Đứng về phương diện vị trí địa lý mà nói, thì việc xếp Việt Nam vào danh mục các quốc gia Đông Nam Á là điều không cần phải bàn cãi. Nhưng chỉ cần suy nghĩ sâu hơn một chút, sẽ không tránh khỏi những e ngại, nếu xét toàn bộ những gì là căn bản nhất đã làm nên diện mạo và bản sắc văn hoá của dân tộc - quốc gia này.
Giới nghiên cứu văn hoá, văn minh cho đến nay vẫn chưa đưa ra được những khái niệm mang tính phạm trù để phân chia thật mạch lạc (cả theo trục đồng đại lẫn theo trục lịch đại) những cấp độ khác nhau của các đối tượng nghiên cứu. Từ góc nhìn lịch đại, về mặt thuật ngữ, có thể thấy với những thuật ngữ “thời đại, kỷ nguyên”, rồi gần đây hơn, làm nhoè tính chất thuật ngữ bằng việc sử dụng những từ ngữ mang tính chất hình ảnh, người ta nói đến những “làn sóng” để hình dung các chặng phát triển ở quy mô tổng thể lớn nhất của toàn bộ lịch sử xã hội, lịch sử văn hoá, văn minh của nhân loại. Nhưng số lượng các “thời đại, kỷ nguyên” hay “làn sóng” lớn ấy của toàn bộ lịch sử nhân loại là bao nhiêu, và định danh cụ thể cho mỗi “làn sóng, kỷ nguyên, thời đại” ấy là gì, thì lại chưa thể tìm thấy một câu trả lời mang tính ổn định, kinh điển và tương đối thống nhất, ngay giữa những bậc thầy lớn nhất nghiên cứu về triết học và lịch sử văn hoá. Việc định danh cho thời đại mà chúng ta đang sống là phức tạp và khó khăn nhất, dễ gây bất đồng, tranh cãi nhất. Đó là thời đại nguyên tử, thời đại chinh phục vũ trụ, thời đại hậu công nghiệp, thời đại thông tin và kỹ thuật số, thời đại toàn cầu hoá hay là thời đại internet, thời đại kinh tế tri thức? Là thời đại “quá độ trên phạm vi toàn thế giới lên chủ nghĩa xã hội” hay thời đại của con người cá nhân cực đoan và “giải cấu trúc”? Từ góc nhìn cấu trúc lôgic, thế giới có thể được phân chia thành bao nhiêu khu vực, bao nhiêu nền văn hoá, cấu trúc tối giản và tối đa của mỗi khu vực, mỗi nền văn hoá, văn minh bao gồm những thành tố nào?.... Hàng loạt câu hỏi mang tính lý thuyết như vậy không phải đã có được những đáp án mạch lạc và đồng thuận.
Trong thư tịch văn hoá học, căn cứ chủ yếu vào vị trí địa lý mà các quốc gia hiện hữu, người ta chia châu Á thành nhiều khu vực văn hoá với những tên gọi khác nhau: Nam Á, Tây Á, Bắc Á, Đông Á, Đông Nam Á, Trung Cận Đông… Người ta cũng có thể gọi tên một vùng (région) văn hoá bằng cách “mượn” tên của quốc gia hay tộc người được coi là điển hình nhất cho vùng văn hoá ấy làm tên gọi cho cả vùng văn hoá tương thích, chẳng hạn vùng văn hoá Hán, vùng văn hoá Ấn Độ, vùng văn hoá Ả Rập…Thông thường nhất, cũng được coi là “có cơ sở khách quan, chủ yếu nhất” khi nghiên cứu các vùng văn hoá có truyền thống lâu đời, các nhà nghiên cứu sử dụng tiêu chí chữ viết, chẳng hạn, vùng văn hoá mẫu tự Hán, vùng văn hoá mẫu tự Ả Rập, vùng văn hoá mẫu tự Pali, vùng văn hoá mẫu tự Xlavơ…Cũng có cách nhìn nhận, phân chia vùng và khu vực văn hoá theo ảnh hưởng của tôn giáo, chẳng hạn vùng văn hoá Nho giáo, vùng văn hoá Ấn giáo, vùng văn hoá Hồi giáo, vùng văn hoá Cơ đốc giáo, Chính thống giáo…
