Góc nhìn văn hóa
Thơ ca cận đại Nhật Bản qua một số gương mặt tiêu biểu

Thơ ca cận đại Nhật Bản ra đời gắn liền với công cuộc duy tân Nhật Bản thời Minh Trị (1868-1912) và kết thúc vào năm 1945. Quá trình cận đại hóa thơ ca Nhật Bản có thể nói bao gồm quá trình xuất hiện thể thơ mới Tân thể thi (Shintaishi) và quá trình đổi mới các thể thơ truyền thống.
Tân thể thi (shintaishi/thể thơ mới) bắt nguồn của tên gọi của một tập thơ sáng tác và dịch thơ phương Tây của một nhóm giáo sư Đại học Tokyo: Tân thể thi sao, tác phẩm này được coi là tác phẩm mở đầu cho phong trào sáng tác thơ mới. Tân thể thi sao (tháng 8/1882 - Minh trị 15) do Toyama Masakazu (bút danh Chiyuzan), Yatabe Ryôkichi (Shôkon), Inone Tetsujirô (Sonke) đều là giáo sư Đại học Tokyo. Tập thơ bao gồm 14 bài thơ dịch từ thơ Anh, Mỹ, Pháp, 5 bài sáng tác và bài tựa. Ý đồ của nhóm tác giả này là: mô phỏng phong cách thơ phương Tây để sáng tạo ra một thể thơ mới, như các tác giả tuyên bố:
- Sáng tác ra những bài thơ có “ngôn ngữ bình thường”.
- Có thể trình bày được “ý tưởng liên tục”.
- Làm ra những “bài ca thời Minh Trị”, tức là thể hiện được tinh thần thời đại.
Tanka (đoản ca), haiku (bài cú), những thể thơ truyền thống của Nhật Bản, bị bó buộc bởi các luật lệ đặc thù: phải dùng từ chỉ mùa (Quý ngữ/kigo), từ ngắt (Thiết tự/kireji) và có hình thức rất ngắn (Tanka 31 âm, Haiku 17 âm) không thể trình bày được suy nghĩ và cảm xúc của người viết một cách tự do, đầy đủ. Đối với người đọc bình thường thì hiểu được Tanka hay Haiku không phải là chuyện dễ dàng. Tân thể thi sao là tác phẩm sớm nhất thể hiện được tinh thần “Văn minh khai hóa” quán xuyến Nhật Bản suốt thời Minh Trị. Cùng với Tân thể thi sao còn có một số tác phẩm khác nữa cũng chủ trương xây dựng một nền văn học mới, như:
- Tinh thần tiểu thuyết (Tiểu thuyết thần tủy/ Shosetsu shinzui) của Tsubouchi Shôyô viết năm 1886 đề nghị đổi mới tiểu thuyết
- Bài “Nói về Haiku” của thi sĩ Masaoka Shiki đề nghị cách tân Haiku (1887).
Tân thể thi sao được coi như tiếng chuông đòi đổi mới thi ca, chứ bản thân nó chưa thuyết phục về mặt nghệ thuật. Dẫu sao thì các tác giả của nó vẫn không phải là thi sĩ: Toyama là nhà xã hội học, Yatabe là nhà sinh vật học, còn Inone là nhà nghiên cứu triết học. Họ là những học giả của trào lưu “Khai hóa văn minh” hơn là những thi sĩ thực thụ. Tính chất lai ghép của nó cũng là đặc tính chung của giai đoạn đầu ảnh hưởng phương Tây.
Lúc mới ra đời Tân thể thi sao bị khắp nơi phê bình, chế diễu một cách gay gắt, nhưng dần dần số người ủng hộ tăng lên, rồi sau đó thành cả một trào lưu học theo Tân thể thi sao. Tập thơ này đã thể hiện được tinh thần thời Minh Trị: duy tân và tự do dân quyền. Những bài thơ gây được sự chú ý rộng rãi đương thời như: Bài ca khuyến học của Yatake, bài Rừng thơ tự do của Ueki Emori, Bạt Đao đội (Đội quân Bạt Đao/ rút kiếm) của Chiyuzan (bút danh của Toyama Masakazu)…
Bài ca Bạt Đao đội, xuất hiện trong cuộc nội chiến Tây Nam, sau đó được lưu truyền khắp nước, trở thành bài hát truyền thống của quân đội Nhật Bản (gọi là Phù Tang ca). Hình thức và tinh thần của nó khác hẳn với tanka, haiku cổ điển:
Bạt đao đội
(Đội quân rút kiếm)
Chúng ta đây, quân đội triều đình
Kẻ thù ta, kẻ thù triều đình,
Kẻ thù ta - đất trời không dung thứ.
Đại tướng của ta,
Anh dũng vô song.
