ta lại nên chú ý về Xi-ta-Yên phu nhân (Mme Staël, 1766-1817) và Jốc-jơ-xăng phu nhân (Mme George Sand, 1804-1876). Xi-ta-Yên có làm quyển “Cô-rin” (Corrine), Jốc-jơ-xăng sau có làm quyển “An-đê-a-na” (Indiana) và quyển “Va-lăng-tinh” (Valentine), đều là miêu tả những sự bất bình trong vị trí đàn bà. Đối với Ôn-tô nữ sĩ thì có khác, vì hai phu nhân dùng lối tiểu thuyết mà công biểu vấn đề, khiến kẻ đọc được nhiều thì ảnh hưởng vang đi cũng rộng. Vả chăng Jốc-jơ-xăng phu nhân vốn người lại có tính tình kịch liệt, hàng ngày thường phản đối những tục lệ, nhân tập, pháp luật, tập quán rất là hăng hái nên không kể đến tiểu thuyết của phu nhân, chỉ xem một đời sinh hoạt của phu nhân cũng đủ ảnh hưởng sâu xa trong tư tưởng cảm tình của phụ nữ.
Âu-vang (R. Owen, 1771-1858)(9) và Tôn-xông (William Thompson) cũng có công trong sự vận động phụ nữ lắm. Âu-vang là tỉ tổ của chủ nghĩa xã hội nước Anh, các tư tưởng và các cuộc vận động về xã hội là căn nha tại tiên sinh; các tư tưởng của tiên sinh về vấn đề phụ nữ ảnh hưởng sâu xa lắm. Tôn-xông thì là đồ đệ của Âu-vang; hồi 1852 Tôn-xông có làm một thiên văn tự biện hộ cái quyền bình đẳng của đàn bà với đàn ông rất là thống thiết, đại khái nói rằng: đều yêu cầu rất đơn giản, rất khiêm tốn của đàn bà là được hưởng tự do bình đẳng, được tự do mà khai phát tài năng về tinh thần, về nhục thể, được hưởng phương pháp giáo dục bình đẳng với đàn ông, được tự do làm những việc đàn ông có quyền làm, được đồng đẳng với đàn ông trong xã hội và gia đình, trên chính trị, trên pháp luật, tóm lại là yêu cầu cho đàn ông đàn bà cùng nhau theo một cái đạo đức tổ chức mà thôi. Những kiến giải của Tôn-xông so với tư tưởng ngày nay về vấn đề phụ nữ thật đã cao và rõ ràng lắm rồi.
Sau nữa có sách của Min-lơ (Stuart Mill, 1806-1873) cũng có giá trị nhiều lắm. Min-lơ cũng là về một phái triết học công lợi ở Anh với Băng-tâm (Bentham, 1748-1832), ông chủ trương rằng đàn ông đàn bà phải cùng nhau tham dự chính trị. Năm 1865 ông được cử làm Nghị viên, năm 1867 tại Nghị hội ông đệ trình một tờ thỉnh nguyện có nhiều đàn bà ký tên; sau lại có một tờ thỉnh nguyện thứ nhì, có cả đàn ông đàn bà ký. Ở Hạ nghị viện phải mở cuộc đại diễn thuyết thì ông đứng cãi rằng trong phép tuyển cử thi hành từ năm 1832 chỉ nói “Người dân” chứ không nói rõ đàn ông đàn bà; trong chữ “người dân” đó là bao hàm cả ý nghĩa đàn ông đàn bà, không có ý phân biệt; song bị đa số nghị viên bỏ phiếu phản đối, ông tức giận, đến năm 1869 bèn đem các ý kiến biên tập lại thành quyển sách đề là “Sự phục tòng của đàn bà”,(10) lấy tâm lý tài năng đàn ông đàn bà mà thuyết minh rằng đàn ông bắt đàn bà phục tòng là một điều không hợp lẽ, cái văn minh của đàn ông về trước là cái văn minh tàn bạo giã man.
Vì Min-lơ trong xã hội đứng vào địa vị trọng yếu nên quyển sách “Sự phục tòng của đàn bà” kia mới ra đời thì đã lan khắp cả mọi nơi như gió bay, nước chảy, cái khí lực của sự vận động phụ nữ tăng tiến lên bội phần. Ảnh hưởng bộ sách ấy cũng đủ bổ cứu cho sự thất bại của ông ở Nghị viện vậy.
Từ trước là nói về sự vận động phụ nữ trong thế kỷ 19 duyên cách và phát đạt thế nào. Gần đây nhân vì sự sản nghiệp cách mạng(11) trong xã hội, cái ảnh hưởng đối với sự vận động phụ nữ thật to tát khôn lường.
Ông Khách-nhĩ Sâm làm quyển “Hôn-thú cách mạnh” có nói về sản nghiệp cách mạnh làm cho sự sinh hoạt của phụ nữ phải biến hóa thế nào. Đại khái rằng: vào khoảng nửa sau thế kỷ 18 phát minh được thứ máy dệt, thành đem công nghiệp gia đình qui cả vào công xưởng, sau lại phát minh được nhiều cơ khí khác, trong xã hội sinh ra sản nghiệp mới không biết chừng nào, mà trong công nghiệp đều dùng sức máy để thay sức người; sinh sản đã mau lại rẻ, thành ra các công nghiệp nhỏ trong gia đình xưa không đủ địch lại được với đại công nghiệp, bấy giờ đàn bà trong nhà không biết làm gì cũng phải đâm vào các xưởng thợ như đàn ông vậy.
Ấy chức nghiệp của đàn bà đã khoáng đại như vậy thì tự nhiên sinh ra cạnh tranh với chức nghiệp của đàn ông, mà trong các việc làm, phụ nữ thường có nhịp để yêu cầu bình đẳng; đấy thực là cái bội cảnh trong sự sinh hoạt, mà cũng là cái cơ hội rất hay cho sự vận động phụ nữ.
Chính hồi nầy thì cá nhân chủ nghĩa bột khởi mà cái ảnh hưởng đối với mối nam nữ quan hệ thật là mạnh mẽ, khiến cho phụ nữ đối với phương diện đạo đức lại càng hăng hái mà yêu cầu phế triệt cái yếu tố phân biệt đàn ông đàn bà ra hai bậc đi. Nói cho đúng thì những sự vận động kể trên cũng đều bởi cái bội cảnh của thời đại mà tự nhiên nhi nhiên phát sinh ra thế.
Tự khi Âu chiến đến giờ sự vận động phụ nữ lại càng thêm hăng hái nhiều lắm, mà trên đường thực tế cũng đã tạm có thể bình đẳng ít nhiều.
Cái phong trào phụ nữ vận động trước kia cũng đã tràn đến Úc châu và Á đông rồi, nhưng cái cuộc đại biến loạn nầy (Âu chiến) đảo điên mặt địa cầu trong cả các phương diện, nhất là về phương diện sinh hoạt, làm cho vấn đề ấy lại thêm bùng bột trào lên, mà lại lan đến cả các dân tộc hèn yếu, như các nước thuộc địa, cùng thuộc địa tự trị của liệt cường Âu Mỹ. Xét đều ấy có hai lý do như sau này:
Một là vì trong khi chiến tranh đàn ông đều phải tùng chinh, ở nhà, về xã hội, công thương, giáo dục, cùng các việc công cộng đàn bà phải thay đàn ông hết cả, cái công của đàn bà không phải nhỏ, mà dó cũng là một nhịp để chứng rõ rằng tri thức và năng lực đàn bà không phải kém gì đàn ông, phụ nữ vận động sau Âu chiến bành trướng và kịch liệt thêm nhiều, đó là một lẽ; vả lại khi chiến tranh rồi, ở thế giới cái khuynh hướng về dân chủ chính trị cũng càng thêm mạnh, nhiều nước Đế quốc lão đại đã phải đổ mà lập nước Cộng hòa, dân quyền đã khuếch trương thì nữ quyền cũng tăng tiến, phụ nữ vận động sau Âu chiến bành trướng và kịch liệt thêm nhiều, đó là hai lẽ.
Bây giờ xin tóm cả lại mà nói rằng: Phụ nữ chủ nghĩa, khi mới phát sinh thì chỉ yêu cầu cho đàn bà được có quyền công dân như đàn ông, nghĩa là yêu cầu bình đăng trên chính trị, sau sự sinh hoạt trong xã hội một ngày một thay đổi, gây thành nhiều vấn đề mới khó khăn, nên các yêu cầu của phụ nữ chủ nghĩa bây giờ bao quát cả ba phương diện chức nghiệp, chính trị và đạo đức. Ta có thể nói trong một câu rằng: đều yêu cầu của phụ nữ là phế truất hết thảy cái phân biệt đàn ông đàn bà trên xã hội và đạo đức, cho hai bên chỉ xem nhau như người một hàng, như trong cùng một giai cấp.
Phụ nữ chủ nghĩa mà phát sinh ra như đã xét ở trên, là bởi cái văn minh của nhân loại đã đến trình độ ấy, nghĩa là dân quyền phát đạt, công nghệ thịnh hành, mà cái thế nó không phát sinh ra không được, thực là một lẽ tất nhiên của lịch sử vậy.
II. HAI TRÀO LƯU LỚN VỀ VẤN ĐỀ PHỤ NỮ
Khảo về phụ nữ vận động, đã nói rằng phụ nữ chủ nghĩa khi mới manh nha thì chỉ chuyên trọng về đường chính trị, mà đến sau vì có sản nghiệp cách mạng rồi mới bao quát cả phương diện chức nghiệp và đạo đức cùng với chính trị. Song không phải là cái khuynh hướng xã hội ấy đã thôn tính cái khuynh hướng chính trị rồi đâu, hiện nay trên mặt địa cầu hãy còn rành riệt hai cái khuynh hướng ấy chia ra hai hệ khác nhau, mỗi hệ có cơ quan hành động, có phạm vi thổ địa rõ ràng, mà hai bên thế lực vẫn mạnh cả, chưa dễ bên nào thắng được bên nào.
