Góc nhìn văn hóa

Thơ ca cận đại Nhật Bản qua một số gương mặt tiêu biểu

Thơ ca cận đại Nhật Bản ra đời gắn liền với công cuộc duy tân Nhật Bản thời Minh Trị (1868-1912) và kết thúc vào năm 1945. Quá trình cận đại hóa thơ ca Nhật Bản có thể nói bao gồm quá trình xuất hiện thể thơ mới Tân thể thi (Shintaishi) và quá trình đổi mới các thể thơ truyền thống. 

Tân thể thi (shintaishi/thể thơ mới) bắt nguồn của tên gọi của một tập thơ sáng tác và dịch thơ phương Tây của một nhóm giáo sư Đại học Tokyo: Tân thể thi sao, tác phẩm này được coi là tác phẩm mở đầu cho phong trào sáng tác thơ mới. Tân thể thi sao (tháng 8/1882 - Minh trị 15) do Toyama Masakazu (bút danh Chiyuzan), Yatabe Ryôkichi (Shôkon), Inone Tetsujirô (Sonke) đều là giáo sư Đại học Tokyo. Tập thơ bao gồm 14 bài thơ dịch từ thơ Anh, Mỹ, Pháp, 5 bài sáng tác và bài tựa. Ý đồ của nhóm tác giả này là: mô phỏng phong cách thơ phương Tây để sáng tạo ra một thể thơ mới, như các tác giả tuyên bố:

-  Sáng tác ra những bài thơ có “ngôn ngữ bình thường”.

-  Có thể trình bày được “ý tưởng liên tục”.

-  Làm ra những “bài ca thời Minh Trị”, tức là thể hiện được tinh thần thời đại.

Tanka (đoản ca), haiku (bài cú), những thể thơ truyền thống của Nhật Bản, bị bó buộc bởi các luật lệ đặc thù: phải dùng từ chỉ mùa (Quý ngữ/kigo), từ ngắt (Thiết tự/kireji) và có hình thức rất ngắn (Tanka 31 âm, Haiku 17 âm) không thể trình bày được suy nghĩ và cảm xúc của người viết một cách tự do, đầy đủ. Đối với người đọc bình thường thì hiểu được Tanka hay Haiku không phải là chuyện dễ dàng. Tân thể thi sao là tác phẩm sớm nhất thể hiện được tinh thần “Văn minh khai hóa” quán xuyến Nhật Bản suốt thời Minh Trị. Cùng với Tân thể thi sao còn có một số tác phẩm khác nữa cũng chủ trương xây dựng một nền văn học mới, như:

-    Tinh thần tiểu thuyết (Tiểu thuyết thần tủy/ Shosetsu shinzui) của Tsubouchi Shôyô viết năm 1886 đề nghị đổi mới tiểu thuyết

-    Bài “Nói về Haiku” của thi sĩ Masaoka Shiki đề nghị cách tân Haiku (1887).

Tân thể thi sao được coi như tiếng chuông đòi đổi mới thi ca, chứ bản thân nó chưa thuyết phục về mặt nghệ thuật. Dẫu sao thì các tác giả của nó vẫn không phải là thi sĩ: Toyama là nhà xã hội học, Yatabe là nhà sinh vật học, còn Inone là nhà nghiên cứu triết học. Họ là những học giả của trào lưu “Khai hóa văn minh” hơn là những thi sĩ thực thụ. Tính chất lai ghép của nó cũng là đặc tính chung của giai đoạn đầu ảnh hưởng phương Tây.

Lúc mới ra đời Tân thể thi sao bị khắp nơi phê bình, chế diễu một cách gay gắt, nhưng dần dần số người ủng hộ tăng lên, rồi sau đó thành cả một trào lưu học theo Tân thể thi sao. Tập thơ này đã thể hiện được tinh thần thời Minh Trị: duy tân và tự do dân quyền. Những bài thơ gây được sự chú ý rộng rãi đương thời như: Bài ca khuyến học của Yatake, bài Rừng thơ tự do của Ueki Emori, Bạt Đao đội (Đội quân Bạt Đao/ rút kiếm) của Chiyuzan (bút danh của Toyama Masakazu)…

Bài ca Bạt Đao đội, xuất hiện trong cuộc nội chiến Tây Nam, sau đó được lưu truyền khắp nước, trở thành bài hát truyền thống của quân đội Nhật Bản (gọi là Phù Tang ca). Hình thức và tinh thần của nó khác hẳn với tanka, haiku cổ điển:

Bạt đao đội

(Đội quân rút kiếm)

 

Chúng ta đây, quân đội triều đình

Kẻ thù ta, kẻ thù triều đình,

Kẻ thù ta - đất trời không dung thứ.

Đại tướng của ta,

Anh dũng vô song.

Chiến binh chúng ta,

Một lòng quyết tử,

Những chàng trai anh dũng,

Không thẹn với quỷ thần.

Trời không tha những phường phản bội.

Vinh quang thay những người lính chúng ta.

Tiến lên, cùng nhau tiến lên,

Cho đến khi quân thù gục ngã.

Tiến lên, cùng nhau rút kiếm ra,

Những chàng trai anh hùng bất tử!