Chiến binh chúng ta,
Một lòng quyết tử,
Những chàng trai anh dũng,
Không thẹn với quỷ thần.
Trời không tha những phường phản bội.
Vinh quang thay những người lính chúng ta.
Tiến lên, cùng nhau tiến lên,
Cho đến khi quân thù gục ngã.
Tiến lên, cùng nhau rút kiếm ra,
Những chàng trai anh hùng bất tử!
Tiếp theo Tân thể thi sao là tập thơ dịch Ư mẫu ảnh (Omokage/ Vang bóng) xuất bản năm 1889 của một nhà văn, nhà thơ nổi tiếng mới du học từ Đức về: Mori Ogai (1862-1922). Tập thơ này dịch 17 bài thơ của nhà thơ phương Tây: Goethe, Byron, Shakespeare, Heine v.v… Thành công của thi tập này là có nhiều bài dịch rất hay, xúc cảm mới mẻ, hình thức đa dạng, và có giai điệu lạ lùng mang hương vị Âu Châu. Khác với tập Tân thể thi sao, một tập thơ có tính “khai sáng” nặng về chính trị xã hội, Ư mẫu ảnh có tính nghệ thuật cao. Tuy nhiên đó vẫn là thơ dịch, thơ mới với tư cách là những sáng tác nghệ thuật đích thực, thu hút được độc giả thì phải đợi đến khi hai nhà thơ Kitamura Tokuku và Shimazaki Tôson xuất hiện, mới thực sự được khẳng định.
Kitamura Tokoku (1868-1894) là người đã xác lập được địa vị vững chắc của thơ ca thời cận đại bằng sự thể hiện sâu sắc nội tâm của con người cá nhân. Rút lui khỏi phong trào Tự do dân quyền, Tokoku chuyên tâm vào văn học. Năm 1887 ông cho ra đời trường ca Khúc hát Bồng lai và 1889 trường ca Bài thơ về người tù nước Sở, cả hai đều chịu ảnh hưởng sâu sắc tinh thần Thiên Chúa giáo. Năm 1883 ông sáng lập tờ Văn học giới để phát triển nền văn học mới. Tokoku tự coi mình là học trò của Byron. Trong bài Đặc quyền của nhà thơ (khoảng năm 1890), ông xác tín về nhiệm vụ thể hiện cái tôi của thi nhân, coi đó như là sứ mệnh của văn học.
Thành công có tính thuyết phục nhất như là biểu hiện của sự thắng lợi hoàn toàn của Tân thể thi là tập thơ mới mẻ, trẻ trung của thi sĩ Shimazaki Tôson: Rau non (Nhược thái tập, 1897).
Shimazaki Tôson (1872-1943) được coi là người khai sinh ra thơ mới Nhật Bản. Tập thơ Rau non (Nhược thái tập 若菜集Wakanashu) xuất bản năm 1897 gồm 51 bài thơ và 1 bài tựa được viết với cảm hứng lãng mạn, được coi như tập thơ đánh dấu sự ưu thắng của thơ mới Nhật Bản. Sau Rau non Tôson còn cho xuất bản ba tập khác nữa: Một lá thuyền (Nhất diệp chu 一葉舟, 1898), Cỏ mùa hạ (Hạ thảo夏草, 1898), Mơ rụng (Lạc mai tập 落梅集, 1901). Thơ Tôson đã thể hiện nỗi buồn của tuổi trẻ, những suy tư về cuộc sống, tự do, tình yêu và nghệ thuật. Rất nhiều bài thơ của ông cho đến nay vẫn được truyền tụng: Tình đầu, Bài ca gió thu (cùng trong tậpRau non), Bên thành Komoro (trong tập Mơ rụng)….
Nói đến thơ cận đại Nhật Bản thì không chỉ có Tân thể thi mà còn phải nói đến sự cách tân haiku và tanka. Cùng với sự ra đời của Tân thể thi, các thể thơ truyền thống của Nhật Bản cũng có sự cách tân quan trọng: Tanka cận đại (đứng đầu là Yosano Tekkan và nữ thi sĩ Yosano Akiko), Haiku cận đại (đứng đầu là Masaoka Shiki và các học trò của ông: Takahama Kyoshi, Kawahigashi Hekigoto), cả hai đều đổi mới theo khuynh hướng tự do hóa, tăng cường cảm xúc lãng mạn, tôn trọng cá nhân và đề cao việc phản ánh hiện thực.