Dù là vận dụng tiêu chí nào để phân vùng văn hoá, trong những đúc kết cuối cùng giới nghiên cứu bao giờ cũng cố gắng để tìm thấy một tổ hợp những tính chất và đặc điểm của một hay những vùng văn hoá được mang ra làm đối tượng khảo sát, trên nhiều trục quy chiếu, cố gắng hình dung ra những đường nét làm nên diện mạo tổng thể của nền văn hoá cụ thể.Từ góc nhìn này mà xét, dễ dàng thấy rằng cái gọi là “cơ tầng văn hoá Đông Nam Á chung” vẫn là đối tượngchưa được các nhà Đông Nam Á học làm phát lộ đầy đủ.Vậy nên, đối với nền văn hoá Việt Nam, với mục tiêu đối chiếu để nhận diện, thì khi hướng tới khu vực Đông Á, người ta dễ dàng tìm ra được những “vật chuẩn”, mà khi quay sang Đông Nam Á, những “vật chuẩn” đó lại biến mất. Dễ dàng nói đến, từ “cổ mẫu” (archétype) đến “mẫu hình” (type) Đông Á trên nhiều bình diện, nhưng lại rất khó xác định những gì tương tự ở Đông Nam Á, cho Việt Nam.
Giao lưu và tiếp biến văn hoá là một hiện tượng thường trực trong lịch sử của mọi nền văn hoá, và càng tiến gần tới thời hiện đại, loại hoạt động đó càng diễn ra với quy mô và cường độ ngày càng lớn. Các nền văn hoá càng lớn thì loại hoạt động đó lại càng diễn ra phức tạp, phong phú và đa chiều. Trên thế giới không có nền văn hoá, vùng văn hoá nào là thuần tuý, không một quốc gia - dân tộc nào không “vay và cho vay”, truyền bá và hấp thụ về văn hoá. Do chỗ Việt Nam vừa thuộc về Đông Nam Á, vừa thuộc vùng văn hoá Đông Á, nên xuất phát từ thực tế lịch sử văn hoá Việt Nam mà bàn đôi điều về vùng văn hoá Đông Nam Á, và về mối quan hệ giữa hai khu vực, thiết nghĩ là một việc cần thiết.
Cho đến nay thì toàn bộ cư dân Đông Nam Á đều không thuộc loại các tộc người đại bình nguyên hay đại thảo nguyên. Tuy vậy một sự hình dung ít nhiều đáng tin cậy về cơ tầng văn hoá Đông Nam Á sẽ không thể bỏ qua việc gắn vùng văn hoá này với ít nhất là khu vực Nam Trung Quốc, đặc biệt là vùng trung và hạ lưu sông Dương Tử.
Nhìn vào lịch sử hình thành và phát triển của nền văn hoá, văn minh Trung Hoa, có thể khẳng định khởi nguồn của nền văn hoá này là ở lưu vực Hoàng Hà. Cho đến cuối triều đại nhà Chu, chư tử của Trung Hoa vẫn chủ yếu tập trung ở các nước chư hầu phía Bắc.Cư dân của các vùng Ngô Việt - Kinh Sở, vùng cư dân quan trọng thứ hai hội nhập vào văn hoá Trung Quốc tuy trong thực chất qua thực tế lịch sử lâu dài đã đưa lại cho nền văn hoá này những đóng góp và gây nên những đột biến văn hoá vô cùng quan trọng, nhưng suốt một thời gian dài vẫn bị coi hay tự coi là dân ngoại vi, vẫn là “Nam Man”. (Xét riêng trường hợp Triệu Đà: Rất nhiều người Việt Nam vẫn quen coi Triệu Đà là người Hán, mà không lưu ý sự thật lịch sử rằng Triệu Đà không tự coi mình như vậy. Trong quan hệ với hoàng đế Hán triều, ông tự xưng là Nam Man đại trưởng lão!). Có thể hình dung vắn tắt không xa sự thật rằng toàn bộ cư dân lưu vực sông Dương Tử cho đến nay vẫn còn bảo lưu rất nhiều đặc điểm cả về nhân chủng lẫn văn hoá khác biệt so với hạt nhân Hán tộc phương Bắc. Chắc chắn là vào thời Hán, thời đại đế chế thứ hai trong lịch sử Trung Quốc nhưng là thời đại có vị trí quan trọng bấc nhất trong việc làm định hình dân tộc tính của Trung Quốc, vùng quê hương của Sở Bá Vương vẫn còn được coi là vùng đất mới, còn nhiều sự thù địch và xa lạ với Hán triều.