Tiếp theo Tân thể thi sao là tập thơ dịch Ư mẫu ảnh (Omokage/ Vang bóng) xuất bản năm 1889 của một nhà văn, nhà thơ nổi tiếng mới du học từ Đức về: Mori Ogai (1862-1922). Tập thơ này dịch 17 bài thơ của nhà thơ phương Tây: Goethe, Byron, Shakespeare, Heine v.v… Thành công của thi tập này là có nhiều bài dịch rất hay, xúc cảm mới mẻ, hình thức đa dạng, và có giai điệu lạ lùng mang hương vị Âu Châu. Khác với tập Tân thể thi sao, một tập thơ có tính “khai sáng” nặng về chính trị xã hội, Ư mẫu ảnh có tính nghệ thuật cao. Tuy nhiên đó vẫn là thơ dịch, thơ mới với tư cách là những sáng tác nghệ thuật đích thực, thu hút được độc giả thì phải đợi đến khi hai nhà thơ Kitamura Tokuku và Shimazaki Tôson xuất hiện, mới thực sự được khẳng định.

Kitamura Tokoku (1868-1894) là người đã xác lập được địa vị vững chắc của thơ ca thời cận đại bằng sự thể hiện sâu sắc nội tâm của con người cá nhân. Rút lui khỏi phong trào Tự do dân quyền, Tokoku chuyên tâm vào văn học. Năm 1887 ông cho ra đời trường ca Khúc hát Bồng lai và 1889 trường ca Bài thơ về người tù nước Sở, cả hai đều chịu ảnh hưởng sâu sắc tinh thần Thiên Chúa giáo. Năm 1883 ông sáng lập tờ Văn học giới để phát triển nền văn học mới. Tokoku tự coi mình là học trò của Byron. Trong bài Đặc quyền của nhà thơ (khoảng năm 1890), ông xác tín về nhiệm vụ thể hiện cái tôi của thi nhân, coi đó như là sứ mệnh của văn học.

Thành công có tính thuyết phục nhất như là biểu hiện của sự thắng lợi hoàn toàn của Tân thể thi là tập thơ mới mẻ, trẻ trung của thi sĩ  Shimazaki Tôson: Rau non (Nhược thái tập, 1897).

Shimazaki Tôson (1872-1943) được coi là người khai sinh ra thơ mới Nhật Bản. Tập thơ Rau non (Nhược thái tập 若菜集Wakanashu) xuất bản năm 1897 gồm 51 bài thơ và 1 bài tựa được viết với cảm hứng lãng mạn, được coi như tập thơ đánh dấu sự ưu thắng của thơ mới Nhật Bản. Sau Rau non Tôson còn cho xuất bản ba tập khác nữa: Một lá thuyền (Nhất diệp chu 一葉舟, 1898), Cỏ mùa hạ (Hạ thảo夏草, 1898), Mơ rụng (Lạc mai tập 落梅集, 1901). Thơ Tôson đã thể hiện nỗi buồn của tuổi trẻ, những suy tư về cuộc sống, tự do, tình yêu và nghệ thuật. Rất nhiều bài thơ của ông cho đến nay vẫn được truyền tụng: Tình đầu, Bài ca gió thu (cùng trong tậpRau non), Bên thành Komoro (trong tập Mơ rụng).

Nói đến thơ cận đại Nhật Bản thì không chỉ có Tân thể thi mà còn phải nói đến sự cách tân haiku và tanka. Cùng với sự ra đời của Tân thể thi, các thể thơ truyền thống của Nhật Bản cũng có sự cách tân quan trọng: Tanka cận đại (đứng đầu là Yosano Tekkan và nữ thi sĩ Yosano Akiko), Haiku cận đại (đứng đầu là Masaoka Shiki và các học trò của ông: Takahama Kyoshi, Kawahigashi Hekigoto), cả hai đều đổi mới theo khuynh hướng tự do hóa, tăng cường cảm xúc lãng mạn, tôn trọng cá nhân và đề cao việc phản ánh hiện thực.

Từ cuối TK.XIX đến đầu TK.XX, các trào lưu thơ ca theo kiểu phương Tây: thơ lãng mạn, thơ tự do, thơ tượng trưng, và các trường phái tiền phong chủ nghĩa  khác cũng lần lượt ra đời. Các nhà thơ cận đại sống mãi qua thời gian đó là: Don Bansui, Hagiwara Sakutaro, Miyazawa Kenji, Nakamura Chuya…

Cuộc cách mạng trong thơ thời cận đại ấy đã mở đường cho nền thơ ca hiện đại của Nhật Bản ngày nay. Dưới đây là một số tác phẩm nổi tiếng được đông đảo  người Nhật biết đến.

*

 

1. SHIMAZAKI TONSON

Shimazaki Toson (1872-1943): nhà thơ, nhà văn cận đại tiên phong của Nhật Bản. Năm 1897 cho xuất bản tập thơ đầu tiên Rau non 若 菜 集 (Wakanashu), năm 1906 cho ra đời tiểu thuyết Phá giới  破 戒, ông cũng được coi là một trong những nhà thơ, nhà văn mở đường cho thơ mới và tiểu thuyết cận đại Nhật Bản. Dưới đây là những 3 bài thơ trong số những bài quen thuộc nhất của ông.