Từ cuối TK.XIX đến đầu TK.XX, các trào lưu thơ ca theo kiểu phương Tây: thơ lãng mạn, thơ tự do, thơ tượng trưng, và các trường phái tiền phong chủ nghĩa khác cũng lần lượt ra đời. Các nhà thơ cận đại sống mãi qua thời gian đó là: Don Bansui, Hagiwara Sakutaro, Miyazawa Kenji, Nakamura Chuya…
Cuộc cách mạng trong thơ thời cận đại ấy đã mở đường cho nền thơ ca hiện đại của Nhật Bản ngày nay. Dưới đây là một số tác phẩm nổi tiếng được đông đảo người Nhật biết đến.
*
1. SHIMAZAKI TONSON
Shimazaki Toson (1872-1943): nhà thơ, nhà văn cận đại tiên phong của Nhật Bản. Năm 1897 cho xuất bản tập thơ đầu tiên Rau non 若 菜 集 (Wakanashu), năm 1906 cho ra đời tiểu thuyết Phá giới 破 戒, ông cũng được coi là một trong những nhà thơ, nhà văn mở đường cho thơ mới và tiểu thuyết cận đại Nhật Bản. Dưới đây là những 3 bài thơ trong số những bài quen thuộc nhất của ông.
Tình đầu
Gặp em bên gốc táo Tóc mới chải hất lên Lược em giắt phía trước Có bông hoa khó quên
Cánh tay trắng hiền dịu Em đưa táo cho tôi Trái mùa thu hồng nhạt Ươm mối tình tinh khôi
Trái tim tôi thổn thức Phất phơ sợi tóc ai Ly rượu tình em rót Hồn tôi say ngất ngây
Trong khu vườn táo ấy Một lối nhỏ mới thành Trái tim tôi muốn hỏi Ai người in dấu chân ? |
初 恋
まだあげ初めし前髪の
やさしく白き手をのべて
わがこころなきためいきの
林檎畠の樹の下に
|
|
Bài ca gió thu Không biết tự khi nào, nỗi buồn đến với những cơn gió thu thổi về làng ven núi làm rối bời những chòm hoa lau
Gió thu về lặng lẽ Từ biển tây nổi lên Mây trắng múa xao động Nháo nhác bay phương nào
Ráng chiều rực cành cao Lá ngô đồng hoà nhạc Nghe tiếng khách đặc biệt Biết gió thu đến rồi
Đêm qua gió thu thổi Sáng thấy lá vào nhà Gió thổi thu lá lại Chim ẩn mình đêm qua
Xa xa rặng núi xanh Rừng phong đà nhuốm đỏ Trời trong không thấy gió Thấy ở lá vàng lay
Ôi, gió tây mát quá ! Khi lùa vào lá cây Ôi, gió thu buồn quá! Than với lá phong gầy
Gió thu thổi ào ạt Lá vàng phấp phới bay Như áo người tu sĩ Đi truyền đạo đông tây
Gió thu thổi dữ dội Sức mạnh với âm thanh Như đại bàng vỗ cánh Bay vào trời bình minh
Gió tây đáng sợ thật Quét lá mù mịt trời Gió thu buồn tê tái Bạt ngàn lá thu rơi
Kiếm tung hoành bờ cõi Cũng có hạn mà thôi Lưỡi chửi đời thậm tệ Cũng đột ngột tắt rồi(1)
Hơi thu làm mê hoặc Dữ dội khắp núi đồi Làm cho đời khô héo Gió thu vẫn chưa thôi
Mặt trời trong bình kín : Đất trời vắng lặng thay ! Gió đi đâu, ai biết Phiêu bồng với lá bay.
|
秋風の歌
さびしさはいつともわかぬ山里に
|
____________
(1) Ngày xưa người ta hay hành quyết các tử tội vào mùa thu. Ở đây nói đến những người nổi loạn hay các trí thức chống đối bị triều đình tử hình.
Bên thành cổ Komoro
Bên thành Komoro Mây trắng sầu du tử Hoa xoan còn chưa nở Cỏ non chưa nhú mầm Đồi phơi trắng chiếu chăn Tà dương soi tuyết mỏng Nắng vẫn còn toả ấm Ruộng vương hương đâu đây Chiều xuân sương thoảng bay Sắc mạ xanh rất mỏng Có vài người lữ khách Trên đường ruộng bước nhanh Chiều xuống vọng núi xanh Sáo mục đồng buồn bã Dòng Thiên Khúc vật vã Ghé quán trọ bên sông Rượu đục tạm ấm lòng Ngủ vùi bên gối cỏ.