Băng-quyết nữ sĩ (Pankhusst) nước Anh làm bộ sách “Quyền phụ nữ đầu phiếu” cùng Ruyết-bơ-rê nữ sĩ (Ruth Brè) làm bộ sách “Bảo hộ mẫu quyền” là hai nhà nữ kiệt có tiếng nhứt trong sự vận động phụ nữ, là hai bà lãnh tụ cho hai hệ về sự vận động phụ nữ trong thế giới. Băng-quyết nữ sĩ là lãnh tụ hệ Anh-Mỹ (groupe Anglo-Américane), Ruyết-bơ-rê là lãnh tụ hệ Điều-Tư (Teuton-Scandinave). Hệ thứ nhất thì khẩu hiệu là: “Phụ nữ đầu phiếu”, hệ thứ hai thì khẩu hiệu là: “Bảo hộ mẫu quyền”; hệ trước thì chú trọng tại vấn đề chính trị, hệ sau thì chú trọng tại vấn đề quyền lợi cá nhân; hệ trước có thể gọi là chuyên về sự vận động cho phụ nữ thượng lưu và trung lưu, hệ sau có thể gọi là chuyên về sự vận động cho phụ nữ hạ cấp; hệ trước vận động là cốt về chính trị cách mệnh, hệ sau vận động là cốt về kinh tế cách mệnh; hệ trước thì thiết yếu về tân chánh trị, tân quyền lợi, hệ sau thì thiết yếu về tân đạo đức, tân nghĩa vụ. Hai bên khác nhau là thế, tuy nhiên, đối với lịch sử phụ nữ vận động, phụ nữ giải phóng, cái giá trị và công dụng cũng như nhau: ấy ví như hai con mắt mà nhìn một vật, như hai lỗ tai mà nghe một tiếng, hai bên như nhau chứ không thể gọi bên nào hơn bên nào kém được.
Bây giờ ta thử xét duyên cớ làm sao mà lại chia ra hai hệ như thế.
Nước Anh, nước Mỹ, nước Pháp là ba nước cách mạnh chính trị sớm hơn nhất. Quân chủ chuyên chế đã đổ rồi, Anh lập chính thể Quân chủ lập hiện, còn Mỹ và Pháp thì lập chính thể Cộng hòa, phát biểu dân quyền thì có chế độ đại nghị. Dân đã có quyền thì đàn bà cũng là dân, cũng phải có quyền. Đàn ông được cử đại biểu vào Nghị viện thì đàn bà cũng phải được cử đại biểu vào Nghị viện để binh vực quyền lợi cho mình. Vả chăng đồng thời trong xã hội lấy chính thể dân chủ đại nghị làm hoàn toàn hợp nghĩa với bình đẳng tự do, đàn bà muốn cùng đàn ông hưởng được quyền bình đẳng tự do thì cũng phải vận động cho người bọn mình được có ghế trong Nghị trường, vì thế mà thành có phong trào phụ nữ tham chính. Xem hiệu quả của phong trào ấy thì cũng đã được ít nhiều. Ở Mỹ đã có mấy châu cho đàn bà được quyền tham chính, còn ở Anh thì trong năm 1907 và 1908 bọn vận động phụ nữ cũng mấy lần đến Nội các thỉnh nguyện, đến năm 1910 ở Hạ nghị viện xuất nghị án qui định quyền tham chính của đàn bà, nhưng vẫn có giới hạn. Ở Pháp thì đến năm 1919 mới thừa nhận quyền tham chính cho đàn bà.
Các nước về dân tộc Điều-đốn (Teutons) và Tư-kham-dịch-na-duy (Scandinaves) thì chánh thể quân chủ chuyên chế mãi gần đây đương còn dai dẳng, nên dân gian không được hưởng quyền đại nghị, thành ra vấn đề phụ nữ tham chính không thể xuất hiện được. Trong khoảng ấy thì chủ nghĩa xã hội, nhân vì sản nghiệp cách mạnh trong kinh tế giới mà phát sinh ra, nhân dân tự nhiên giác ngộ, còn các nhà trí thức cũng hiểu rằng tình cảnh sinh hoạt trong xã hội ở các nước theo chánh thể đại nghị cũng không hơn gì các nước quân chủ, thành ra trước đối với chính thể đại nghị, có vô hạn tín ngưỡng, vô hạn hi vọng, mà nay thì hi vọng cũng tan, tín ngưỡng cũng mất. Nói riêng về những người chủ trương phụ nữ vận động thì thấy chánh thể đại nghị cũng không có hiệu lực gì, bèn không theo đường ấy mà bỏ đi tìm đường khác. Bởi vậy ở các nước Đức, Nã-uy, Thụy-điển, Đan-mạch, các nhà chủ trương nữ quyền không vận động ở chính trị mà vận động ở xã hội, không thiết yếu ở phụ nữ tham chính mà thiết yếu ở phụ nữ giải phóng vậy.
Kịp đến Âu chiến xong rồi, các nước quân chủ chuyên chế ấy không đứng vững nữa mà phải trúc, nước thì thành dân chủ cọng hòa, nước thì thành quân chủ lập hiến, cơ khí tinh xảo thêm, mà kinh tế lại khủng hoảng, vì những sự tàn phá khi chiến tranh, tình trạng sinh hoạt của dân gian lại khốn khổ gấp hai lần khi trước; vì các lẽ ấy mà chủ nghĩa xã hội lại mạnh thêm, mà chủ nghĩa phụ nữ cũng do theo đó mà có thế lực lắm.
III. VIỆC VẬN ĐỘNG THAM CHÍNH CỦA PHỤ NỮ
Trong các vấn đề của phụ nữ chủ trương thì vấn đề tham chính là đã có kết quả được nhiều mà cũng lắm nước xu hướng.
Sau này xin xét lịch sử sự vận động tham chính của phụ nữ trước khi xảy ra cuộc Đại chiến ở Âu châu.
Hồi năm 1883 ở Mỹ có hai người nữ sĩ là Sử-đan-Đốn và Ai-sài-Nãi là lãnh tụ hội nữ tử tham chính, cùng nhau tổ chức một hội đồng minh, nhưng khúc cao khó họa nên chỉ có mấy người Anh tán trợ mà thôi. Đến năm 1902 thì ở Hoa-thịnh-đốn đã lập được hội “Vạn-quốc-phụ-nữ-tham-chính-đại-biểu”, có đại biểu năm nước đến dự. Hai năm nữa lại có hội “Vạn-quốc-phụ-nữ-tham-chính-đồng-minh”, tán đồng có chín nước, đến năm 1910, họp hội nghị ở Sử-mã-khăc-hoắc-như-ba, có đại biểu 24 nước tới dự, rồi từ đó mỗi ngày mỗi phát đạt mạnh mẽ, cho đến ngày ở các nước văn minh chỗ nào cũng có cơ quan vận động về tham chính của phụ nữ.
Bắc Mỹ - Tháng 11 năm 1910, ở Nghị hội tỉnh Hoa-thịnh-đốn trong ba phần 4 toàn thể hội nghị đã tán hứa cho phụ nữ được công quyền, đến năm sau ở tỉnh Ca-ly-phu-ni (Californie) cũng thừa nhận, đều ấy há không phải một sự đáng kỷ niệm trong lịch sử Bắc Mỹ ru? Tuy nhiên ở các tỉnh Uy-ô-minh (Uyoming), Cô-lô-ra-đô (Colorado) và Uy-tác (Utah), trước khi phụ vào nước Hợp chúng cũng đã có cho đàn bà được quyền tuyển cử rồi.
Song thế kỷ thứ 20 này, các nước phú cường ở nước nào cái chính sách kinh tế xâm lược cũng khuếch sung, thành ra các chánh đảng chi phối, các nghị án thảo luận đều lấy kinh tế xâm lược làm chuẩn đích, còn những vấn đề quan hệ với nhân đạo thì có ý bỏ lơ, huống hồ vấn đề phụ nữ thì còn ai chăm đến. Nhưng không thế, cái áp lực ở trên càng nặng thì cái phản động lực càng to, phương chi phong trào phụ nữ vận động đã phát khởi từ lâu mà tiêu ma sao được? Ở Âu châu phụ nữ yêu cầu tham chính không được, đã sinh ra mấy lần bạo động, còn ở Mỹ châu, ở các tỉnh mà đàn bà chưa có quyền tuyển cử ở tỉnh nghị hội đều cùng nhau nổi lên vận động rất hăng hái, như các tỉnh: Uy-công-sinh (Wisconsin), Căng-sát (Kansas). Hai tỉnh này năm 1912 đã phải nhận quyền tuyển cử cho phụ nữ. Sau đến ở tỉnh Ô-rơ-gon (Oregon) phụ nữ cũng được quyền tuyển cử, trong cả thảy có 10 năm trời mà cả nước Mỹ đàn bà đều được quyền tuyển cử.
Anh-cát-lợi - Đàn bà vận động tham chính kịch liệt nhất là nước Anh. Cái nghị lực “trăm gẫy không ghê”, cái khí khái “cố đi cho đến”, so với phụ nữ các nước thì mãnh liệt hơn lắm. Phụ nữ Anh trình nghị án lên Hạ nghị viện yêu cầu hoàn toàn tham chính đến bảy lần, được đa số nghị viên tán thành, mà lần nào cũng bị Thủ tướng bác cả. (Thủ tướng Anh ở Đại biểu quốc hội có toàn quyền phủ quyết và khả quyết). Đến năm 1910 ở Hạ nghị viện được 110 phiếu tán thành việc phụ nữ tham chính, năm 1911 được 167 phiếu tán thành. Đến sau, toàn nghị trường, cả các đảng cọng được 255 phiếu, ngoài ra thì biểu đồng tình ký vào tờ thỉnh nguyên có đến 90 hương thị, cả thảy đến bốn trăm vạn người ký tên, cho đến đảng bảo thủ gần đây cũng có đến ba mươi vạn người ký thơ thỉnh nguyện.