Tình đầu 

 

            Gặp em bên gốc táo

            Tóc mới chải hất lên

            Lược em giắt phía trước

            Có bông hoa khó quên

 

            Cánh tay trắng hiền dịu

            Em đưa táo cho tôi

            Trái mùa thu hồng nhạt

            Ươm mối tình tinh khôi          

 

            Trái tim tôi thổn thức

            Phất phơ sợi tóc ai

            Ly rượu tình em rót

            Hồn tôi say ngất ngây

 

            Trong khu vườn táo ấy

            Một lối nhỏ mới thành

            Trái tim tôi muốn hỏi

            Ai người in dấu chân ?

 

 

まだあげ初めし前髪の
林檎のもとに見えしとき
前にさしたる花櫛の
花ある君と思ひけり

 

 

やさしく白き手をのべて
林檎をわれにあたえしは
薄紅の秋の実に
人こひ初めしはじめなり

 

 

わがこころなきためいきの
その髪の毛にかかるとき
たのしき恋の盃を
君が情に酌みしかな

 

林檎畠の樹の下に
おのづからなる細道は
誰が踏みそめしかたみとぞ
問ひたまふこそこいしけれ

 

 

 Bài ca gió thu

Không biết tự khi nào, nỗi buồn đến với những cơn gió thu thổi về làng ven núi làm rối bời những chòm hoa lau

 

        Gió thu về lặng lẽ

        Từ biển tây nổi lên

        Mây trắng múa xao động

        Nháo nhác bay phương nào

 

       

Ráng chiều rực cành cao

        Lá ngô đồng hoà nhạc

        Nghe tiếng khách đặc biệt

        Biết gió thu đến rồi

 

       

Đêm qua gió thu thổi

        Sáng thấy lá vào nhà

        Gió thổi thu lá lại

        Chim ẩn mình đêm qua

 

       

 

Xa xa rặng núi xanh

        Rừng phong đà nhuốm đỏ

        Trời trong không thấy gió

        Thấy ở lá vàng lay

 

       

Ôi, gió tây mát quá !

        Khi lùa vào lá cây

        Ôi, gió thu buồn quá!

        Than với lá phong gầy

 

       

Gió thu thổi ào ạt

        Lá vàng phấp phới bay

        Như áo người tu sĩ

        Đi truyền đạo đông tây

 

       

Gió thu thổi dữ dội

        Sức mạnh với âm thanh

        Như đại bàng vỗ cánh

        Bay vào trời bình minh

 

       

Gió tây đáng sợ thật

        Quét lá mù mịt trời

        Gió thu buồn tê tái

        Bạt ngàn lá thu rơi

       

       

Kiếm tung hoành bờ cõi

        Cũng có hạn mà thôi

        Lưỡi chửi đời thậm tệ

        Cũng đột ngột tắt rồi(1)

 

       

Hơi thu làm mê hoặc

        Dữ dội khắp núi đồi

        Làm cho đời khô héo

        Gió thu vẫn chưa thôi

 

 

Mặt trời trong bình kín :

Đất trời vắng lặng thay !

Gió đi đâu, ai biết

Phiêu bồng với lá bay.

                       

の歌

 

     さびしさはいつともわかぬ山里に
     尾花みだれて秋かぜぞふく


しづかにきたる秋風の
 
西の海より吹き起り
           しらくも
舞ひたちさわぐ白雲の
 
飛びて行くへも見ゆるかな
ゆふかげ
暮影高く秋は黄の
          ね
桐の梢の琴の音に
 
そのおとなひを聞くときは
 
風のきたると知られけり
     にしかぜ
ゆふべ西風吹き落ちて
 
あさ秋の葉の窓に入り
 
あさ秋風の吹きよせて
        す  かく
ゆふべの鶉巣に隠る
           あをやま
ふりさけ見れば青山も
 
色はもみぢに染めかへて
しもは
霜葉をかへす秋風の
そら  かがみ
空の明鏡にあらはれぬ
すず
清しいかなや西風の
 
まづ秋の葉を吹けるとき
 
さびしいかなや秋風の
         ば
かのもみぢ葉にきたるとき
みち       ばらもん
道を伝ふる婆羅門の
         ち
西に東に散るごとく
    ただよは
吹き漂蕩す秋風に
ひるがへ    こ   は
 飄 り行く木の葉かな
あさば      わしだか
朝羽うちふる鷲鷹の
あけぐれそら
明闇天をゆくごとく
 
いたくも吹ける秋風の
はね  こゑ   ちから
羽に声あり力あり
 
見ればかしこし西風の
    こ  は
山の木の葉をはらふとき
 
悲しいかなや秋風の
    ももは
秋の百葉を落すとき
   つるぎ  ふる
人は利剣を振へども
 
げにかぞふればかぎりあり
   ときよ
舌は時世をのゝしるも
          ほろ
声はたちまち滅ぶめり
     はげ
高くも烈し野も山も
いぶき
息吹まどはす秋風よ
 
世をかれ/゛\となすまでは
      やす
吹きも休むべきけはひなし
             あめつち
あゝうらさびし天地の
つぼ  うち
壷の中なる秋の日や
         ひるがへ
落葉と共に飄る
     ゆくえ
風の行衛を誰か知る

____________

(1)     Ngày xưa người ta hay hành quyết các tử tội vào mùa thu. Ở đây nói đến những người nổi loạn hay các trí thức chống đối bị triều đình tử hình. 