Trong toàn bộ thời Bắc thuộc, ta chứng kiến sự có mặt gây ảnh hưởng cực quan trọng tới diện mạo văn hoá Giao Châu của bộ phận cư dân có nguồn gốc phương Bắc (so với vị trí của Việt Nam). Tôi nói là cư dân phương Bắc mà không đơn giản nói là người Hán, vì tôi cho rằng một phần lớn trong họ - bộ phận cư dân phi bản địa, tức thực dân ấy - không hẳn là người Hán.Sự hiện diện của bộ phận cư dân này ở Giao Chỉ chủ yếu là dựa trên mấy nguyên nhân, mấy lý do:
1.- Thực hành công việc cai trị.
2.- Chạy loạn.
3.- Những lý do kinh tế hay tôn giáo.
Bởi không phải đến Giao Châu qua những đợt thiên di cư dân quy mô lớn, nên sự có mặt của bộ phận cư dân này tuy là ở lớp “nổi lên bề mặt”, nhưng hoàn toàn chưa đủ sức làm biến đổi tính chất và kết cấu của cộng đồng cư dân bản địa trong chiều sâu.
Tính chất Bắc thuộc của Giao Châu trong hàng nghìn năm không phải diễn ra cùng một cung bậc như nhau. Theo cảm nhận cá nhân, tôi cho rằng nội dung Trung Quốc hoá, Hán hoá ở Việt Nam tăng đậm ứng với giai đoạn đế chế Đại Đường thịnh vượng. Chính trong khoảng thời gian này (các thế kỷ VII, VIII, IX) mà diện mạo và tính chất của văn hoá Việt Nam biến đổi ngả dần, rồi ngả hẳn sang tính chất Đông Á, Hán hoá.
Vậy là có thể có một lôgic bắc cầu đã hình thành: khối cư dân Nam Trung Quốc Hán hoá trước, đạt tới sự nhất thể hoá với khối cư dân Hán tộc Hoàng Hà trên bình diện hệ thống, tuy vẫn bảo lưu nhiều đặc điểm địa vực quan trọng, rồi đến lượt họ và những người có nguồn gốc Hán tộc khác “thiên di và bứng trồng” cái “cây văn hoá” đó sang đất Giao Châu, truyền vào đời sống cư dân bản địa, làm nên “lớp văn hoá Hán” ở Việt Nam.
Sự chuyển vùng văn hoá như vậy nhìn trên tổng thể là tất yếu khách quan, kéo theo và tạo ra rất nhiều hệ quả cả tích cực lẫn tiêu cực nhưng đều là những hệ quả quan trọng. Kể từ thời điểm này, các sử gia, các nhà Đông Phương học trên thế giới có thể yên tâm với việc xếp Việt Nam vào “thế giới Hán hoá” (le monde sinisé), nghĩa là đồng thời tách nó ra khỏi “thế giới Ấn hoá” (le monde hindouisé).