Nữ tử ở Anh-luân được quyền tuyển cử trong học hiệu từ năm 1870, được quyền tuyển cử trong hương thị từ năm 1883, được quyền tuyển cử trong giáo hội và thương nghiệp từ năm 1894, cho đến năm 1907 thì Anh-hoàng lại cho đàn bà được có tư cách làm hương trưởng và thị-tham-nghị-trưởng. Còn phụ nữ Tô-cách-lan (Ecosse) và Ái-nhĩ-lan (Irelande) thì năm 1888 và 1898 mới được quyền tuyển cử ở hương thị, đều là sau Anh-luân (Angleterre).
Các nước thực dân của Anh - Ở đảo Tân-tây-lan (Nouvelle Zélande) thì đàn bà được quyền tuyển cử trong học-hiệu từ năm 1877, được quyền tuyển cử trong hương- thị từ năm 1886, đến năm 1893 được hoàn toàn tuyển cử ở Quốc hội. Ấy phụ nữ trong thế giới được hưởng hoàn toàn quyền tuyển cử là Tân-tây-lan vậy.
Còn như sáu tỉnh ở Úc châu thì đàn bà có quyền tuyển cử trong hương-thị từ khi nước còn độc lập. Quyền tham chính ở Quốc hội của đàn bà thì Nam Úc-châu bắt đầu có từ năm 1894, Tây Úc-châu từ năm 1899. Còn các tỉnh khác khi liên minh lập chánh thể cọng hòa thì đều xướng nghị đầu tiên trong Quốc hội là nam nữ được quyền đồng đẳng tham chính. Ở Tát-ma-ni (Tasmanie), Côn-tư-lan (Queensland) cùng Duy-đa-lợi (Victoria) cũng đều bắt chước cả, thành ra ngày nay ở Úc-châu quyền công dân của đàn ông đàn bà không khác gì nhau.
Hơn hai mươi năm trước đây ở Da-nã-đại (Canada) thì đàn bà góa hay con gái xuân mà có nộp thuế thì được quyền tuyển cử ở hương-thị, chứ đàn bà có chồng thì không có quyền ấy. Hiện nay họ đương vận động kịch liệt lắm. Năm 1909 có đến hơn nghìn phụ nữ kéo nhau tới Quốc hội để đệ đơn thỉnh nguyện, có đến mười vạn người ký tên.
Các tỉnh ở Nam Phi-châu từ khi liên hiệp thì quyền tuyển cử của phụ nữ bị bác đoạt, đến nay như mất như còn, chưa thấy khôi phục lại được.
Còn ở Ấn-độ, thì quyền tuyển cử của đàn bà cũng có một vài nơi thi hành mà thôi.
Bán đảo Tư-kham-đích-nã-duy (Scandinavie) - Năm 1901 nữ tử ở Nã-duy mà nộp thuế quá 75 đồng (dollars-or) thin được tuyển cử trong hương thị và được có tư cách ứng cử nghị viên. Đến năm 1907 luôn mấy lần thỉnh nguyện thì Quốc hội mới thừa nhận cho phàm đàn bà được quyền tuyển cử ở hương thị đều được quyền hoàn toàn tham chính. Đến năm 1909, một người đàn bà được bầu làm Phó nghị trưởng ở Quốc hội, tri thức trác việt, ngôn luận chính đại, trong nước ai cũng xưng tụng. Năm 1909 ở Quốc hội đề xướng rằng phàm đàn bà được quyền tuyển cử trong hương thị không phải bạn lệ theo tiền thuế nữa, đều ấy được đa số tán thành. Năm 1911, nử tử thỉnh nguyện hoàn toàn có quyền tham chính, khi bỏ phiếu trong Quốc hội thiếu mất năm phiếu, nhưng chắc kết quả rồi cũng không xa. Năm 1910 số nữ tử được cử làm các chân Nghị-sự-trưởng đã được đến 178 người, năm 1911 được 210 người, còn người chờ ứng cử đến 375 người.
Năm 1862 ở Thụy-điển các đàn bà góa và con gái xuân nếu có nộp thuế thì được quyền tuyển cử trong hương thị. Song đàn ông được quyền tuyển cử cũng mới độ một phần mười. Sau đến đảng tự do và đảng xã hội lên chấp chính, quyền tuyển cử đàn ông đàn bà mới theo đó mà khuếch sung. Trong nước có hội Nữ- tử-đồng-minh phát đạt lắm, chi hội rất nhiều, số hội viên không kể xiết, mỗi một năm khai hội diễn thuyết có đến hơn một nghìn năm trăm lần. Năm 1909 hội Đồng-minh đệ tờ thỉnh nguyện tham chính lên Chánh phủ, cả Thượng, Hạ nghị viện đều tán thành, duy chỉ có Quí-tộc viện thì bác. Đến năm 1911, phái bảo thủ thất bại, hai phái tự do, xã hội lên chấp chính, thế thì quyền hoàn toàn tham chính của đàn bà cũng không bao lâu mà tới vậy.
Ở Đan-mạch thì năm 1908, ở Quốc hội nghị quyết cho nữ tử được đồng đẳng với nam tử, có quyển tuyển cử ở hương thị, hạn tự 25 tuổi trở lên phải nộp một số thuế định trước. Số đàn bà bị cử làm Nghị-trưởng và chủ-kế-viên cùng các chức vị khác nhiều lắm. Đan-mạch tuy nước nhỏ mà thế lực của hội vận động phụ nữ thật là hoạt bát. Tổng-hộ có đến hai nơi, chi hội có đến 34 nơi, mỗi năm khai hội tính đến hơn 1000 lần. Hiện nây nữ tử Đan-mạch chưa được hưởng hoàn toàn quyền tuyển cử chỉ vì quí tộc trở ngại mà thôi.
Ở Băng-đảo là phụ dung của Đan-mạch, phụ nữ vận động tham chính cũng khá mạnh khá ghê lắm. Năm 1882 thì dàn bà góa hay con gái xuân mà làm chủ trong nhà thì được quyền tuyển cử ở hương thị. Số nghị viên đàn bà ở thủ đô chiếm được đến 1 phần 4 trong toàn thể. Đến năm 1913 thì nữ tử đều được hoàn toàn quyền tham chính, từ đó ở Quốc hội đã thấy có Nghị viên đàn bà ứng đối tiến thoái với đàn ông.
Nga-la-tư cùng các thuộc quốc. - Nước Phấn-lan (Finlande) bị nằm dưới chánh thể chuyên chế của Nga (trước cách mạnh), thế mà phụ nữ được hoàn toàn quyền tuyển cử, chẳng phải là một sự quái sao? Năm 1905, Phấn-lan chịu hà pháp của Nga không chịu được mới nổi lên phản kháng, Nga hoàng phải cho quyền tự hành tổ chức Quốc hội. Đến năm sau, phụ nữ thừa cơ thỉnh nguyện quyền tham chính, được Quốc hội tán thành, về sau cứ mỗi khóa là Quốc hội có đến mấy chức nữ Nghị viên.
Ở Nga thì trước hồi cách mạnh, quyền lợi phụ nữ trong chính trị cũng đã hơi có manh nha. Phàm chồng mà đi vắng, vợ ở nhà có thể thay mặt chồng mà đi đầu phiếu.
Còn Ba-lan (Pologne) thì cũng theo gương Phấn-lan mà thí nghiệm nữ quyền.
Áo-đại-lợi, Hung-gia-lợi cùng các nước Ba-nhĩ-cán. – Nước Áo tuy một nước mà chủng tộc bất đồng, ngôn ngữ cũng mỗi chỗ mỗi khác nhau, thật là một đều trở lực cho sự chính trị. Song việc phụ nữ vận động cũng tấn bộ mạnh mẽ lắm, không hề thoái tự khi nào, thật cũng là một đều đáng phục. Nào khai hội diễn thuyết, nào ấn hành sách vở, những cách thức để truyền bá tư tưởng đều nhiều người nhiệt tâm làm lắm.
Ở Hung-gia-lợi cũng có hội Đồng-minh phụ nữ tham chính, phạm vi rất rộng, chi hội kể có đến non 90 nơi, hội viên từ quí tộc cho đến bình dân đều có cả. Năm 1913, hội Đồng-minh Vạn quốc phụ nữ tham chính cũng bắt đầu hoạt động ở Kinh đô Hung là Bô-đa-biết (Budapest).
Phụ nữ vận động ở Buyn-ga-ri (Bulgarie) cũng hoạt bát lắm, có một tổng hội, chi hội đến 37 nơi, mỗi năm khai hội có đến ba bốn trăm lần.
Ở Xéc-bi (Serbie) phụ nữ cũng đã được quyền tuyển cử ở hương thị. Hoàn toàn tham chính cũng có lẽ mong đến nơi được.
Đức-ý-chí. - Theo luật xưa ở Đức thì đàn bà không có quyền tham dự chính trị. Đến năm 1908 luật ấy bãi bỏ mà ở các nơi danh đô đại ấp chỗ nào cũng có đàn bà được tham chính. Đảng xã hội vận động về vấn đề phụ nữ mạnh mẽ lắm.