|
小諸なる古城のほとり
小諸なる古城のほとり |
2. DOI BANSUI
Doi Bansui土井 晩翠 (1871-1952): nhà thơ, nhà nghiên cứu văn học Anh. Trong khi học ở Đông Kinh Đế quốc Đại học (Đại học Tokyo ngày nay), ông làm biên tập cho tạp chí Đế Quốc văn học và đăng thơ ở đó. Với tập thơ đầu tay Thiên địa hữu tình, ông được coi là nhà thơ tề danh với Shimazaki Tôson. Thơ của ông mang đậm phong cách, điệu thức thơ chữ Hán, nên được cho rằng đã thể hiện vẻ đẹp nam tính trong thơ cận đại Nhật Bản. Bài thơ tiêu biểu nhất của ông là bài Trăng sáng thành hoang 荒城の月. Bài thơ diễn tả cảnh trăng sáng soi chiếu vào một ngôi thành hoang phế, nơi ghi dấu vẻ đẹp kiêu hùng, bi tráng ngày xưa của các võ sĩ samurai Nhật Bản. Bài thơ với phần nhạc của Takiren Taro rất nổi tiếng, được đưa vào trường học, quân đội, và được coi là một trong những bài ca được người Nhật yêu thích nhất qua mọi thời đại.
Trăng sáng thành hoang
Xuân đến lầu cao mở tiệc hoa Anh đào soi bóng đáy chén ngà Rọi chiếu qua hàng tùng vạn đại Đâu rồi ánh sáng của ngày qua?
Thu về thành luỹ sắc sương pha Hàng nhạn kêu buồn lưng trời xa Dãy gươm dựng đứng chiếu lấp lánh Đâu rồi ánh sáng của ngày qua?
Trăng sáng thành hoang suốt đêm nay Ánh xưa giờ chiếu cho ai đây? Thành hoang chỉ mọc đầy gai góc Chỉ còn gió hát hàng thông gầy
Trời xanh bóng dáng chẳng đổi thay Thịnh suy đắp đổi thế gian này Bây giờ sao vẽ được cảnh cũ ! Trăng sáng thành hoang lúc canh chày.
|
荒城の月
春 高楼の花の宴 めぐる盃 影さして 千代の松が枝 わけ出でし むかしの光 今い ずこ
秋 陣営の霜の色 鳴き行く雁の 数見せて 植うるつるぎに 照りそいし むかしの光 今 いずこ
今荒城の夜半の月 かわらぬ光たがためぞ 垣にのこるはただかつら 松に歌うはただ嵐
天上影は 変らねど 栄枯は移る 世の姿 写さんとてか 今もなお ああ荒城の 夜半の月
|
|
|
3. MASAOKA SHIKI
Masaoka Shiki 正岡 子規 (1867- 1902) sinh ở tỉnh Ehime. Tên thật là Tsunenori 常 則, ông cũng có bút danh khác là Take no Satobito 竹 の里人. Shiki là nhà thơ haiku và tanka. Bên cạnh việc cải cách haiku trên báo Nhật Bản, ông còn sáng lập Hội tanka Negishi và hết sức cải cách tanka. Những tác phẩm chủ yếu: Những câu chuyện về haiku ở thư phòng Datsusai 獺祭書屋俳話 (luận về haiku), Sách chỉ dẫn làm tanka 歌よみに与ふる書 (ca luận), Bài ca Làng tre 竹の里歌 (tập tanka), Núi lạnh cây khô 寒山落木 (tập haiku)…
Tanka
- Từ sáu thước phòng bệnh |
夜の床に |
Yo no toko ni |
Lơ mơ mắt nhìn |
寝ながら見ゆる |
Nenagara miyuru |
Ngoài kính cửa sổ |
ガラス戸の |
Garasuto no |
Trăng tỏ ngời |
外あきらかに |
Soto akiraka ni |
Đêm sâu. |
月ふけわたる |
Tsuki fukewataru. |
- Từ sáng đến hoàng hôn |
若松の |
Waka matsu no |
Cơn sốt hầm hập |
芽だちの緑 |
Medachi no midori |
Đã thua cuộc |
長き日を |
Nagaki hi wo |
Màu xanh mướt |
夕かたまけて |
Yuukata makete |
Những mầm thông non |
熱いでにけり |
Netsu idenikeri |
- Vươn lên cao đỏ tía |
くれないの |
Kurenai no |
Cây hoa hồng |
二尺伸びたる |
Nishaku nobitaru |
Và mầm gai mới nhú |
薔薇の芽の |
Bara no me no |
Mềm mại |
針やはらかに |
Hari yawaraka ni |
Mưa xuân. |
春雨の降る |
Harusame no furu |
Haiku
- Nghe điếc cả tai |
説教に |
Sekkyou ni |
Những lời thuyết giáo |
汚れた耳を |
kegareta mimi wo |
Ngoài kia tiếng chim quyên. |
ホトトギス |
Hototogisu. |
- Biển xanh |
海青し |
Umi aoshi |
Núi trắng tuyết |
雪の山々 |
Yuki no yama yama |
Chim bay về. |
鳥帰る |
tori kaeru. |
- Ô kìa chú quạ |
行水の |
Gyozui no |
đang đắm đuối nhìn |
女にほれる |
onna ni horeru |
cô gái tắm bên giếng. |
烏かな |
karasu kana. |
4. YOSANO AKIKO
Yosano Akiko 与謝野 晶子 (1878 – 1942) sinh ở phủ Osaka, kết hôn với Yosano Tekkan nên mới đổi lại họ tên thành Yosano. Akiko nổi danh ở tạp chí Minh tinh 明星 (Myojo/ Sao mai), các tác phẩm chính: Tóc rối 乱れ髪 (Midare gami, 1901), Cỏ độc 毒草(Dokugusa/ Độc Thảo - viết chung, 1904), Manh áo tình yêu 恋衣(Luyến y, viết chung, 1905 ), Vũ nữ 舞姫 (Maihime), Truỵên Genji-Bản dịch tiếng Nhật hiện đại 新訳源氏物語… Với những bài tanka cách tân trẻ trung, táo bạo, mang phong cách phục hưng thời Minh Trị, Akiko được đánh giá là nữ thi sĩ tanka tiên phong và tiêu biểu nhất của thơ cận đại Nhật Bản.