 

            Bên thành cổ Komoro 

 

            Bên thành Komoro

            Mây trắng sầu du tử

            Hoa xoan còn chưa nở

            Cỏ non chưa nhú mầm

            Đồi phơi trắng chiếu chăn

            Tà dương soi tuyết mỏng

            Nắng vẫn còn toả ấm

            Ruộng vương hương đâu đây

            Chiều xuân sương thoảng bay

            Sắc mạ xanh rất mỏng

            Có vài người lữ khách

            Trên đường ruộng bước nhanh

            Chiều xuống vọng núi xanh

            Sáo mục đồng buồn bã

            Dòng Thiên Khúc vật vã

            Ghé quán trọ bên sông

            Rượu đục tạm ấm lòng

            Ngủ vùi bên gối cỏ.

 

小諸なる古城のほとり 

小諸なる古城のほとり 
雲白く遊(いうし)子悲しむ
緑なす繁(はこべ)蔞は萌えず
若草も藉くによしなし
しろがねの衾(ふすま)の岡邊
日に溶けて淡雪流る
あたゝかき光はあれど
野に滿つる香(かをり)も知らず
淺くのみ春は霞みて
麥の色わづかに靑し
旅人の群はいくつか
畠中の道を急ぎぬ
暮れ行けば淺間も見えず
歌哀し佐久の草笛
千曲川いざよふ波の
岸近き宿にのぼりつ
濁り酒濁れる飲みて
草枕しばし慰む

2. DOI BANSUI

Doi Bansui土井 晩翠 (1871-1952): nhà thơ, nhà nghiên cứu văn học Anh. Trong khi học ở Đông Kinh Đế quốc Đại học (Đại học Tokyo ngày nay), ông làm biên tập cho tạp chí Đế Quốc văn học và đăng thơ ở đó. Với tập thơ đầu tay Thiên địa hữu tình, ông được coi là nhà thơ tề danh với Shimazaki Tôson. Thơ của ông mang đậm phong cách, điệu thức thơ chữ Hán, nên được cho rằng đã thể hiện vẻ đẹp nam tính trong thơ cận đại Nhật Bản. Bài thơ tiêu biểu nhất của ông là bài Trăng sáng thành hoang 荒城の月. Bài thơ diễn tả cảnh trăng sáng soi chiếu vào một ngôi thành hoang phế, nơi ghi dấu vẻ đẹp kiêu hùng, bi tráng ngày xưa của các võ sĩ samurai Nhật Bản. Bài thơ với phần nhạc của Takiren Taro rất nổi tiếng, được đưa vào trường học, quân đội, và được coi là một trong những bài ca được người Nhật yêu thích nhất qua mọi thời đại.

 

         Trăng sáng thành hoang

 

 

         Xuân đến lầu cao mở  tiệc hoa

         Anh đào soi bóng đáy chén  ngà 

         Rọi chiếu qua hàng tùng vạn đại

         Đâu rồi ánh sáng của ngày qua? 

 

         Thu về thành luỹ sắc sương pha

         Hàng nhạn kêu buồn lưng trời xa

         Dãy gươm dựng đứng chiếu lấp lánh

         Đâu rồi ánh sáng của ngày qua? 

        

         Trăng sáng thành hoang suốt đêm nay

         Ánh xưa giờ chiếu cho ai đây?

         Thành hoang chỉ mọc đầy gai góc

         Chỉ còn gió hát hàng thông gầy

 

         Trời xanh bóng dáng chẳng đổi thay

         Thịnh suy đắp đổi thế gian này

         Bây giờ sao vẽ được cảnh cũ !

         Trăng sáng thành hoang lúc canh chày.

                                               

荒城の月

 

              春 高楼の花の宴

              めぐる盃  影さして

              千代の松が枝  わけ出でし

              むかしの光  今い ずこ

 

              秋 陣営の霜の色

              鳴き行く雁の 数見せて

              植うるつるぎに  照りそいし

              むかしの光  今 いずこ

 

              今荒城の夜半の月

              かわらぬ光たがためぞ

              垣にのこるはただかつら

              松に歌うはただ嵐

             

天上影は  変らねど

              栄枯は移る  世の姿

              写さんとてか  今もなお

              ああ荒城の  夜半の月

 

 

 

3. MASAOKA SHIKI

Masaoka Shiki 正岡 子規 (1867- 1902) sinh ở tỉnh Ehime. Tên thật là Tsunenori  常 則, ông cũng có bút danh khác là  Take no Satobito 竹 の里人. Shiki là nhà thơ haiku và tanka. Bên cạnh việc cải cách haiku trên báo Nhật Bản, ông còn sáng lập Hội tanka Negishi và hết sức cải cách tanka. Những tác phẩm chủ yếu: Những câu chuyện về haiku ở thư phòng Datsusai 獺祭書屋俳話  (luận về haiku), Sách chỉ dẫn làm tanka 歌よみに与ふる書 (ca luận), Bài ca Làng tre 竹の里歌 (tập tanka), Núi lạnh cây khô  寒山落木 (tập haiku)…

 

Tanka

- Từ sáu thước phòng bệnh

夜の床に

Yo no toko ni

Lơ mơ mắt nhìn

寝ながら見ゆる

Nenagara miyuru

Ngoài kính cửa sổ

ガラス戸の

Garasuto no

Trăng tỏ ngời

外あきらかに

Soto akiraka ni

Đêm sâu.