Hà-lan và Bỉ-lợi-thì.- Ở Hà-lan, đương hồi đảng tự do chấp chính thì cũng có bàn đến đều phụ nữ tham chính, nhưng từ đảng bảo thủ lên thay thì vấn đề ấy bãi ngay mà không bàn đến nữa. Song trong hội Phụ nữ tham chính có đến hơn 8.000 hội viên cũng cực lực cổ xúy, nay đã đến được thời đại thực hành.
Ở Bỉ-lợi-thì, năm 1910 đàn bà được quyền tuyển cử trong thương nghiệp. Phụ nữ trong nước tự đó vẫn nhiệt tâm vận động, cũng có thể mong rầy mai đây sẽ được quyền tham chính hoàn toàn.
Pháp-lan-tây, Thụy-sĩ, Ý-đại-lợi. -- Ở Pháp phong trào phụ nữ tham chính cũng mạnh lắm. Năm 1910 ở hội kinh tế đề nghị và tranh luận không thành, rồi mới gửi phái viên đi các nước thẩm tra khảo cứu về tình hình của các đàn bà tham chính thế nào. Sau số đàn bà trong công giới là một phần trong số đàn bà cả nước, được quyền tuyển cử trong các cơ quan thương nghiệp.
Ở Thụy-sĩ cũng có hội tham chính rồi. Ở Giơ-nè (Genève) và Duy-rích (Zurich) đã cho đàn bà được quyền tuyển cử về thương nghiệp và tôn giáo.
Ở Ý-đại-lợi sự vận động phụ nữ tham chính cũng hăng hái. Năm 1910 phụ nữ đã có quyền tuyển cử về thương nghiệp.
Bồ-đào-nha, Tây-ban-nha, v.v. – Bồ-đào-nha từ hồi cách mạnh phong trào phụ nữ tham chính một ngày một mãnh liệt. Tổng thống Bột-lạp-đa cũng tán thành. Chỉ còn Quốc hội chưa thừa nhận mà thôi.
Ở Ba-tư thì vì cả nước theo Hồi giáo, mà trong thánh kinh Hồi giáo dạy rằng đàn bà không linh hồn, vấn đề phụ nữ ở đấy có tôn giáo trở lực nên khó vận động.
Ở Xiêm-la (Siam) đàn bà đã có quyền tuyển cử trong hương thị.
Trung-hoa. - Ở Trung-hoa thì từ năm Dân-quốc nguyên niên đã có phong trào phụ nữ tham chính ở Thượng-hải, Bắc-kinh và Quảng-châu, nhưng không được lâu mà phải tan. Sau gần đây lại nổi lên một phong trào mới mãnh liệt lắm, cả đàn bà thượng lưu, trung lưu và hạ lưu đều dự. Có nhiều tỉnh đã thừa nhận cho đàn bà được quyền tuyển cử tỉnh-nghị-viện.
***
Trở lên là xét về lịch sử của sự vận động tham chính trước hồi Âu chiến. Sau nầy xin xét qua từ hồi Âu chiến liễu kết thì vấn đề phụ nữ tham chính có tấn bộ thế nào.
Cuộc Âu chiến đại chiến thực là một cơ hội rất quí cho phụ nữ vận động vì những lẽ sau này:
Một là đương hồi chiến tranh, những đàn ông con trai đều phải đi tùng chinh, những mẹ những vợ, những chị em ở nhà đều phải ra thay để làm việc. Vì các việc xã hội, các việc trong công thương nghiệp, việc giáo dục, cùng là các việc công cọng khác, đàn bà đều có thể nhiệm vụ được cả. Đến khi chiến tranh xong, đàn ông trở về, đàn bà cơ hồ phải bãi hồi, họ bèn viện lẽ rằng trong mấy năm công trình họ giúp nước không phải là nhỏ, tài năng tri thức họ không phải là kém đàn ông, vậy họ quyết đòi quyền tham dự chính trị cho được.
Hai là khi chiến tranh rồi, các nước hoàn cầu đâu đâu cũng khuynh hướng về chánh thể dân chủ, mà mấy nước lão đại đế quốc phải đổ để nhường chỗ cho các nước cọng hòa. Dân quyền đã khuếch trương thì nữ quyền cũng phát đạt vậy. Vấn đề phụ nữ tham chính cơ hồ đã thành một chân lý phổ thông. Nước Nga thì nổi cách mạnh mà lập lao công chánh phủ, các nước Phấn-lan, Ba-lan, Đức-ý-chí, Hung-gia-lợi, Tiệp-khắc-tư-lập-phạt-khắc (Thécoslovaquie), Áo-đại-lợi, Ái-nhĩ-lan, v.v. lập tân hiến pháp đều nhất thiết không phân biệt đàn ông đàn bà về quyền lợi chính trị. Ở Nga thì năm 1918 bà Kha-luân-thao được bổ sung chức Cứu-tế-bộ-tổng-trưởng (đàn bà mà làm bộ trưởng, phu nhân là bắt đầu). Ở Đức thì trong hiến pháp, về việc tuyển cử các cơ quan đại nghị cho đàn bà đàn ông là công dân cả thì đều có quyền đồng đẳng với nhau mà phổ thông đầu phiếu.
Ở các nước khác như Mỹ, Anh, v.v. sự vận động phụ nữ cũng được nhiều phần thắng lợi. Ở Mỹ năm 1919 tại hai viện đều khả quyết một bản nghị án về phụ nữ tham chính quyền, đến năm sau (1920) các Châu nào mà phụ nữ trước chưa có quyền tuyển cử hoàn toàn thì nay đều được cả. Hồi 1919 trong cả thảy 48 châu đã có 14 châu đàn bà được quyền bình đẳng tuyển cử, 12 châu đàn bà được quyền đầu phiếu cử Thống lĩnh, và 2 châu được quyền đầu phiếu sơ cử. Ở Anh thì năm 1918 ở Quốc hội đã chính thức quyết nghị cho đàn bà toàn quốc được cùng đàn ông hưởng quyền chính trị đồng đẳng. Đầu năm nay (1928), Thượng Hạ Nghị viện đã thông qua luật án cho đàn bà cũng được quyền phổ thông đầu phiếu. Bắt đầu từ kỳ tuyển cử 1929 sẽ thi hành.
Ở Nhật-bản thì từ năm Âu-chiến, một phần thì vì cơ khí mở mang, tình cảnh sinh hoạt của đàn bà sinh khốn nạn, số đàn bà làm đĩ một ngày một nhiều, bọn đàn bà trung lưu tình cảnh trụy lạc, lại phần thì phong trào phụ nữ ở nước ngoài đã tràn sang nên sự vận động phụ nữ cũng đã manh nha và một ngày một tiến.
Ở Trung-hoa thì các hội phụ nữ ở Thiên-tân, Hàng-châu, Thượng-hải, Quảng-châu, Hán-khẩu vẫn cực lực vận động. Từ khi đảng cách mạnh thắng thế lại được Quốc-dân-đảng dẫn đạo và Quốc dân chánh phủ tán thành, nếu ở các tỉnh về phạm vi Nam-chánh-phủ phụ nữ đã có quyền hoàn toàn tham chính.
Cứ xem như trên thì biết rằng sự vận động tham chính của phụ nữ ngày nay ở các nước tiên tiến đã đạt được một bước đầu rồi. Trước kia trên chánh trị chỉ riêng một đàn ông được bàn được dự, bây giờ trong số nhiều nước chính quyền đã sẻ tay cho đàn bà. Song còn bước thứ hai nữa thì phụ nữ vận động sẽ thế nào? Hẳn phải còn bồi dưỡng thêm cho sức tổ chức chính trị được dồi dào, vì vẫn rằng may đã được chính quyền, nhưng từ trước đến nay vì huấn luyện còn nhiều đều khuyết phạp. Song cứ thực thì tuy danh nghĩa thượng được đồng đẳng với đàn ông rồi, mà xem tình hình các nước nói trên kia thì thế lực chính trị cũng là vào đàn ông cả. Ở trong Nghị viện mà có nghị viên đàn bà, thì cũng là một vật để điểm xuyết mà thôi, chứ thực thì cũng chưa là mấy. Vậy nên trong vấn đề phụ nữ vận động từ rầy về sau thì họ chuyên trọng về mặt giáo dục và tư cách chính trị để hòng một ngày được thực tế chia quyền với đàn ông một cách cho hoàn toàn.
Sau này xin kể niên đại của các nước thực hành quyền phụ nữ tham chính:
Anh-cát-lợi : ……………………. 1918
Anh-cát-lơi thuộc địa:
Tân-tây-lan: …………………… 1893
Nam Úc-châu: ………………….1893
Tây Úc-châu: ………………… 1899
Tân Nam Úc: …………………. 1902
Úc-đại-lợi liên bang ……….. 1902
Côn-tư-lan: ………………….. 1905
Duy-da-lợi: ………………….. 1909
Kha-luân-ty: ………………….. 1917
Da-nã-đại: ………………….. 1918
Não-phấn-lan: ……………. 1918
Phấn-lan: ………………….. 1907
Nã-uy : ……………………. 1913
Đan-mạch : …………….. 1915
Hà-lan : ……………………… 1917
Nga-la-tư : …………………… 1917
Thụy-điển : ………………….. 1918
Áo-đại-lợi : ……………………… 1918
Đức-ý-chí : ………………………. 1918
Hung-gia-lợi : ……………………… 1918
Ba-lan : ……………………………… 1918
Pháp-lan-tây : ……………………… 1919
Tây-ban-nha : …………………….. 1919
Bắc Mỹ hợp chúng quốc : ……… 1920
IV. VIỆC VẬN ĐỘNG PHỤ NỮ Ở NƯỚC ANH
Nước Anh số đàn bà nhiều hơn số đàn ông đến hơn một triệu người nên so với các nước khác thì sự vận động phụ nữ kịch liệt hơn hết. Còn chánh phủ thì thấy số đàn bà nhiều thế lại sợ nếu đàn bà một ngày được quyền tham chính thì có nguy hiểm cho chánh phủ nên hết sức cự tuyệt. Hai bên, một bên hăng hái vận động, một bên nhất thiết ngăn ngừa, bởi vậy mà sinh nhiều sự nhiễu loạn.