Quá trình Đông Á hoá như vậy thời kỳ đầu không thể tránh khỏi đi kèm với sự cưỡng bức, sự ép buộc, nhưng dần về sau trở nên càng ngày càng mang tính chất tự nguyện, không những thế, còn là nhu cầu nội tại. Đỉnh cao của tính tự nguyện đó là tình trạng thoạt nhìn mang tính chất nghịch lý: sau hàng nghìn năm nỗ lực bền bỉ chống ngoại xâm, chống đồng hoá, từ thế kỷ X trở đi, càng củng cố được nền độc lập về chính trị bao nhiêu, thì giới lãnh đạo dân tộc càng chủ động học tập Trung Quốc bấy nhiêu. Cho tới tận các thế kỷ XVI, XVII, XVIII, nhiều sứ bộ của Việt Nam vẫn còn phải tranh biện, cả trên đường đi với các tỉnh thần, cả ở triều đình Trung ương với các triều quan Trung Hoa, rằng Việt Nam chúng tôi cũng là “văn hiến chi bang”, vừa “vô tốn” (không thua kém), vừa “bất dị” (không khác) với thượng quốc! Triều đình các nước Trung Quốc, Nhật Bản,Việt Nam, Triều Tiên, thông qua các quan hệ bang giao, nhận nhau là “đồng văn”, và điều đó là thực tế đương nhiên, ít nhất là căn cứ vào sự tương đồng trên hàng loạt những chuẩn mực quan trọng của mô hình chính trị - xã hội, kết cấu giai cấp, những hoạt động tinh thần và văn hoá, trên một cái nền văn tự chung là chữ Hán. Tuy nhiên, sự thực lịch sử hàng nghìn năm đó, mặt khác, lại cũng không bài trừ, tẩy xoá được rất nhiều cả “chứng tích” lẫn “bản nguyên” Đông Nam Á trong nền văn hoá Việt Nam.
Thực tế của lịch sử Việt Nam không chỉ là phép cộng giản đơn hay thậm chí là tương tác phức tạp, đa bình diện, đa hướng của các yếu tố có nguồn gốc văn hoá Đông Á hay Đông Nam Á, và vào những thế kỷ gần đây là những thành tố đến từ văn hoá phương Tây, mà còn là, thậm chí chủ yếu trước hết là sự hiện hữu, vận động, tăng trưởng của những thành tố văn hoá bản địa, tại chỗ. Tuy việc xác định cho thật đầy đủ và lý giải cho có sức thuyết phục những yếu tố và thuộc tính nào đã làm nên đặc sắc, bản sắc của nền văn hoá Việt Nam cho đến nay vẫn là một nhiệm vụ cấp bách của những người nghiên cứu và quản lý nền văn hoá quốc gia - dân tộc, tuy căn cứ vào sự lĩnh hội mang tính thực thể và nguyên hợp, sự tri nhận kết hợp cả cảm tính lẫn lý tính, căn cứ vào những bằng chứng tối hậu của trạng thái tồn tại, thì hoàn toàn có thể khẳng định sự hiện hữu của một thứ bản sắc văn hoá dân tộc như vậy. Tuy nhiên, bài viết này chỉ bàn về quá trình hiện đại hoá của Việt Nam trong bối cảnh nền văn hoá khu vực Đông Á, cũng có nghĩa chỉ đề cập đến mối quan hệ chung và riêng của việt Nam với các quốc gia đồng văn của vùng văn hoá Đông Á truyền thống.
2. Hiện đại hoá ở Việt Nam và những sự quy định thành áp lực của quán tính văn hoá khu vực Đông Á lên quá trình hiện đại hoá đó
Cuộc tiếp xúc Đông - Tây, đúng hơn, cuộc xâm lăng của các đế quốc Âu - Mỹ đối với các nước kém phát triển hơn đã lôi kéo cả thế giới vào một quỹ đạo chung, trong khi phá huỷ hàng loạt những kết cấu nền tảng của các xã hội truyền thống của các quốc gia bị xâm lược. Từ nửa sau thế kỷ XIX các nước đồng văn của Đông Á đã bị định hướng vào nhiều những quỹ đạo vận động không giống nhau. Nhật Bản, sau vô số những chủ trương và biện pháp duy tân, trở nên là nước duy nhất trong khu vực không chỉ thoát khỏi thân phận bị nô dịch mà còn trở nên là đế quốc trẻ. Triều Tiên trở thành thuộc địa của chính quốc gia từng là xứ đồng văn ấy. Sau hàng loạt những thất bại trên nhiều bình diện, Trung Quốc bị đồng thời hàng chục thế lực ngoại bang xâu xé, trở nên là một nước phụ thuộc.Kể từ giữa thế kỷ XIX diện mạo lịch sử của bốn quốc gia đồng văn truyền thống không còn có sự đồng dạng trên hàng loạt bình diện như trước.