月ふけわたる

Tsuki fukewataru.

                       

- Từ sáng đến hoàng hôn

若松の

Waka matsu no

Cơn sốt hầm hập        

芽だちの緑

Medachi no midori

Đã thua cuộc

長き日を

Nagaki hi wo

Màu xanh mướt

夕かたまけて

Yuukata makete

Những mầm thông non

熱いでにけり

Netsu idenikeri

 

- Vươn lên cao đỏ tía

くれないの

Kurenai no

Cây hoa hồng

二尺伸びたる

Nishaku nobitaru

Và mầm gai mới nhú

薔薇の芽の

Bara no me no

Mềm mại

針やはらかに

Hari yawaraka ni

Mưa xuân.

春雨の降る

Harusame no furu

Haiku

- Nghe điếc cả tai

説教に

Sekkyou ni

Những lời thuyết giáo

 汚れた耳を

kegareta mimi wo

Ngoài kia tiếng chim quyên.

 ホトトギス

Hototogisu.

                                                                                            

- Biển xanh

海青し

Umi aoshi

Núi trắng tuyết

雪の山々

Yuki no yama yama

Chim bay về.

鳥帰る

tori kaeru.

           

- Ô kìa chú quạ

行水の

Gyozui no

đang đắm đuối nhìn

女にほれる

onna ni horeru

cô gái tắm bên giếng.

烏かな

karasu kana.

 

4. YOSANO AKIKO

Yosano Akiko 与謝野 晶子 (1878 – 1942) sinh ở phủ Osaka, kết hôn với Yosano Tekkan nên mới đổi lại họ tên thành Yosano. Akiko nổi danh ở tạp chí Minh tinh 明星 (Myojo/ Sao mai)các tác phẩm chính: Tóc rối 乱れ髪 (Midare gami, 1901), Cỏ độc 毒草(Dokugusa/ Độc Thảo - viết chung, 1904), Manh áo tình yêu 恋衣(Luyến y, viết chung, 1905 ), Vũ nữ 舞姫 (Maihime), Truỵên Genji-Bản dịch tiếng Nhật hiện đại 新訳源氏物語… Với những bài tanka cách tân trẻ trung, táo bạo, mang phong cách phục hưng thời Minh Trị, Akiko được đánh giá là nữ thi sĩ tanka tiên phong và tiêu biểu nhất của thơ cận đại Nhật Bản.

- Ô kìa, trăng mới lên

ああ皐月

A a sa tsuki

trên cánh đồng nước Pháp

仏蘭西の野は

furansu no wa

đỏ rực như màu lửa

火の色す

hi no iro su

anh là hạt dẻ nhỏ

君も雛罌粟

kimi mo kokuriko

em cũng hạt dẻ con.

われも雛罌粟 

ware mo kokuriko

 

- Băng qua vườn Kì Viên

清水へ

Kiyomiza e

Bước tới Thanh Thuỷ Tự

祇園をよぎる

Gion wo yogiru

Anh đào dưới trăng đêm

花月夜

Sakura zuki yo

Trong hội này em gặp

こよひ逢ふ人

Koyoi au hito

Ai cũng cười hân hoan.

みな美しき

Mina utsukushiki

 

- Làn da mềm mại

やは肌の

Ya wa hada no

Dòng máu nóng bừng

熱き血潮に

Atsu ki chishio ni

Anh cũng chẳng đụng tay vào, chẳng ngắm

触れも見で

Fure mo mide

Anh chỉ nói về đạo

寂しからずや

Sabishikarazu ya

Có gì buồn không anh.

道を説く君

Michi wo toku kimi

 

 

 

- Như những con chim nhỏ    

金色の

Konjiki no

Ánh sắc vàng                         

小さき鳥の

Chiisaki tori no

Lá ngân hạnh rơi lả tả

形して

Katachi shite

xuống hoàng hôn,                  

銀杏散るなり

Ichô chirunari

gò hoang.

夕日の岡に

Yuuhi no oka ni.

 

- Trái tim em rối bời

みだれごこち

Midare gokochi

Tâm hồn em bấn loạn

まどひごこちぞ

Madoi gokochi zo

Biết bao nhiêu lần rồi

頻なる

Shikiri naru

Tay không kịp che vú

百合ふむ神に

Yuri fumu kami ni

Khi gặp thần tình yêu.

乳おほひあえず

Chichi ooi aezu.

 

- Đặt tay lên bầu vú

乳ぶさおさへ                                                Chibusa osa e

Chibusa osa e

Và bức màn thần bí                

神秘のとばり

Shinbi no tobari

Hất bỏ ra ngoài                      

そとけりぬ   

Soto keri nu

Ôi, hai  bông hoa ấy               

ここなる花の

Kokonaru hana no

Ánh lên màu hồng tươi.         