Hồi thế kỷ 17, đàn bà nước Anh ở trong gia đình chỉ được cái địa vị là tỳ thiếp, ngoài sự sái tảo sản dục thì hầu không có việc gì. Từ khi nữ vương An-na (Anne, 1702-1714) lên cầm quyền, cái tục khinh gái trọng trai mới bớt đi một chút; cùng là nhờ ảnh hưởng của hai nhà văn sĩ A-đi-sơn (Addison, 1672-1719) và Si-ty-lơ (Sterle, 1671-1729) mà trong nước mới sinh ra cái tư tưởng ưu đãi phụ nữ, cùng khai đạo cho đàn bà có khiếu ham văn chương. Đến thế kỷ thứ 18 thì có kết hợp được nhiều đoàn thể văn học của phụ nữ, tính chất cũng còn bảo thủ lắm.
Kịp đến Mỹ châu độc lập, nước Pháp cách mạnh, tư tưởng tự do bình đẳng một ngày một bành trướng như là nước lụt tràn khắp mọi nơi, da dĩ hồi nầy nhiều lớp chiến tranh sinh nhiều nỗi bi thảm, đàn bà con gái, tuy ở trong phạm vi gia đình mà gặp cái cảnh huống ấy không thể không khích động. Bởi thế mà trong đám phụ nữ nước Anh bắt đầu có tư tưởng xã hội. Ôn-tô-nê-cáp (Wollstonecraft) phu nhân làm quyển sách đề là “Nữ quyền biện hộ luận”, thực là mở đường cho sự vận động tham chính sáu này vậy. Bao nhiêu tư tưởng, đạo đức, tập quán cũ đối với sự phân biệt nam nữ đều quét sạch. Vả chăng trong triết học giới và văn học giới, tư tưởng tự do cũng thịnh xướng mà tràn khắp như sóng đào. Kịp đến thế kỷ 19, cơ giới phát đạt, sinh ra cuộc sản nghiệp cách mạnh, đàn bà con gái đều phải bỏ khuê khổn mà vào công trường làm việc, sự sinh hoạt trong xã hội bị ảnh hưởng nhiều lắm. Đến đời Nữ vương Duy-đa-lợi (Victoria) lên ngôi, đối với phụ nữ hết sức hưng khởi cái tâm tính tự tôn tự trọng. Đến hồi chiến tranh ở Cơ-ri-mê (Crimée) các công việc vĩ liệt đều do tay các bực nữ trượng phu, rồi từ đó về sau, nào các việc trong y viện, trong bần dân học hiệu, trong dục anh viện, dưỡng lão viện, cùng các việc từ thiện khác đều nhờ tay phụ nữ cả. Trong văn giới, những bực nữ văn hào như Bơ-rông-tê (Bronté), Yêu-li-ô (Elliot), Bơ-ru-minh (Browming) đều chiếm địa vị tối cao trong văn học sử. Thế là mới trong 5 - 6 mươi năm mà phụ nữ Anh-cát-lợi, xem trên thực tế, đã được nhiều đều bình đẳng với đàn ông. Như thế cũng là tấn bộ mau lắm vậy.
Ở Nghị hội Anh thấy nữ quyền đã có thế khuếch trương mới mưu sự dự phòng, bèn đem hiến pháp ở mục nói về phép tuyển cử sửa chữ “người” ra chữ “đàn ông”, khiến đàn bà không thể dự quyền tuyển cử. Đến năm 1867, có người nghị viên là Min-lơ (John Stuart Mill) ở trong Quốc hội đề nghị ra xin đổi lại chữ “đàn ông” ra chữ “người” để cho đàn bà cũng được quyền tuyển cử. Song không được đa số tán thành, ông bèn đem các đều chủ trương về vấn đề ấy soạn thành bộ sách “Sự phục tùng của đàn bà”. Năm ấy ở Măng-siết-tê (Manchester), Luân-đôn (Londres) và Ê-đinh-bua (Edimbourg) có phát sinh nhiều đoàn thể phụ nữ tham chính; năm sau đến các tỉnh Bơ-rít-tôn (Bristol) và Bác-minh-ham (Birmingham) cũng có, rồi các nơi kế tiếp nổi lên, đến ngày nay có đến hơn 300 đoàn, hợp lại thành hội “Toàn quốc phụ nữ tuyển cử” (National Union of Women’s suffrage sociéties), viết tắt là N.U.W.S.S., do vị vong-nhân của nhà kinh tế học Phúc-tán-đắc chủ trương. Chủ nghĩa bà là chủ nghĩa hòa bình. Đồng thời lại có một phái phản đối hòa bình, chủ trương kịch liệt, ấy là hội “Phụ nữ xã hội chính trị” (National Women’s social and political Union) viết tắt là N.W.S.P.U., lập thành năm 1903, đời gọi là phái “chiến đấu”, do Băng-quyết phu nhân (Pankhust) làm thống súy, và Lao-lăng-tư phu nhân cùng Đắc-lạp-môn nữ sĩ làm tham mưu. Hai phái mục đích tuy đồng nhưng phương pháp thì khác. Phái Băng-quyết phu nhân thì phá hoại, làm những đều như ném cửa gương, phá thùng thơ, đốt xưởng xe, nhiễu nghị trường, gây nhau với cảnh sát, hễ phải bắt dam [giam] thì tuyệt thực, ai đã vào hội là phải phụ trách nhiệm như một người chiến sĩ.
Ngoài hai phái ấy lại còn có mươi đoàn thể khác do các nhà nữ văn học, nữ mỹ thuật, nữ ký giả tổ chức, hoặc viết báo, in sách, diễn thuyết để truyền bá tư tưởng, hoặc sắp đặt những cuộc du hành để khích động nhân tâm.
Đến năm 1906, đảng thống nhất đã thất thế, đảng tự do nổi lên cầm quyền, việc vận động của phụ nữ cũng nhân đó mà mạnh thêm lên. Đến năm 1910, Nghị viên Hich-khắc-đôn đề xuất ở Hạ Nghị viện một bản nghị án về quyền tuyển cử của phụ nữ, trong triều ngoài nội, kẻ cho phải kẻ chê trái, nhưng Tài chính bộ tổng trưởng thì tán thành, rồi nhờ đa số thông quá mà được giao cho toàn viện ủy hội xét. Đến năm sau, Khai-mạc-phác đề xuất xin cải chính bản nghị án của Hich-khắc-đôn, trừ cái hạn chế “phải nộp thuế 10 kim bảng” để thêm số người được quyền tuyển cử. Các đảng phái phân tranh tợn lắm, sau vì hội kỳ chưa đến nên chưa giao cho ban thẩm tra được. Tuy các nhà luận giả kích thích cũng nhiều mà không có hiệu quả chi. Đến mùa xuân năm sau lại có nghị án của Khang-tư-liệt đề xuất, nhưng vì sự bạo cứ kỳ tháng một, gây lòng công phẫn nhiều nên nghị án bị phủ quyết. Sự bạo cứ đó, chính là hội “Phụ nữ xã hội chính trị” chủ trương.
Hội “Phụ nữ xã hội chính trị” nào tập hội biểu tình, nào cưỡng kiến quan lại, nào đảo loạn Nội các và các phái phản đối trong Nghị hội, cùng là phá cửa, ném kính, mỗi ngày thêm mỗi kịch liệt. Năm 1912, ngày tháng một sẩy ra một sự bạo cứ thật to. Đàn bà con gái, người cầm dùi sắt, người đội bao vải, xông vào phá các nhà thương nghiệp phần thịnh ở đường Lợi-thiên, tổn hại hết đến hơn 10 vạn đồng. Cách mấy ngày lại đến nơi tàng trân viện toan phá, nhưng cảnh sát đã dự bị nên phải thôi, rồi sau phá công viên, phá nhà thờ, không có ngày nào là không phá. Những người bị bắt cũng nhiều, nhưng họ đã cầm vững cái tôn chỉ sát thân thành nhân nên cứ ung dung khảng khái vào ngục. Đến tháng 11 năm ấy, Băng-quyết phu nhân lại tổ chức một cuộc bạo cứ nữa. Đến năm sau ngày tháng một bản tham chính án đề trình Nghị hội phải triệt hồi, Băng-quyết phu nhân lại khiến mấy “đội quân” đi phá cửa gương, phá giây thép, chính phu nhân cũng đem 12 người đảng viên khác vào Nghị hội để cưỡng kiến Lộ-đức-kiều. Vì lăng mạ cảnh lại nên phải bắt rồi đến tháng tư bị tòa án tuyên cáo 3 năm cấm cố; con phu nhân là Băng-quyết nữ sĩ cũng bị kết án với mấy người khác nữa về tội xui giục phóng hỏa. Ôi! Phụ nữ vận động kịch liệt như thế cũng đã cùng rồi vậy.