- Ô kìa, trăng mới lên |
ああ皐月 |
A a sa tsuki |
trên cánh đồng nước Pháp |
仏蘭西の野は |
furansu no wa |
đỏ rực như màu lửa |
火の色す |
hi no iro su |
anh là hạt dẻ nhỏ |
君も雛罌粟 |
kimi mo kokuriko |
em cũng hạt dẻ con. |
われも雛罌粟 |
ware mo kokuriko |
- Băng qua vườn Kì Viên |
清水へ |
Kiyomiza e |
Bước tới Thanh Thuỷ Tự |
祇園をよぎる |
Gion wo yogiru |
Anh đào dưới trăng đêm |
花月夜 |
Sakura zuki yo |
Trong hội này em gặp |
こよひ逢ふ人 |
Koyoi au hito |
Ai cũng cười hân hoan. |
みな美しき |
Mina utsukushiki |
- Làn da mềm mại |
やは肌の |
Ya wa hada no |
Dòng máu nóng bừng |
熱き血潮に |
Atsu ki chishio ni |
Anh cũng chẳng đụng tay vào, chẳng ngắm |
触れも見で |
Fure mo mide |
Anh chỉ nói về đạo |
寂しからずや |
Sabishikarazu ya |
Có gì buồn không anh. |
道を説く君 |
Michi wo toku kimi |
|
|
|
- Như những con chim nhỏ |
金色の |
Konjiki no |
Ánh sắc vàng |
小さき鳥の |
Chiisaki tori no |
Lá ngân hạnh rơi lả tả |
形して |
Katachi shite |
xuống hoàng hôn, |
銀杏散るなり |
Ichô chirunari |
gò hoang. |
夕日の岡に |
Yuuhi no oka ni. |
- Trái tim em rối bời |
みだれごこち |
Midare gokochi |
Tâm hồn em bấn loạn |
まどひごこちぞ |
Madoi gokochi zo |
Biết bao nhiêu lần rồi |
頻なる |
Shikiri naru |
Tay không kịp che vú |
百合ふむ神に |
Yuri fumu kami ni |
Khi gặp thần tình yêu. |
乳おほひあえず |
Chichi ooi aezu. |
- Đặt tay lên bầu vú |
乳ぶさおさへ |
Chibusa osa e |
Và bức màn thần bí |
神秘のとばり |
Shinbi no tobari |
Hất bỏ ra ngoài |
そとけりぬ |
Soto keri nu |
Ôi, hai bông hoa ấy |
ここなる花の |
Kokonaru hana no |
Ánh lên màu hồng tươi. |
紅ぞ濃き |
Kurenai koki. |
5. HAGIWARA SAKUTARO
Hagiwara Sakutarô 萩原 朔太郎(1886-1942): nhà thơ hàng đầu của thơ ca Nhật Bản cận đại. Sinh ở tỉnh Gumma-ken, trong một gia đình bác sĩ danh giá và giàu có. Sakutaro từ nhỏ đã là một cậu bé ốm yếu, suy nhược, được sống trong sự nuông chiều của bà nội và mẹ. Lớn lên đi học và nghỉ học nhiều lần, nhưng dù có học gì anh cũng từ chối con đường làm bác sĩ y khoa mà người cha đã vạch sẵn để theo đuổi con đường nghệ thuật: âm nhạc và thi ca. Cùng với nhà thơ Murou Saisei, anh sáng lập ra tạp chí Tình cảm(Kanjou). Tác phẩm chủ yếu : Tiếng rú dưới trăng (Tsuki ni hoeru), Con mèo màu xanh (Aoneko), Đảo băng (Koorishima), tập lý luận phê bình : Nguyên lý thơ. Ông là người có cống hiến quyết định cho việc giải phóng hình thức thơ, là nhà thơ khẩu ngữ tự do thành công nhất thời cận đại. Thơ ông giàu chất nhạc, và với cảm giác tinh tế, nhạy bén, kỳ lạ ông đã thể hiện được nỗi u sầu, tuyệt vọng, và những băn khoăn về ý nghĩa nhân sinh của người Nhật Bản thời cận đại. Bài thơ TIẾNG GÀ (Niwatori, trong tập Con mèo màu xanh) dưới đây được sáng tác vào năm 1923 trong trạng thái tuyệt vọng tận cùng của nhà thơ. Đây là một trong những bài thơ tiêu biểu nhất cho phong cách thơ ông.