紅ぞ濃き

Kurenai koki.

                                               

5. HAGIWARA SAKUTARO

Hagiwara Sakutarô 萩原 朔太郎(1886-1942): nhà thơ hàng đầu của thơ ca Nhật Bản cận đại. Sinh ở tỉnh Gumma-ken, trong một gia đình bác sĩ danh giá và giàu có. Sakutaro từ nhỏ đã là một cậu bé ốm yếu, suy nhược, được sống trong sự nuông chiều của bà nội và mẹ. Lớn lên đi học và nghỉ học nhiều lần, nhưng dù có học gì anh cũng từ chối con đường làm bác sĩ y khoa mà người cha đã vạch sẵn để theo đuổi con đường nghệ thuật: âm nhạc và thi ca. Cùng với nhà thơ Murou Saisei, anh sáng lập ra tạp chí Tình cảm(Kanjou). Tác phẩm chủ yếu : Tiếng rú dưới trăng (Tsuki ni hoeru), Con mèo màu xanh (Aoneko), Đảo băng (Koorishima), tập lý luận phê bình : Nguyên lý thơÔng là người có cống hiến quyết định cho việc giải phóng hình thức thơ, là nhà thơ khẩu ngữ tự do thành công nhất thời cận đại. Thơ ông giàu chất nhạc, và với cảm giác tinh tế, nhạy bén, kỳ lạ ông đã thể hiện được nỗi u sầu, tuyệt vọng, và những băn khoăn về ý nghĩa nhân sinh của người Nhật Bản thời cận đại. Bài thơ TIẾNG GÀ (Niwatori, trong tập Con mèo màu xanh) dưới đây được sáng tác vào năm 1923 trong trạng thái tuyệt vọng tận cùng của nhà thơ. Đây là một trong những bài thơ tiêu biểu nhất cho phong cách thơ ông.

 

Tiếng gà

 

                        Trước khi những đám mây từ  phương Đông bay đi

                        Ngoài cánh cửa nhà nhà gà cất lên tiếng gáy

                                    Tiếng ngân dài âm u

                        Đó là tiếng mẹ gọi từ làng quê buồn bã

                        Cúc cù cu, Cúc cù cu, Cù cúc cu (1)

 

                        Trên sàn lạnh buổi sáng

                        Hồn tôi vỗ cánh bay

                        Qua khe hở liếp cửa che mưa nhìn thấy

                        Bốn bề sáng bóng lạ thay

                        Thế nhưng trước khi những đám mây từ phương Đông bay đi

                        Một nỗi sầu len vào sàn ngủ

                        Vượt qua những ngọn cây sương khói phủ

                        Tiếng gà cất lên từ làng quê xa xôi

                        Cúc cù cu, Cúc cù cu, Cù cúc cu

 

                        Người yêu ơi

                        Người yêu ơi

                        Trong bóng liếp cửa mờ tảng sáng

                        Tôi ngửi thấy mùi hoa cúc thoang thoảng

                        Như thể  mùi một tâm linh bệnh hoạn

                        Dường như mùi cúc trắng đang rữa dần

                        Người yêu ơi

                        Người yêu ơi

 

                        Trước khi những đám mây từ phương Đông bay đi

                        Hồn tôi lê bước chân vật vờ mộ địa

                        Một nỗi cồn cào khổ đau nào đang gọi tên tôi

                        Màu không khí hồng nhạt này làm  tôi không chịu nổi

                        Người yêu ơi

                        Mẹ ơi

                        Hãy đến nhanh và thổi tắt ngọn nến đi thôi

                        Tôi đã nghe thấy tiếng gầm gào của cơn bão

                        Đang thổi đến nơi này, một góc đất xa xôi

            Cúc cù cu, Cúc cù cu, Cù cúc cu…

しののめきたるまへ
家家の戸の外で鳴いてゐるのは鶏(にはとり)です
聲をばながくふるはして
さむしい田舎の自然からよびあげる母の聲です
とをてくう、とをるもう、とをるもう。

朝のつめたい臥床(ふしど)の中で
私のたましひは羽ばたきをする
この雨戸の隙間からみれば
よもの景色はあかるくかがやいてゐるやうです
されどもしののめきたるまへ
私の臥床にしのびこむひとつの憂愁
けぶれる木木の梢をこえ
遠い田舎の自然からよびあげる鶏(とり)のこゑです
とをてくう、とをるもう、とをるもう。

戀びとよ
戀びとよ
有明のつめたい障子のかげに
私はかぐ ほのかなる菊のにほひを
病みたる心靈のにほひのやうに
かすかにくされゆく白菊のはなのにほひを
戀びとよ
戀びとよ。

しののめきたるまへ
私の心は墓場のかげをさまよひあるく
ああ なにものか私をよぶ苦しきひとつの焦燥
このうすい紅(べに)いろの空氣にはたへられない
戀びとよ
母上よ
早くきてともしびの光を消してよ
私はきく 遠い地角のはてを吹く大風(たいふう)のひびきを
とをてくう、とをるもう、とをるもう。