Sự vận động tham chính như thế là đã đến cực điểm. Một đêm đương xắng khởi đại cách mạnh, chẳng may cơ mưu tiết lộ phải sở cảnh sát biết. Ngày cuối tháng 4 năm 1913 sở cảnh sát Luân-đôn phái 12 người cảnh sát mặc tư phục và hơn 50 người mặc chế phục đến phố Canh-tư-uy, vây cả nơi bản bộ của hội “Phụ nữ xã hội chính trị”, bắt được Đắc-lạp-môn phu nhân là người tổ chức và La-bạt-hoàn nữ sĩ là cán sự, Lai-cơ nữ sĩ là quản lý tạp chí “Phụ nữ tham chính quyền” cùng ba người nữa. Lại có bắt được nhiều văn kiện thư tịch. Sáu người bị hạ ngục, hội sở bị niêm phong, tạp chí “Phụ nữ tham chính quyền” bị đình bản. Trong hội nay không còn ai làm chủ (Băng phu nhân vẫn còn bị giam), nên sự phấn đấu yếu thế mất nhiều.
Hội “Phụ nữ xã hội chính trị” tuy thất bại thế nhưng mà đảng đồ hơn 4 mươi vạn người ở khắp mọi nơi trong nước, vẫn cứ cố kết với nhau. Hồi chiều ngày 3 tháng 5, họ tụ họp một toán hơn 200 người, cầm cờ ba sắc (lục, trắng, đen) hát bài ca cách mạng của Pháp, kéo đến trước cửa ngục Hà-lạc-uy. Cảnh lại đến can thiệp, họ bèn kéo vây cả chung quanh, rồi réo hát bài ca cách mạnh và bài ca tham chính. Khi ấy ở trong ngục có một người lãnh tụ dơ tay ra vẫy ở cửa số để cảm ơn quần chúng, họ liền đổi giọng hát một khúc bi tráng ca, rồi kéo nhau về bản bộ mà giải tán.
Cách bữa các lãnh tụ hội phụ nữ bị bắt đó 6 ngày thì bản đề án tham chính lại bị bác bỏ ở Hạ-nghị-viện, lần này nữa là 7 lần mà vẫn bị Nghị viện phản đối.
Băng-quyết phu nhân bị kết án 3 năm tù ngày tháng 3 năm 1913 và giam ở ngục Hà-lạc-uy, nhưng vì tuyệt thực để phản kháng nên bị giam có chín ngày lại tha. Tiếp đó phu nhân bị giam luôn năm lần nữa, nhưng lần nào cũng tuyệt thực nên ít ngày rồi lại phải tha, đến ngày 17 tháng 12 năm 1913 là lần thứ sáu. Trải mấy lần hạ ngục ra mà sức phu nhân càng thêm hăng hái lắm.
Trên là nói về cái thủ đoạn của phái kịch liệt, còn phái hòa bình thì không thế. Họ thường tuyên ngôn rằng: “Cái quyền tham chính của phụ nữ là cái chân lý không mất được. Bọn mình muốn phát triển cái chân lý ấy thì tất phải xét việc nên chăng thị phi thế nào, khiến cho thiên hạ hiểu rằng cái tôn chỉ của chúng ta là chính đáng. Nếu bỏ hòa bình mà làm bạo động, làm mất sự an ninh của xã hội, khích lòng công phẫn của quần chúng, như thế là ở chỗ cong mà cầu sự thẳng sao được?”. Phàm các sách vở xuất bản, tạp chí, tân văn họ phát hành, đều có vẻ hòa bình như vậy cả. Họ thường dùng cách truyền bá, giáo dục, dẫn đạo dư luận, để cầu nhiều người tán thành. Đối với người đảng nghịch mà tranh biện thì họ cũng cứ vui lòng nghe hết, có phải giao thiệp với các nhà hành chính thì họ cũng cứ giữ gìn lễ mạo như thường, có can yết đều gì thì cũng hết lòng dung nạp. Vì thái độ hòa bình như vậy nên cũng được nhiều người theo.
Việc vận động tham chính của phụ nữ nước Anh là từ khi đảng tự do lên tổ chức Nội các thì thế lực thịnh vượng mau lắm. Song bọn phản đối tham chính thế lực cũng một ngày một cao. Xét bọn phản đối này thì manh nha từ năm 1889. Hồi ấy có 3 người nữ sĩ là Hán-phức-lệ, Bạch-thao, Khắc-lại-đôn cùng nhau mở một tờ tạp chí tên là “Thế kỷ mười chín” để phản đối bọn tham chính. Họ cho rằng ngày nay đàn bà đã được hoàn toàn hưởng tự do, đừng nên đòi can dự chính trị nữa. Vả đàn bà không đủ thực lực mà giải quyết các vấn đề chính trị to lớn đâu. Nay đã có quyền đầu phiếu ở các thành, các trấn, các làng, như thế lại còn chưa đủ hay sao? Năm 1908 lập ra hội “Phi phụ nữ tham chính”, là Hán-phức-lệ nữ sĩ làm lãnh tụ. Liền đó lại có Khắc-la-mại lấy đàn ông cùng tổ chức một hội phản đối phụ nữ tham chính. Từ đó bên phụ nữ tham chính và phi phụ nữ tham chính kháng xung. Bên phản đối chi bộ ở toàn quốc có đến hơn trăm nơi; số hội viên nộp hội phí cả thảy đến hơn một vạn 5 nghìn người. Song le, Bạch-thao nữ sĩ sau này lại đổi chí hướng, trước thì chủ trương rằng phụ nữ không nên can dự vào chính trị, mà đối với vấn đề Ái-nhĩ-lan tự trị thì lại sấp ngửa bôn tẩu, thế có phải là nói một đường làm một ngả hay không?
Hội phản đối tham chính của Bạch-thao lập ra, vì Bạch chủ nghĩa trước sau không như một, nhiều người công kích nên dần dần yếu thế đi nhiều. Còn hai phái chủ trương tham chính, tuy phương pháp có khác nhau mà tôn chỉ là một, nhất là phái kịch liệt, vận động ngày một mạnh mẽ, thế lực ngày một khuếch trương, tại Nghị hội vẫn nhiều phái phản đối mà đến năm 1918 Quốc hội cũng phải chính thức quyết nghị rằng: Trong cả nước đàn bà được hưởng quyền lợi chính trị đồng đẳng với đàn ông. Sự vận động tham chính của phụ nữ Anh thế là đã đạt được một bước dài lắm vậy.
Đến đầu năm nay (1928), Thượng, Hạ nghị viện Anh lại thông quá luật án thừa nhận cho phụ nữ được hoàn toàn hưởng quyền phổ thông tuyển cử như đàn ông, bắt đầu từ cuộc Tổng tuyển cử năm 1929 đến đây sẽ thi hành luật ấy.
VI. VIỆC VẬN ĐỘNG NỮ QUYỀN Ở TRUNG HOA
Trung-hoa là một nước văn minh tối cổ ở Á-đông, song từ xưa chánh thể quân chủ chuyên chính cùng chế độ phong kiến cứ diên di mãi đời nọ sang đời kia, học thuật không mở mang, tư tưởng phải trói buộc nên sự tấn hóa phải đình trệ, quốc dân phải say ngủ trong mấy nghìn năm, mà để đến nỗi các nước Âu châu về đời Xuân thu đời Chiến quốc còn giã man mà nay họ đã vượt đến từng văn minh cường thịnh, đem súng đến bắn vào tai mới vùng tỉnh dậy. Nói về văn minh ngày nay thì Trung-hoa chậm trễ, phải đứng sau các nước Tây-phương, đều ấy thực hiển nhiên vậy. Nói riêng về vấn đề phụ nữ, về nữ quyền vận động thì tự nhiên cũng phải đi sau các nước Âu-Mỹ.
Trước hồi Dân-quốc thành lập thì cũng đã có đàn bà tham dự công việc cách mạnh, nhưng thực về đường phụ nữ giác ngộ, về nữ quyền vận động thuần túy thì chưa từng nghe đến bao giờ. Sau đến khi cách mạnh cáo thành, năm Dân-quốc thứ nhất mới có bọn Đường-quần-Anh nữ sĩ ra tổ chức hội “tham chính đồng minh” để vận động cho phụ nữ được tham dự chính trị. Thủ đoạn của họ, bất quá dâng thơ nơi Nghị viện để yêu cầu cho trong Ước-pháp qui định quyền lợi nam nữ ngang nhau, thực là chưa phải thời kỳ nữ quyền khuếch trương vậy. Không những là đối với vấn đề nữ quyền nhiều người phản đối, mà sự chiến tranh liên điệp sau khi cách mạnh cáo thành thực là một mối địch cừu cho nữ quyền. Bởi vậy hội “Phụ nữ tham chính đồng minh” ấy chẳng khác gì một nhành hoa bình, thoắt nở đó thoắt tàn đi, mau lắm.
Về hồi ấy tuy nữ quyền vận động chưa có gì là thành công, nhưng cách mạnh thành công đối với vấn đề nữ quyền có ảnh hưởng nhiều lắm. Khi Dân-quốc tuyên cáo thành lập, ai nấy đều có vẻ phấn hung, các nơi tổ chức hội hè đều có phụ nữ tham gia cả, mà bọn phụ nữ ấy vị tất đã thấu rõ cái tình cảnh và địa vị hạng mình, nhưng đại khái đối với đều nam nữ bình quyền cũng đã có hiểu ít nhiều vậy.
Chẳng bao lâu sự phấn hung về cách mạnh một ngày một xuống mà sinh khí cũng dần dần giảm thoát bớt đi, cho đến hồi vận động Tứ ngũ, thì cái tư tưởng mới mới bắt đầu thấu vào óc người mà phát triển mãi ra. Đạo đức cũ, tập quán cũ, tín ngưỡng cũ đều bị đã-kích hăng lắm, mà nhiều người đối với sự sinh hoạt hiện thời đã có giác ngộ là chưa đầy đủ hoặc là mang một mối hoài nghi. Phụ nữ cũng đã giác ngộ được nữ tính của mình, nên cách thức sinh hoạt theo xưa không thể yên thế được, mà phải cầu cải tạo ngay. Bởi lẽ ấy mà sinh ra phong trào nữ quyền vận động gần đây vậy.