Tiếng gà
Trước khi những đám mây từ phương Đông bay đi
Ngoài cánh cửa nhà nhà gà cất lên tiếng gáy
Tiếng ngân dài âm u
Đó là tiếng mẹ gọi từ làng quê buồn bã
Cúc cù cu, Cúc cù cu, Cù cúc cu (1)
Trên sàn lạnh buổi sáng
Hồn tôi vỗ cánh bay
Qua khe hở liếp cửa che mưa nhìn thấy
Bốn bề sáng bóng lạ thay
Thế nhưng trước khi những đám mây từ phương Đông bay đi
Một nỗi sầu len vào sàn ngủ
Vượt qua những ngọn cây sương khói phủ
Tiếng gà cất lên từ làng quê xa xôi
Cúc cù cu, Cúc cù cu, Cù cúc cu
Người yêu ơi
Người yêu ơi
Trong bóng liếp cửa mờ tảng sáng
Tôi ngửi thấy mùi hoa cúc thoang thoảng
Như thể mùi một tâm linh bệnh hoạn
Dường như mùi cúc trắng đang rữa dần
Người yêu ơi
Người yêu ơi
Trước khi những đám mây từ phương Đông bay đi
Hồn tôi lê bước chân vật vờ mộ địa
Một nỗi cồn cào khổ đau nào đang gọi tên tôi
Màu không khí hồng nhạt này làm tôi không chịu nổi
Người yêu ơi
Mẹ ơi
Hãy đến nhanh và thổi tắt ngọn nến đi thôi
Tôi đã nghe thấy tiếng gầm gào của cơn bão
Đang thổi đến nơi này, một góc đất xa xôi
Cúc cù cu, Cúc cù cu, Cù cúc cu…
鶏
しののめきたるまへ
家家の戸の外で鳴いてゐるのは鶏(にはとり)です
聲をばながくふるはして
さむしい田舎の自然からよびあげる母の聲です
とをてくう、とをるもう、とをるもう。
朝のつめたい臥床(ふしど)の中で
私のたましひは羽ばたきをする
この雨戸の隙間からみれば
よもの景色はあかるくかがやいてゐるやうです
されどもしののめきたるまへ
私の臥床にしのびこむひとつの憂愁
けぶれる木木の梢をこえ
遠い田舎の自然からよびあげる鶏(とり)のこゑです
とをてくう、とをるもう、とをるもう。
戀びとよ
戀びとよ
有明のつめたい障子のかげに
私はかぐ ほのかなる菊のにほひを
病みたる心靈のにほひのやうに
かすかにくされゆく白菊のはなのにほひを
戀びとよ
戀びとよ。
しののめきたるまへ
私の心は墓場のかげをさまよひあるく
ああ なにものか私をよぶ苦しきひとつの焦燥
このうすい紅(べに)いろの空氣にはたへられない
戀びとよ
母上よ
早くきてともしびの光を消してよ
私はきく 遠い地角のはてを吹く大風(たいふう)のひびきを
とをてくう、とをるもう、とをるもう。
__________________
(1)Trong nguyên bản tiếng gà được thể hiện hơi đặc biệt là: “Towotekuu, toworumou, toworumou” (tô-tê-ku, tô-ru-mô, tô-ru-mô). Mặc dù là từ tượng thanh, nhưng đối với người Nhật thì lại nghe như là: Đến lấy đi, Lấy dùm tôi, lấy dùm tôi (cuộc sống này). Chúng tôi không biết cách nào để dịch những từ này ngoài cách dùng từ tượng thanh thông thường trong tiếng Việt. Cũng lưu ý thêm: con gà trong Thần đạo Nhật Bản cũng như trong tín ngưỡng vật linh Đông Nam Á có một ý nghĩa linh thiêng đặc biệt.