__________________

(1)Trong nguyên bản tiếng gà được thể hiện hơi đặc biệt là: “Towotekuu, toworumou, toworumou” (tô-tê-ku, tô-ru-mô, tô-ru-mô). Mặc dù là từ tượng thanh, nhưng đối với người Nhật thì lại nghe như là: Đến lấy đi, Lấy dùm tôi, lấy dùm tôi (cuộc sống này). Chúng tôi không biết cách nào để dịch những từ này ngoài cách dùng từ tượng thanh thông thường trong tiếng Việt. Cũng lưu ý thêm: con gà trong Thần đạo Nhật Bản cũng như trong tín ngưỡng vật linh Đông Nam Á có một ý nghĩa linh thiêng đặc biệt.

6. MIYAZAWA KENJI

Miyazawa Kenji宮沢 賢治 (1896-1933), quê ở tỉnh Iwate, một tỉnh nghèo đói ở phía bắc Nhật Bản. Trong khi học khoa Nông Lâm trường Cao đẳng Morioka, Kenji trở thành tín đồ Nhật Liên tông, và vừa viết truyện đồng thoại vừa làm thơ. Ra trường, anh dạy ở trường canh nông Hanamaki trong vùng. Được ít lâu thì xin nghỉ việc, mở văn phòng hướng dẫn nông dân nghèo trồng lúa. Kenji mất năm 37 tuổi vì bị bệnh lao.

Tác phẩm chủ yếu là truyện đồng thoại (truyện trẻ em): Quán ăn có nhiều đơn đặt hàng 注文の多い料理店 (Chuumon no ôi ryôriten, bản dịch tiếng Việt: Người săn gấu và mèo rừng, Nguyễn Trọng Định dịch), Đêm trên tuyến đường sắt lên Ngân hà 銀河鉄道の夜 (Ginga tetsudô no yoru, bản dịch tiếng Việt: Đường lên Ngân hà, Nguyễn Đỗ An Nhiên dịch, NXB.Trẻ), Matasaburô - đứa con của gió 風の又三郎 (Kaze no Matasaburô)…Tập thơ duy nhất in lúc sống: Mùa xuân và Tu La 春と修羅 (1924)trong đó bài thơ nổi tiếng nhất của ông là Buổi sáng vĩnh biệt 永訣の朝 (Eiketsu no asa).

Bài thơ Buổi sáng vĩnh biệt (sáng tác năm 1922) là bài thơ khóc người em gái tên là Toshiko, nhỏ hơn Kenji 2 tuồi, chết năm 24 tuổi vì bệnh lao. Ngay trong lúc hấp hối, người em vẫn muốn làm cho anh vui bằng yêu cầu khẩn khoản mà nũng nịu: “Lấy cho em bát tuyết đi anh!”, cô muốn ăn tuyết cho đỡ khát, vì người bị bệnh lao thổ huyết nhiều hay khát nước. Từ tận cùng nỗi đau, bài thơ tuôn trào ra một cách tự nhiên, và đạt đến vẻ đẹp kỳ lạ. Đọc bài thơ người ta hiểu được cuộc sống khốn cùng của những người nông dân Nhật Bản bị bỏ quên trong một đất nước “phú quốc cường binh”, người ta cũng hiểu thêm về tình yêu và lòng vị tha. Trong bài thơ có rất nhiều ánh sáng: ánh sáng dị thường của bầu trời báo hiệu điềm chẳng lành, ánh sáng lờ mờ trong phòng người bệnh lao (bệnh lao đầu thế kỷ XX vẫn là bệnh không có thuốc chữa), ánh sáng trắng trong của bông tuyết ngoài trời và bông tuyết Toshiko, ánh sáng của niềm hy vọng về một thế giới kiếp sau và hơn cả là ánh sáng của tình yêu thương – tình yêu thương ruột thịt, và lớn hơn nữa là tình yêu đối với tất cả những người khốn khổ. Buổi sáng vĩnh biệt đã sống cả gần một thế kỷ, được đưa vào rất nhiều thi tuyển và sách giáo khoa, cho đến nay vẫn được coi là một trong những bài thơ được yêu thích nhất mọi thời đại của người Nhật. 

 

Buổi sáng vĩnh biệt

 

                        Chỉ nội hôm nay

                        Em gái tôi sẽ vĩnh viễn đi xa

                        Mưa tuyết rơi, trời sáng trắng dị thường

 

                                    “Lấy cho em bát tuyết đi anh !”

 

                        Từ những đám mây ảm đạm ngả sang hồng

                        Mưa tuyết rơi rào rạt

 

                                    “Lấy cho em bát tuyết đi anh !”

 

                        Tôi cầm lấy hai bát sành sứt mẻ

                        Có hình bông súng xanh

                        Rồi cắm đầu phóng đi như viên đạn

                        Giữa trời mưa tuyết xám

                        Mang tuyết về em ăn

 

                                    “Lấy cho em bát tuyết đi anh !”