Từ khi hội Đồng minh tiêu diệt đến lúc này thì cũng có nhiều cuộc vận động nữ quyền, nhưng không có đoàn thể gì cả, như là yêu cầu cho trai gái được đãi ngộ ngang nhau về giáo dục. Duy chỉ có cuộc vận động phụ nữ tham chính ở Quảng-châu là có đoàn kết và dai bền mà thôi. Sự kết quả của cuộc vận động ấy là được mấy đều trong tự-trị-án của tỉnh Quảng-châu như sau này:
Chương thứ 2, điều thứ 5 qui định rằng: “Nhân dân trên pháp luật đều nhất luật ngang nhau, không có phân biệt nam nữ, tôn giáo và giai cấp gì”, và điều thứ 8 nói rằng: “Nhân dân cứ theo luật có quyền tuyển cử và bị tuyển cử cùng quyền làm việc công cọng, v.v….”
Hội Học-sinh-đồng-chí ở Thiên-tân gần đây mới đặt thêm một vế về nữ quyền, mục đích là để: mở rộng giáo dục cho con gái, đề cao nhân cách cho con gái, phát triển quần tính cho con gái, nói kỹ ra thì gồm mười đều như sau này: -- 1/ Phải mở nhiều trường học cho phụ nữ, -- 2/ phải lấy đạo đức cao thượng mà huấn luyện cho phụ nữ, -- 3/ Phải khuếch sung sự tổ chức phụ nữ, -- 4/ Phải tăng tiến năng lực của phụ nữ đối với các chức vụ xã hội, -- 5/ phải cứu viện những phụ nữ cực khổ, -- 6/ phải khuếch sung chức nghiệp của phụ nữ, -- 7/ phải phá bỏ cái lệ hôn thú không tự do, -- 8/ phản đối sự đãi ngộ phụ nữ không bình đẳng và trái nhân đạo, -- 9/ phải làm mô phạm công khai cho sự xã giao, -- 10/ phải dự bị cho phụ nữ được tham chính.
Đó là mục đích về lý tưởng, về thực hành thì họ có vận động trừ bỏ bọn xướng ca, trù biện các “công nghiệp trong gia đình”, và tổ chức “Phụ-nữ phục-vụ đoàn”, còn về phương diện nữ quyền thì chưa có kế hoạch gì cả.
Nhưng có đều này ta không thể bỏ qua được là cuộc vận động nữ quyền ở Bắc-kinh. Nhân trong chính trị xẩy ra cải biến, hồi Dân-quốc năm thứ 6, chính phủ giải tán, Nghị-viên tập hội ở Bắc-kinh để bàn việc chế định Hiến pháp, thì có Vạn-phúc nữ sĩ là học sinh trường đại học cùng Châu-hằng nữ sĩ và Thạch-thục-Khanh nữ sĩ là học sinh trường Pháp-chánh chuyên môn, mới liên lạc học sinh trường Cao-đẳng nữ sư phạm Bắc-kinh để dự bị tổ chức một đoàn thể phụ nữ tham chính, đến Quốc-hội để thỉnh nguyện cho được quyền tham chính rộng rãi. Đến ngày 15 tháng 7 khai đại hội ở trường Pháp-chính chuyên môn, khi đầu phiếu thì các trường Trung, Đại học, cùng trường Pháp chính chuyên môn đi theo một phái, còn trường Cao-đẳng nữ sư phạm thì về một phái khác. Từ đó hai bên chia nhau, phái trên tổ chức đoàn thể gọi là “Trung-hoa nữ tử tham chính hiệp tiến hội”, còn phái dưới tổ chức doàn thể gọi là “Nữ-quyền đồng minh hội”.
Chỗ khác nhau của hai hội ấy là thế này: phái trước thì chủ trương yêu cầu cho phụ nữ được tham chính, phái sau thì chủ trương yêu cầu cho trong Hiến pháp phải qui định nam nữ hoàn toàn bình đẳng cho rõ ràng.
Phái trước thì cho rằng quyền lợi ở trên pháp luật là làm bảo chứng được cho sự hành vi của loài người. Đàn bà mà không muốn cho người ta áp chế thì ngoài sự tham chính không do đường nào được nữa, bởi vậy mục đích của họ là tóm tắt trong ba đều này:
I. Đánh phá cái hiến pháp lập riêng vì đàn ông để cầu đều bảo chứng cho nữ quyền.
II. Đánh phá cái lệ chỉ cho đàn ông được quyền tập sản, để cầu kinh tế độc lập.
III. Đánh phá cái chế độ về gia đình chuyên trị để cầu tri thức bình đẳng.
Cái phương pháp của họ để đạt được mục đích ấy là gồm trong chữ “Phụ-nữ tham chính quyền” vậy.
Phái sau thì chủ trương nhiều phương diện, không những chỉ yêu cầu về phương diện tư pháp mà lại yêu cầu về phương diện hình pháp và hiến pháp cho được cách qui định khác xưa.
Mục đích của họ là:
I. Các cơ quan giáo dục trong toàn quốc phải nhất khái khai phóng cho phụ nữ.
II. Đàn ông đàn bà phải được bình đẳng và hưởng quyền lợi của nhân dân trong hiến pháp đều nhau.
III. Về tư pháp thì sự quan hệ vợ với chồng, của mẹ với con cái, về quyền thừa kế, quyền hành vi đều phải lấy nam nữ bình đăng làm nguyên tắc mà tu chính lại;
IV. Chế định phép hôn thú nam nữ bình đẳng.
V. Vấn đề hình pháp thì phải thêm điều “lấy thiếp thì phải đem đều trùng hôn mà trị”.
VI. Cấm chỉ công xướng, cấm chỉ sự buôn bán con hầu đứa ở, cấm chỉ đàn bà bó chân.
VII. Làm việc như nhau thì tiền công cũng phải như nhau; cùng bảo hộ cho mẫu tánh; phải chế định pháp luật bảo hộ cho thợ thuyền đàn bà.
Trong hai hội ấy thì hội Nữ quyền vận động đồng minh thành lập sớm hơn, đến khi hội Nữ-tử tham chính hiệp tiến thành lập thì sở cảnh sát Bắc-kinh đem mấy điều lệ trong Trị-an cảnh-sát-pháp ra để cấm phụ nữ không được da nhập các hội xã về chính trị và lập hội để bàn bạc chính trị.
Bởi vậy nên không thể vận động công khai, bèn phải đổi ra hội giảng diễn, nhưng tuy bề ngoài có cải biến như vậy mà bề trong tinh thần cũng vẫn giữ được như cũ, chứ không bị cảnh sát cấm mà phải toả chiết đâu.
Lấy toàn thể mà xem thì hai hội ấy một phương diện thì bị cảnh sát hạn chế cũng có ảnh hưởng, một phương diện thì phải hạn động lực của mình, vì trong sự vận động bây giờ chỉ có thể dùng văn tự cổ xúy cùng thảo luận và nghiên cứu học lý mà thôi.
Tuy nhiên phụ nữ ở các nơi khác vẫn hưng khởi mạnh lắm, như ở Hàng-châu có hội “Phụ-nữ tham chính vận động”, ở Thiên-tân có đoàn “Nữ-quyền thỉnh nguyện”, ở Hán-khẩu có hội “Nữ-tử tham chính đồng minh”, vẫn hỗ tương liên lạc với nhau mà hiệp sức tấn hành. Lại còn có các chi bộ ở Thượng-hải của hai hội “Nữ quyền vận động đồng minh” và “Nữ tử tham chính hiệp tiến hội” nữa.
Cả mấy đoàn thể ấy mà tương lai nhất thể tấn hành thì phụ nữ vận động thành công cũng không phải là hy vọng quá xa vậy.
Song trong sự phụ nữ vận động ở Trung-quốc đó thì toàn là người về trung đẳng giai cấp cả, chứ đàn bà lao công giai cấp chưa giác ngộ được mấy, cho nên họ không có năng lực vận động gì được. Đàn bà lao động đã không da nhập với sự vận động của trung đẳng, mà bọn trung đẳng đối với họ cũng chẳng đoái hoài đến đâu, bơi thế mà họ đứng riêng ra một phương diện.
Đại khái các lao động phụ nữ vì thiếu giáo dục, thiếu huấn luyện, lại thường thường giờ làm việc nhiều hơn đàn ông mà tiền công ít hơn, lại còn nỗi việc nhà cùng con cái phiền lụy, khiến nên hạng lao động phụ nữ cả tâm cả thân đều phải đứng vào cái trạng thái khốn cùng; tư tưởng cùng cơ quan vận động đều bị bác đoạt, ấy bởi thế mà phụ nữ về vô sản giai cấp da nhập vào sự vận động nữ quyền sau các phụ nữ trung đẳng vậy.