6. MIYAZAWA KENJI
Miyazawa Kenji宮沢 賢治 (1896-1933), quê ở tỉnh Iwate, một tỉnh nghèo đói ở phía bắc Nhật Bản. Trong khi học khoa Nông Lâm trường Cao đẳng Morioka, Kenji trở thành tín đồ Nhật Liên tông, và vừa viết truyện đồng thoại vừa làm thơ. Ra trường, anh dạy ở trường canh nông Hanamaki trong vùng. Được ít lâu thì xin nghỉ việc, mở văn phòng hướng dẫn nông dân nghèo trồng lúa. Kenji mất năm 37 tuổi vì bị bệnh lao.
Tác phẩm chủ yếu là truyện đồng thoại (truyện trẻ em): Quán ăn có nhiều đơn đặt hàng 注文の多い料理店 (Chuumon no ôi ryôriten, bản dịch tiếng Việt: Người săn gấu và mèo rừng, Nguyễn Trọng Định dịch), Đêm trên tuyến đường sắt lên Ngân hà 銀河鉄道の夜 (Ginga tetsudô no yoru, bản dịch tiếng Việt: Đường lên Ngân hà, Nguyễn Đỗ An Nhiên dịch, NXB.Trẻ), Matasaburô - đứa con của gió 風の又三郎 (Kaze no Matasaburô)…Tập thơ duy nhất in lúc sống: Mùa xuân và Tu La 春と修羅 (1924), trong đó bài thơ nổi tiếng nhất của ông là Buổi sáng vĩnh biệt 永訣の朝 (Eiketsu no asa).
Bài thơ Buổi sáng vĩnh biệt (sáng tác năm 1922) là bài thơ khóc người em gái tên là Toshiko, nhỏ hơn Kenji 2 tuồi, chết năm 24 tuổi vì bệnh lao. Ngay trong lúc hấp hối, người em vẫn muốn làm cho anh vui bằng yêu cầu khẩn khoản mà nũng nịu: “Lấy cho em bát tuyết đi anh!”, cô muốn ăn tuyết cho đỡ khát, vì người bị bệnh lao thổ huyết nhiều hay khát nước. Từ tận cùng nỗi đau, bài thơ tuôn trào ra một cách tự nhiên, và đạt đến vẻ đẹp kỳ lạ. Đọc bài thơ người ta hiểu được cuộc sống khốn cùng của những người nông dân Nhật Bản bị bỏ quên trong một đất nước “phú quốc cường binh”, người ta cũng hiểu thêm về tình yêu và lòng vị tha. Trong bài thơ có rất nhiều ánh sáng: ánh sáng dị thường của bầu trời báo hiệu điềm chẳng lành, ánh sáng lờ mờ trong phòng người bệnh lao (bệnh lao đầu thế kỷ XX vẫn là bệnh không có thuốc chữa), ánh sáng trắng trong của bông tuyết ngoài trời và bông tuyết Toshiko, ánh sáng của niềm hy vọng về một thế giới kiếp sau và hơn cả là ánh sáng của tình yêu thương – tình yêu thương ruột thịt, và lớn hơn nữa là tình yêu đối với tất cả những người khốn khổ. Buổi sáng vĩnh biệt đã sống cả gần một thế kỷ, được đưa vào rất nhiều thi tuyển và sách giáo khoa, cho đến nay vẫn được coi là một trong những bài thơ được yêu thích nhất mọi thời đại của người Nhật.
Buổi sáng vĩnh biệt
Chỉ nội hôm nay
Em gái tôi sẽ vĩnh viễn đi xa
Mưa tuyết rơi, trời sáng trắng dị thường
“Lấy cho em bát tuyết đi anh !”
Từ những đám mây ảm đạm ngả sang hồng
Mưa tuyết rơi rào rạt
“Lấy cho em bát tuyết đi anh !”
Tôi cầm lấy hai bát sành sứt mẻ
Có hình bông súng xanh
Rồi cắm đầu phóng đi như viên đạn
Giữa trời mưa tuyết xám
Mang tuyết về em ăn
“Lấy cho em bát tuyết đi anh !”
Từ đám mây mù rợn lên màu huyết dụ
Mưa tuyết chìm rào rạt xuống bùn
Ôi em Tô-si-kô,
Đang giờ phút vĩnh quyết
Vẫn muốn làm anh vui
Nên đòi anh lấy tuyết
Một bát tuyết trắng ngần
Cám ơn em hiền lành
Giờ anh đang thẳng tiến
“Lấy cho em bát tuyết đi anh !”