Thế kỷ XX tiếp tục chứng kiến những ngả đường phát triển lịch sử khác nhau của bốn quốc gia này, tô đậm thêm sự khác biệt vốn vẫn hằng tồn trong quá khứ. Nhật Bản theo đuổi địa vị sen đầm khu vực, tham gia có mức độ vào Chiến tranh Thế giới thứ nhất nhưng là một trong hai đội quân phát xít tạo nên nỗi kinh hoàng của nhân loại trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Sau thất bại trước phe Đồng Minh, nước Nhật những tưởng không bao giờ còn có thể trở lại góp mặt vào nền chính trị lớn của thế giới.Nhưng quả không thể dùng định ngữ nào xác đáng hơn là sự phục hưng thần kỳ để mô tả thực tại của Nhật Bản hai mươi năm sau ngày kết thúc cuộc Chiến tranh Thế giới ấy. Lịch sử thế giới cho tới thời điểm ấy hẳn chưa từng chứng kiến cuộc “hồi sinh từ đống tro tàn” nào theo đúng nghĩa đen và ngoạn mục đến dường ấy.Vào giữa thập niên sáu mươi của thế kỷ XX, Nhật Bản trở thành nền kinh tế có tiềm lực đứng hàng thứ hai của thế giới.
Trên lãnh thổ Trung Quốc từ sau năm 1949 tồn tại hai thể chế chính trị - xã hội, hai con đường phát triển. Các vùng lãnh thổ có nền kinh tế và thể chế chính trị tư bản chủ nghĩa là Đài Loan, Hồng Kông và Ma Cao. Phần lớn diện tích và cư dân của đế chế Mãn Thanh xưa - vẫn quen gọi là Trung Hoa đại lục - nay thuộc Cộng hoà nhân dân Trung Hoa. Phải mất gần 30 năm (1949 – 1978) tồn tại thất thường, trong đó đặc biệt tai hại là những biến cố của cái gọi là Đại Cách mạng văn hoá vô sản, nền kinh tế Trung Hoa đại lục mới tìm được hướng phát triển “mở cửa”, và kể từ đó thường xuyên duy trì được tỷ lệ tăng trưởng ổn định hàng năm thuộc vào hàng cao nhất thế giới, cũng trong vòng gần 30 năm liên tục.
Sau năm 1953, trên bán đảo Triều Tiên hình thành nên hai quốc gia, hai thể chế chính trị biệt lập. Cộng hoà Triều Tiên - tên gọi khác là Đại Hàn dân quốc - lựa chọn thể chế tư bản, còn Bắc Triều Tiên lựa chọn thể chế xã hội chủ nghĩa.Bắt đầu từ đầu những năm bảy mươi của thế kỷ XX, người ta chứng kiến một cuộc thăng hoa kinh tế mới không kém Nhật Bản diễn ra ở Hàn Quốc. Về phần Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Triều Tiên, cho đến nay, sau một nửa thế kỷ phát triển trong hoà bình, tuy cũng có đạt được một số thành tựu nhất định, nhất là trong lĩnh vực quân sự, nhưng trên tổng thể, vẫn chìm trong trạng thái yếu kém, trì trệ.
Việt Nam trong thế kỷ XX có bối cảnh riêng của mình, nhưng trên nhiều bình diện, nhiều thời đoạn, nhiều bộ phận lãnh thổ cũng lại đối diện với nhiều vấn đề khác nhau, phức tạp còn hơn cả những quốc gia trong khu vực. Ngót 30 năm (1946 – 1975) trên đất Việt Nam, cũng giống như trên bán đảo Triều Tiên, tồn tại ít nhất hai hệ thống chính trị. Định hướng ý thức hệ kéo miền Bắc Việt Nam xích gần lại với Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa và Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Triều Tiên. Điểm tương đồng tiêu cực của các nền kinh tế chỉ huy -còn gọi là chế độ quan liêu bao cấp - để lại những dấu tích nặng nề ở cả ba nước: các biện pháp công nghiệp hoá kiểu toàn dân làm gang thép, nông nghiệp kiểu Đại Trại, kiểu chiến dịch diệt chim sẻ, những chỉ tiêu, kế hoạch kinh tế kiểu Đại nhảy vọt ở Trung Quốc tìm được ánh xạ của nó trong những phong trào kiểu Thiên lý mã hay học thuyết “Chủ thể” ở Bắc Triều Tiên. Ở Việt Nam, giai đoạn bộc lộ rõ rệt nhất những sai lầm về đường lối mà trước hết là đường lối kinh tế là từ sau khi cả nước thống nhất cho đến thời kỳ Đổi mới. Khó nói rằng giới lãnh đạo Việt Nam thời điểm đó đã không chịu rút kinh nghiệm mà vẫn “tắp lắp” lại những sai lầm, thụ động mô phỏng Trung Quốc hay Bắc Triều Tiên: về ý thức chủ quan có khi hoàn toàn ngược lại.Vấn đề là hệ quả và hậu quả của những chính sách và biện pháp kinh tế như cải tạo công thương nghiệp, của kiểm tra và tịch thu hành chính, của sự hợp tác hoá cao cấp vội vàng, của chủ trương và kế hoạch biến mỗi huyện thành một “pháo đài kinh tế”, của “giá, lương, tiền”… đã đưa lại tình trạng cuối cùng là nền kinh tế tiêu điều và những sự khủng hoảng trầm trọng kéo dài, tương tự những hậu quả từng xảy ra ở Trung Quốc những năm 1957 – 1977 và ở Bắc Triều Tiên hơn nửa thế kỷ qua: những hệ quả mang tính quy luật.