--------------------
TỪ KHẢO (1)
Bác đoạt |
Cướp bóc, bóc lột |
Bảo chứng
|
đối với sự hành vi hoặc tư lực của người khác đứng nhận chắc chắn |
Bảo cử |
Cử người lên để thay mặt cho dân (élection) |
Bảo thủ (đảng)
|
đảng theo tôn chỉ thủ cựu (conservateur) |
Bi tráng |
vừa bi ai vừa hùng tráng |
Bộ trưởng
|
Người đứng đầu trong một bộ quốc vụ (minister) |
Bối ảnh
|
Cái bóng đường sau, thường dùng nghĩa bóng là: trong đáy, cái tình trạng trong đáy (fond, arrière plan) |
Cá nhân (chủ nghĩa)
|
Chủ nghĩa lấy cá nhân làm bản vị, chỉ chăm về quyền lợi, hạnh phúc của cá nhân |
Căn nha
|
Căn = rễ; nha = mầm. Căn nha là chỗ mới đâm rễ nứt mầm |
Câu-lạc-bộ
|
dịch chữ “Club” ra, thường nghĩa là một hội lập ra để bàn việc chính trị |
Chế phục
|
lối quần áo, do nhà nước chế định, như quần áo quan lại, binh lính, v.v. (uniforme) |
Chiến lược |
phương lược chiến đấu |
Chuẩn đích
|
cái chỗ nhắm để bắn, chỗ cứ theo đó mà làm |
Cọng hòa
|
nói về cái chính thể trong đó chủ quyền của quốc gia thuộc về toàn thể nhân dân. Dân chủ chính thể (république) |
Công biểu |
bày tỏ công nhiên ra |
Công quyền
|
quyền lực theo công pháp, quyền lực công cộng (pouvoire publics) |
Cưỡng kiến
|
cưỡng bức mà yết kiến (người ta không bằng lòng tiếp mà cũng cưỡng bức bắt họ phải tiếp) |
Dẫn đạo |
đem đường, chỉ lối |
Đại nghị
|
nói về cái chính thể do dân được cử người đại biểu cho mình để tham dự việc chính (système parlementaire) |
Đảo loạn |
gây việc rối loạn làm cho lộn xộn |
Đầu phiếu |
bỏ phiếu để bảo cử (voter) |
Đế quốc
|
một nước có ông Hoàng đế (empire, đối với vương quốc: royaume, công quốc: duché, v.v.) |
Điểm xuyết |
tô vẽ cho đẹp |
Đoạn đầu đài |
chỗ chém đầu những người phải tử hình (guillotine) |
Giải phóng
|
mở buông, nói về những người bị áp bức bó buộc được trở lại tự do (émancipation, délivrance) |
Hà pháp |
pháp luật độc ác tàn bạo |
Hạ cấp
|
trong xã hội xưa đến nay (nhất là Tây phương) thường chia ra ba lớp người: hạ cấp, hoặc hạ lưu (basse classe, people), trung lưu (classe moyenne, bourgeoisie), thượng lưu (haute classe, aristocratie) |
Hiến pháp
|
cái pháp luật lớn để làm qui mẫu cho các pháp luật khác (constitution) |
Huấn luyện |
dạy dỗ và rèn tập |
Khả quyết
|
quyết nghị một đều gì nhận là phải (voter pour), trái lại là phủ quyết (voter contre) |
Khai phát |
mở mang |
Khẩu hiệu
|
một câu thường nói làm lệnh ngôn, châm ngôn (mot d’ordre) |
Khoáng đại |
làm cho rộng lớn thêm ra |
Khuê khổn
|
khuê = buồng, khổn = buồng, nói về nơi đàn bà ở |
Khủng hoảng
|
nói về khi có biến động nghèo ngặt (crise) |
Kiến giải |
cái ý kiến để giải thích một vấn đề gì |
Kinh tế xâm lược
|
dùng sức kinh tế để lấn quyền lợi nước khác (invasion économique) |
Lãnh tụ |
người đứng đầu |
Lao công chánh phủ
|
chánh phủ do lao động công nhân chủ trương (gouvernement du prolétariat) |
Liễu kết |
đã xong rồi |
Manh nha |
mầm mống |
Mẫu tính |
nói gồm cả chức nghiệp, tính chất người làm mẹ (maternité) |
Mô phạm |
khuôn mẫu |
Nam tính
|
chữ dùng để chỉ giống đàn ông (sexe masculin) |
Não lực |
cái sức của não, của trí khôn |
Nghị viện
|
thường trong chánh thể đại nghị thì Thượng nghị viện và Hạ nghị viện gồm gọi chung là Nghị viện (parlement) |
Nhiệm vụ |
trách nhiệm, chức vụ |
Nhiệt liệt |
nóng nảy mạnh mẽ |
Nữ tính |
chữ dùng để chỉ giống đàn bà (sexe féminin) |
Phản động lực |
cái sức chống lại |
Phát biểu |
bày tỏ ra ngoài |
Phế triệt |
bỏ hẳn đi |
Phụ dung |
phụ thuộc, phụ theo |
Phụ nữ tham chính
|
nói về phụ nữ yêu cầu để tham dự vào việc chính |
Quân chủ
|
nói về cái chính thể trong ấy chủ quyền quốc gia là thuộc về vua (monarchie). Quân chủ chuyên chế (monarchie absolue); Quân chủ lập hiến (monarchie constitutionnelle) |
Quần tính |
cái tính chất đối với nhân quần |
Quốc dân hội nghị (Quốc hội)
|
hội nghị gồm các đại biểu của quốc dân (assemblée nationale, congrès national) |
Sản dục |
sinh ra và nuôi nấng |
Sản nghiệp cách mạnh
|
Hồi cuối thế kỷ thứ 18, đầu thế kỷ 19, ở Âu châu vì cơ khí phát minh nhiều nên công nghệ phát đạt hơn xưa nhiều lắm. Sự thay đổi ấy gọi là sản nghiệp cách mạnh (révolution industrielle) |
Sát thân thành nhân |
giết mình mà làm điều nhân |
Sơ cử
|
cử lần đầu. Nguyên trong hiến pháp Hoa-kỳ, cử Tổng thống phải cử hai lần. Lần đầu thì ờ các châu cử đại biểu, lần thứ hai các đại biểu mới cử Tổng thống |
Tán đồng |
khen mà biểu đồng tình |
Tán hứa |
khen mà hứa chuẩn |
Tập sản
|
thừa kế của cải của người đã chết (heriter) 集產đừng lộn với chữ 集產là họp của cải trong xã hội lại làm chung (collectivisme) |
Tàng trân viện |
Nơi bày chứa đồ vật quí để công chúng đến xem (musée) |
Tham mưu
|
Quan chức có dự việc cơ mật trong việc quân (état major) |
Thắng lợi |
được phần hơn |
Thẩm tra |
tra xét (enquête) |
Thoái tự |
thối lui |
Thông quá
|
nói về một hội đồng hay nghị viện chuẩn y một điều gì |
Thống súy |
ông nguyên súy trong binh đội |
Thủ tướng |
người đứng đầu trong các bộ quốc vụ (Président du conseil des ministers) |
Tỏa chiết |
mòn đi, gẫy đi |
1Jean-Jacques Rousseau (1712-1778), người Pháp-Thụy sĩ, triết gia, nhà văn, nhà tư tưởng thời đại Khai sáng.
2Martin Luther (1483-1546), người Đức, nhà thần học đạo Thiên chúa, tu sĩ dòng Augustin, nhà cải cách tôn giáo.
3Ý nói Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền (chữ Pháp: Déclaration des Droits de l'Homme et du Citoyen), văn kiện nền tảng của Đại Cách mạng Pháp 1789, quy định quyền con người của mọi cá thể người.
3Anne-Josèphe Théroigne de Méricourt (1762-1817), người Bỉ, nhà hoạt động xã hội thời Cách mạng Pháp.
4Claire Lacombe (1765-1798), người Pháp, nghệ sĩ, nhà hoạt động cách mạng, nhà hoạt động nữ quyền.
5Theo các tài liệu hiện nay thì tên nhân vật là Olympe de Gouges, cũng gọi là Marie Gouze (7.5.1748-3.11.1793), người Pháp, nhà văn, nhà báo, tác giả “Tuyên ngôn quyền người phụ nữ và nữ công dân” (1791), văn kiện bị hội đồng quốc ước (Convention nationale) bác bỏ. Chính do văn kiện này cùng các tác phẩm khác, Olympe de Gouges bị phái Jacobin kết tội phản bội, bị xử tử cùng với hàng loạt người thuộc phái Girondin trong thời đại khủng bố. Từ 2006 một quảng trường tại Paris và nhiều trường học tại các thành phố khác ở Pháp được mang tên Olympe de Gouges.
6Nicolas de Condorcet (1743-1794) triết gia, nhà toán học Pháp.
7 Honoré Gabriel Riqueti, comtede Mirabeau (1749-1791) người Pháp, nhà hoạt động của đại cách mạng Pháp, một trong những diễn giả và nhà chính trị nổi tiếng nhất của Pháp.
8 Maximilien Robespierre (1758-1794) người Pháp, một trong những nhà hoạt động chính trị có ảnh hưởng nhất của Đại Cách mạng Pháp.
9Robert Owen (1771-1858) người Anh (gốc xứ Wels), triết gia, nhà sư phạm, một trong những nhà cải cách xã hội đầu tiên ở thế kỷ XIX.
10Sách này của S. Mill tên tiếng Anh là “The Subjection of Women” (viết 1861, công bố 1869)
11Từ “sản nghiệp” ở đây dùng để dịch “industrie” (công nghiệp, công nghệ), “sản nghiệp cách mạng” dùng để dịch “révolution industrielle” (cách mạng công nghiệp)
(1)Những chữ nào đã có chú giải trong các sách của Quan hải tùng thư đã xuất bản thì không chú giải lại nữa. – Q.H.T.T.
tin tức liên quan
Videos
Bất Bình Đẳng trong giáo dục là nguồn gốc của bạo lực và bất ổn xã hội
Thao thiết những vần thơ mùa tựu trường
Khái quát về cơ cấu giai tầng ở nước ta trong lịch sử (trước năm 1945)
Họa sĩ Lê Huy Tiếp và những món quà đặc biệt giành cho quê hương Nghệ An
Hội thảo khoa học cấp quốc gia: “Chủ tịch Hồ Chí Minh - Biểu tượng cao đẹp của ý chí, khát vọng độc lập của dân tộc, tự do, hạnh phúc cho Nhân dân”
Thống kê truy cập
114572715

2261

2301

2261

219772

130677

114572715