Em đã nhờ đến anh
Giữa làn hơi hào hển và cơn sốt bừng bừng
Từ vũ trụ mênh mông với Ngân hà, Thái dương và bầu khí quyển
Đã đưa xuống cho em một bát tuyết cuối cùng…
…
Trên hai tảng đá trắng
Mưa tuyết đọng buồn tênh
Chẳng nề chi nguy hiểm
Tôi đứng lên chênh vênh
Trên cành thông bóng loáng
Nước và tuyết trắng tinh
Đọng lại thành hai thể
Trong suốt và lạnh tanh
Ôi em gái dễ thương hiền dịu
Anh sẽ lấy cho em một món cuối cùng
Hôm nay em vĩnh biệt
Cả cái hoa văn xanh
Trên cái bát quen thuộc
Sống với anh em mình
“Em đi đây một mình sang thế giới bên kia”
Điều em nói anh không tin là thực
Trong phòng bệnh khép chặt
Bình phong, màn tối mờ
Cơn sốt đang thiêu đốt
Em gái hiền trắng xanh
Tuyết nơi đâu cũng vậy
Chỉ một màu trắng tinh
Từ trời cao dữ dội
Sa xuống bông tuyết xinh
“Nếu mai sau tái sinh
Em sẽ không phải khổ
Như đời nay chúng mình”
Trong tim anh cầu nguyện
Hai bát tuyết em ăn
Sẽ biến thành lương thực
Ăn đường lên trời xanh
Anh muốn dâng tất cả
Hạnh phúc của đời mình
Hãy mang đi em nhé
Cho em và chúng sinh.
永訣の朝
今日のうちに
遠くへ行ってしまう私の妹よ
みぞれが降って表は変に明るいのだ
(あゆめゆとてちてけんじや)(1)
薄赤く一層陰惨な雲から
みぞれがびちょびちょ降って来る
(あゆめゆとてちてけんじや)
青い蓴菜の模様の付いた
これら二つの欠けた陶椀に
お前が食べる雨雪を取ろうとして
私は曲がった鉄砲玉のように
この暗いみぞれの中に飛び出した
(あゆめゆとてちてけんじや)
蒼鉛色の暗い雲から
みぞれがびちょびちょ沈んでいます
ああ とし子
死ぬという今頃になって
私を一層明るくするために
こんなさっぱりした雪の一碗を
お前は私に頼んだのだ
ありがとう私のけなげな妹よ
私もまっすぐに進んでいくから
(あゆめゆとてちてけんじや)
激しい激しい熱やあへぎの間から
お前は私に頼んだのだ
銀河や太陽 気圏などと呼ばれた世界の
空から落ちた雪の最後の一碗を。。。
。。。二切れのみかげ石材に
みぞれは寂しく溜まっている
私はその上に危なく立ち
雪と水との真っ白な二相系を保ち
透き通る冷たい雫に満ちた
この艶やかな松の枝から
私の優しい妹の
最後の食べ物をもらっていこう
私達が一緒に育ってきた間
見慣れた茶碗のこの藍の模様にも
もう今日お前は分かれてしまう
(Ora Orade Shitori egumo)(2)
本当に今日お前は分かれてしまう
ああ あの閉ざされた病室の
暗い屏風や蚊屋の中に
優しく青白く燃えている
私のけなげな妹よ
この雪はどこを選ぼうにも
あんまりどこも真っ白なのだ
あんな恐ろしい乱れた空から
この美しい雪が来たのだ
(生まれで来るたて
今度はこたにわりやのことばかりで
苦しまなあよに生まれてくる)(3)
お前が食べるこの二碗の雪に
私は今心から祈る
どうかこれが兜率の天の食に変って
やがてはお前と皆とに
聖い資糧をもたらすことを
私のすべての幸いをかけて願う
(1) 雨雪(みぞれ)を取って来てください(山手県の方言)
(2) 私は私で独りであの世へ行きます
(3) 再び生まれてくるとしても今度はこんなに自分の事ばかりで苦しま
Nguồn: Văn học cận đại Đông Á từ góc nhìn so sánh, Đoàn Lê Giang chủ biên, NXB.Tổng hợp TP.HCM, 2011
* PGS, TS, Khoa Văn học và Ngôn ngữ, Trường Đại học KHXH và Nhân văn – ĐHQG TP.HCM....
tin tức liên quan
Videos
Khai hội “Phúc lục ngoạt” đền Yên Lương, thị xã Cửa Lò
Tư tưởng Hồ Chí Minh về tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật cho Nhân dân
Đêm cảm xúc từ “Mạch nguồn Ví, Giặm”
Tính cách người các tỉnh tại Trung Quốc
Lần đầu tiên Festival Dân ca Ví, Giặm Nghệ Tĩnh được tổ chức tại thành phố Vinh, Nghệ An
Thống kê truy cập
114577016

2215

2299

2215

224073

130677

114577016