Sau hai mươi năm đổi mới Việt Nam đã thu được những thành công cũng có thể coi là ngoạn mục. Nhưng ngoại trừ Bắc Triều Tiên, so với các quốc gia và vùng lãnh thổ khác, Việt Nam “cất cánh” muộn hơn, tốc độ phát triển và thành tựu cuối cùng cũng khiêm tốn hơn.Tổng kết những thành tựu của chính mình và quan tâm sâu sắc đến kinh nghiệm và thành tựu của trước hết là các quốc gia và vùng lãnh thổ vốn thuộc khu vực đồng văn truyền thống, giờ đây hầu như nhất loạt đã trở thành những Rồng lớn Rồng bé, Hổ mẹ Hổ con là một công việc cần thiết khách quan cho sự nghiệp đổi mới hữu hiệu hơn nữa. Trên đường hướng đó, đã có nhiều công trình nghiên cứu hứa hẹn trở thành “cẩm nang”, có tiếng vang trên thế giới và cũng đã được nhiều nhà quản lý lẫn giới nghiên cứu ở Việt Nam biết tới. Nhưng dẫu có sức hấp dẫn, tính khả tín đích thực của một số kết quả và kết luận ở một số công trình kiểu đó, nói một cách chừng mực, còn cần trải qua những sự phản biện nghiêm khắc và kỹ lưỡng hơn nhiều nữa.
Các nhà kinh tế học, Đông phương học thế giơí từng và vẫn đang dành một sự chú ý cao độ đối với cả tốc độ lẫn phương thức phát triển, tăng trưởng ở khu vực Đông Á. Rất nhiều người đã và đang nói đến một tương lai xán lạn của khu vực châu Á - Thái Bình dương, nói đến một thế giới Hán hoá mới (le nouveau monde sinisé). Điều thú vị là sau tất cả những biến thiên lịch sử của hơn một thế kỷ gần như giải thể, vùng Đông Á lại được tái lập, được đưa trở lại làm một đối tượng nghiên cứu đặc biệt. Nhiều học giả lớn đã và đang nói tới nguồn động lực của khu vực là ở những giá trị truyền thống. Độ tin cậy ở điều mà đối với một số người nào đó là kết luận khẳng định, đối với một bộ phận khác lại chỉ mới là giả thiết này lớn đến mức độ nào ?
Quả là sau hơn một thế kỷ phát triển, giờ đây thế giới chứng kiến một khu vực Đông Á phân hoá mạnh mẽ, thành những quốc gia và vùng lãnh thổ có năng lực và vị thế hết sức khác nhau, cơ hồ khó tìm thấy những hằng số chung. Vậy mà những hằng số đó vẫn tồn tại.