 

                        Từ đám mây mù rợn lên màu huyết dụ

                        Mưa tuyết chìm rào rạt xuống bùn 

 

                        Ôi em Tô-si-kô,

                        Đang giờ phút vĩnh quyết

                        Vẫn muốn làm anh vui

                        Nên đòi anh lấy tuyết

                        Một bát tuyết trắng ngần 

                        Cám ơn em  hiền lành

                        Giờ anh đang thẳng tiến

 

                                    “Lấy cho em bát tuyết đi anh !”

                       

                        Em đã nhờ đến anh 

                        Giữa làn hơi hào hển và cơn sốt bừng bừng

                        Từ vũ trụ mênh mông với Ngân hà, Thái dương và bầu khí quyển

                        Đã đưa xuống cho em một bát tuyết cuối cùng

                        

                        Trên hai tảng đá trắng

                        Mưa tuyết đọng buồn tênh

                        Chẳng nề chi nguy hiểm

                        Tôi đứng lên chênh vênh

                        Trên cành thông bóng loáng

                        Nước và tuyết trắng tinh

                        Đọng lại thành hai thể

                        Trong suốt và lạnh tanh

 

                        Ôi em gái dễ thương hiền dịu

                        Anh sẽ lấy cho em một món cuối cùng

                       

                         Hôm nay em vĩnh biệt

                        Cả cái  hoa văn  xanh

                        Trên cái bát quen thuộc

                        Sống với anh em mình

 

                                    “Em đi đây một mình sang thế giới bên kia”

                        Điều em nói anh không tin là thực

                       

                        Trong phòng bệnh khép chặt

                        Bình phong, màn tối mờ

                        Cơn sốt đang thiêu đốt

                        Em gái hiền trắng xanh

 

                        Tuyết nơi đâu cũng vậy

                        Chỉ  một màu trắng tinh

                        Từ trời cao dữ dội

                        Sa xuống bông tuyết xinh

 

                        “Nếu mai sau tái sinh

                        Em sẽ không phải khổ

                        Như đời nay chúng mình”

 

                        Trong tim anh cầu nguyện

                        Hai bát tuyết em ăn

                        Sẽ  biến  thành lương thực

                        Ăn đường lên trời xanh

 

                        Anh muốn dâng tất cả

                        Hạnh phúc của đời mình

                        Hãy mang đi em nhé

                        Cho em và chúng sinh.

           

永訣の朝

 

今日のうちに

遠くへ行ってしまう私の妹よ

みぞれが降って表は変に明るいのだ

              (あゆめゆとてちてけんじや)(1)

薄赤く一層陰惨な雲から

みぞれがびちょびちょ降って来る

              (あゆめゆとてちてけんじや)

青い蓴菜の模様の付いた

これら二つの欠けた陶椀に

お前が食べる雨雪を取ろうとして

私は曲がった鉄砲玉のように

この暗いみぞれの中に飛び出した

              (あゆめゆとてちてけんじや)

蒼鉛色の暗い雲から

みぞれがびちょびちょ沈んでいます

ああ とし子

死ぬという今頃になって

私を一層明るくするために

こんなさっぱりした雪の一碗を

お前は私に頼んだのだ

ありがとう私のけなげな妹よ

私もまっすぐに進んでいくから

              (あゆめゆとてちてけんじや)

激しい激しい熱やあへぎの間から

お前は私に頼んだのだ

銀河や太陽 気圏などと呼ばれた世界の

空から落ちた雪の最後の一碗を。。。

。。。二切れのみかげ石材に

みぞれは寂しく溜まっている

私はその上に危なく立ち

雪と水との真っ白な二相系を保ち

透き通る冷たい雫に満ちた

この艶やかな松の枝から

私の優しい妹の

最後の食べ物をもらっていこう

私達が一緒に育ってきた間

見慣れた茶碗のこの藍の模様にも

もう今日お前は分かれてしまう

(Ora Orade Shitori egumo)(2)

本当に今日お前は分かれてしまう

ああ あの閉ざされた病室の

暗い屏風や蚊屋の中に

優しく青白く燃えている

私のけなげな妹よ

この雪はどこを選ぼうにも

あんまりどこも真っ白なのだ

あんな恐ろしい乱れた空から

この美しい雪が来たのだ

  (生まれで来るたて

  今度はこたにわりやのことばかりで

  苦しまなあよに生まれてくる)(3)

お前が食べるこの二碗の雪に

私は今心から祈る

どうかこれが兜率の天の食に変って

やがてはお前と皆とに

聖い資糧をもたらすことを

私のすべての幸いをかけて願う

 

(1)        雨雪(みぞれ)を取って来てください(山手県の方言)

(2)        私は私で独りであの世へ行きます

(3)        再び生まれてくるとしても今度はこんなに自分の事ばかりで苦しまないように生まれてきますr

 

Nguồn: Văn học cận đại Đông Á từ góc nhìn so sánh, Đoàn Lê Giang chủ biên, NXB.Tổng hợp TP.HCM, 2011



* PGS, TS, Khoa Văn học và Ngôn ngữ, Trường Đại học KHXH và Nhân văn – ĐHQG TP.HCM....

 

 

tin tức liên quan

Thống kê truy cập

114577016

Hôm nay

2215

Hôm qua

2299

Tuần này

2215

Tháng này

224073

Tháng qua

130677

Tất cả

114577016