Trước hết, xét một cách chặt chẽ thì không một quốc gia nào trong khu vực thực sự xây dựng, hiện đại hoá bộ máy chính trị và cơ chế tổ chức, quản lý xã hội mình theo đúng như khuôn mẫu chế độ dân chủ theo mô hình Âu - Mỹ. Trung Quốc, Việt Nam, Bắc Triều Tiên đã và hiện vẫn đang thực hiện chế độ một đảng độc tôn lãnh đạo, cầm quyền. Trong con mắt của rất nhiều nhà nghiên cứu và bình luận chính trị Âu - Mỹ, thực tế đó được coi như một dạng thức (version) của chế độ toàn trị[...]. Tuy nhiên, một xã hội được coi làm khuôn mẫu cho một nền dân chủ được “hiện thực hoá đầy đủ” như Nhật Bản, thì ít nhất về mặt thể chế tối cao vẫn bảo lưu những nét của một nền chính trị quân chủ lập hiến, cho dù quyền lực thực tế của Nhật Hoàng - tương tự Anh Hoàng - không còn thực sự quan trọng và quyết định như trong truyền thống.Từ sau năm 1953 dù công bố định hướng xây dựng chế độ dân chủ thực thụ, nhưng trên thực tiễn chính trị, cho tới mãi gần đây, Hàn Quốc vẫn là “nơi khai sinh” ra những tên tuổi độc tài “lừng lẫy”, từ Lý Thừa Vãn, Park Chung Hy đến Chun Đô Hoan, Rô Thê U…Đài Loan vừa rời bóng của gia tộc họ Tưởng chưa xa và sinh mệnh chính trị của Đài Loan phụ thuộc trước hết vào quan hệ giữa các nước lớn, đặc biệt là quan hệ Trung Quốc với Mỹ .
Cũng là một thực tế, tình hình đã diễn ra ở khu vực, là tình trạng các quốc gia kiên trì khẳng định tính toàn vẹn chủ quyền, chủ trương tự lực tự cường, thì có tính độc lập chính trị cao, nhưng kinh tế lại chậm phát triển và nhiều trở ngại. Nhật Bản từ sau năm 1945, Hàn Quốc từ sau năm 1953 không còn là những quốc gia độc lập thực sự, khi trên lãnh thổ của họ có quân đội nước ngoài đồn trú . Sự lựa chọn trong những trường hợp nói tới đây, quả thực là nghiệt ngã: để đánh đổi lấy viện trợ, đánh đổi lấy lượng tư bản cần thiết của nền kinh tế quốc gia - dân tộc, giới cầm quyền ở hai nước này đã buộc phải chấp nhận để cho một bộ phận lãnh thổ nước mình trở thành căn cứ quân sự của Mỹ. Nhiều quốc gia trên thế giới khác từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai bởi nhiều loại nguyên nhân khác nhau cũng đã chọn lối ứng xử với các cường quốc theo cung cách ấy: Nhật Bản, Tây Đức, Hàn Quốc, Thái Lan, Philippin, một số nước vùng Vịnh hay Mỹ la tinh trong quan hệ với Mỹ, các nước Đông Âu hay một vài quốc gia Trung Á trong quan hệ với Liên Xô. Khi thế giới vận hành trong quỹ đạo Chiến tranh Lạnh, tính chất lưỡng cực nổi lên, thì sự mất độc lập của các quốc gia vừa nói là điều khó tránh khỏi, khó phủ nhận. Nhưng vào thời kỳ hậu Chiến tranh Lạnh, thế giới ngày càng trở nên đa cực và đa cực hoá, thì độc lập tính của các quốc gia kể cả các quốc gia nói trên lại được xác định lại trong hệ thống những mối quan hệ đa cực, trong sự chi phối ràng buộc lẫn nhau giữa các cực. Nhiều quốc gia trong số đó đã trở nên là các cực, chi phối mạnh mẽ đời sống chính trị, kinh tế, văn hoá của thế giới, mà điển hình là Nhật Bản và Cộng hoà Liên bang Đức, những ứng cử viên rất “nặng ký” vào vị trí thành viên thường trực của Hội Đồng bảo an Liên hợp quốc.
Trở lại với các quốc gia trong khu vực Đông Á vài thập niên trở lại đây.
Một cách sòng phẳng, cần ghi nhận rằng những đổi thay diễn ra ở Trung Quốc từ năm 1978, ở Việt Nam từ năm 1986, những chuyển động phức tạp nhưng dù sao cũng càng ngày càng phải trở nên mềm dẻo hơn ở Bắc Triều Tiên trong gần một thập kỷ vừa qua đều có thể được coi là những biến đổi tuân theo một tất yếu nghiệt ngã của lịch sử. Trong một cái nhìn xuyên suốt kể từ thời điểm có những va chạm, tiếp xúc Đông - Tây đến nay, người quan sát có thể nhận ra những sự thay đổi ấy theo hai trình độ: chủ động và bị động, lựa chọn tự do hay do bị dồn vào ngõ cụt của trạng thái tồn tại. Khi đánh giá tính tích cực lịch sử của các chủ thể quyền lực không thể không tính đến góc nhìn quy chiếu này. Trong khuôn khổ những tính quy định nhìn từ truyền thống và quán tính của những giá trị khu vực, một Đông Á đổi thay hiện đại hoá dường như vẫn bảo lưu những hằng số nào đó, và việc đánh giá cho đúng những hằng số này trong quỹ đạo vận động trở nên có ý nghĩa phương pháp luận quan trọng.
Xuất phát từ một số nhà lãnh đạo thành đạt ở khu vực Đông Nam Á, nhiều người đã lên tiếng đồng tình với việc tôn vinh “những giá trị châu Á” trong tổ chức và điều hành xã hội.Với khu vực văn hoá Đông Á truyền thống, nhiều nhà Đông phương học mà điển hình là Léon Vendesmecht đã đi tới một kết luận quan trọng, nhận được sự tán thưởng của nhiều nhân vật nổi tiếng trong giới cầm quyền khu vực về vai trò của việc khai thác và sử dụng lại những giá trị Nho giáo truyền thống, cũng vì thế mà khẳng định lại vị trí của Nho giáo nói chung trong viễn cảnh sáng tươi của châu Á - Thái Bình dương. Tôi đã nhiều lần bày tỏ sự thiếu tin tưởng đối với luận điểm này! Ít nhất, về mặt quan niệm chính trị - xã hội, hạt nhân trung tâm của Nho giáo là sự khẳng định cương thường, thừa nhận tính đẳng cấp, tôn ty nghiêm nhặt và bền vững của một thứ trật tự loại trừ yếu tố dân chủ là điều không thể lấy làm tôn chỉ cho sự định hướng đối với các xã hội tương lai. Những nhà độc tài sáng suốt có thể xuất hiện (và cũng đã xuất hiện), đóng vai trò động lực cho những chặng phát triển nhất định của một xã hội cụ thể, những thiết chế chuyên chế khôn ngoan và uyển chuyển có thể và trong lịch sử chính trị khu vực cũng từng là những hiện tượng có thật, nhưng thuỷ chung, những “người và vật” ấy chỉ có thể được đánh giá về tầm quan trọng và mức độ cần thiết theo chính hệ từ vựng mà Nho giáo đã tạo nên: đó chỉ là những tình huống quá độ, “tòng quyền”. Với những gì chỉ là “tòng quyền”, thái độ chung nằm trong ý thức sâu xa của mọi chủ thể quyền lực, một khi chủ thể đó càng hướng tới việc gia hạn và nếu có thể thì gia hạn đến mãi mãi địa vị quyền lực của nó, thái độ chung phổ biến ấy là miễn cưỡng, không mong muốn, “dầu lòng vậy, cầm lòng vậy”, là thái độ mà một thi nhân “trong hệ thống” của Việt Nam đã bày tỏ hộ cho cơ chế ấy: “Chấp kinh, có lúc tòng quyền biết sao”.
Là quốc gia Đông Á hiện đại hoá muộn và mới đạt tới những kết quả hạn chế, Việt Nam còn cần thiết hơn ai hết việc “kế thừa có phê phán” đối với những “bài học quá khứ”. Chắc chắn rằng, đối với Việt Nam, quá trình hiện đại hoá còn phải diễn ra trong với một thời lượng không thể coi là ngắn ngủi. Những “bài học Đông Á” hẳn sẽ có giá trị tham khảo hàng đầu mà người Việt Nam chúng tôi khi thực hiện đường lối mở cửa, hướng ra với thế giới, “mong muốn là bạn của mọi quốc gia và dân tộc” sẽ phải tiếp nhận để nghiền ngẫm.
Bản thảo lần đầu tháng 12/ 2002
Viết lại và bổ sung tháng 3/2007