Cuộc sống quanh ta

Vấn đề nữ quyền và giáo dục

1. Vai trò quan trọng của phụ nữ trong thời đại mới

Toàn cầu hóa cùng với khoa học công nghệ đang làm thay đổi nhanh chóng diện mạo của nhân loại. Cùng với phong trào giải phóng dân tộc diễn ra mạnh mẽ trong thế kỉ XX, phong trào giải phóng phụ nữ cũng diễn ra ngày càng rộng lớn và có chiều sâu.

Trong thực tế phong trào này đã được lịch sử ghi nhận. Qua những xung đột hoặc chiến tranh giải phóng dân tộc, khi nam giới ra tiền tuyến chiến đấu thì phụ nữ có vai trò to lớn làm cho guồng máy của toàn xã hội ở hậu phương vận hành suôn sẻ. Tuy nhiên ở nhiều nơi trên thế giới địa vị xã hội của người phụ nữ vẫn ít được thay đổi và ít được pháp luật khẳng định. Mặc dù cuộc đấu tranh cho quyền lợi phụ nữ là cuộc đấu tranh có tính xã hội nhưng để cho công bằng với phụ nữ, trước hết sự nghiệp giải phóng phụ nữ phải là sự nghiệp do phụ nữ thực hiện, cho dù có không ít nam giới đã đóng góp quan trọng cho sự nghiệp này.  
Tuy nhiên từ khi có xã hội phân chia giai cấp cũng là bắt đầu sự thất thế của người phụ nữ. Khát vọng giải phóng của phụ nữ có từ ngàn đời nay, nhưng diễn ra thầm lặng và sự nghiệp giải phóng phụ nữ cũng vì vậy mà còn diễn ra lâu dài. Mặc dù đây đó trên thế giới ở những nước văn minh, vài khu vực tiến bộ có những nhân vật nữ lên nắm quyền, có những nơi công nhận phụ nữ là một chủ thể xã hội thì phần lớn “thời gian sống” phụ nữ vẫn là “đối tượng cần được giải phóng”, chưa nói gì tới việc họ được hưởng đầy đủ quyền tự do và bình đẳng thật sự.
Tại những nước nghèo và những nước mới phát triển thì sự nghiệp giải phóng phụ nữ còn khó khăn hơn vì nghèo đói và thiếu hiểu biết không chỉ kìm hãm toàn xã hội mà đối với phụ nữ địa vị và thân phận của họ còn bị chìm đắm hơn trong tăm tối. Ngay cả những nước phát triển dù có phong trào nữ quyền thì cũng không có gì đảm bảo cho phong trào này thắng lợi khi có những người còn mang nặng tư tưởng thù địch với bình đẳng nam nữ, luôn tìm mọi lí do để cản trở e sợ phong trào này đi quá xa. Tệ hại hơn có những nơi do cuồng tín hoặc phong tục lạc hậu còn giết cả các em gái từ trong bào thai hoặc khi đến trường để tìm tri thức…
Vấn đề giải phóng phụ nữ trong mấy thập niên qua đã đạt được những thành tựu không ai có thể phủ nhận được, song điều này cũng chưa đáp ứng được nguyện vọng cháy bỏng của nửa dân số trên hành tinh này. Chính Chương trình phát triển của LHQ (UNDP) đã khẳng định: “trong mọi sự bất bình đẳng về phát triển, thì bất bình đẳng giữa nam và nữ là một trong những điều đặc thù nhất và đã bộc lộ ở tất cả các nước, ngay cả những nước tiên tiến nhất và tự hào về những thành tích của mình trong lĩnh vực này, người phụ nữ không thực sự được hưởng những cơ hội tương tự như nam giới trong bất cứ một dân tộc, một quốc gia nào” (tr97-98).
Điều này cho thấy việc đấu tranh chống bất bình đẳng giới không chỉ phụ thuộc vào sự tăng trưởng kinh tế, mà là một vấn đề phức tạp trước hết cần dựa vào nhận thức và ý chí chính trị của người dân mỗi nước, rằng điều này sẽ làm tăng vận hội phát triển của mỗi quốc gia. Đấy là chưa nói tới một luận điểm ngợi ca vai trò cội nguồn sáng tạo quan trọng của người mẹ người phụ nữ thường được dẫn ra: “không có người mẹ thì anh hùng thi sĩ hỏi còn đâu?”
2. Thực trạng của bất bình đẳng giới, nghèo khổ và bạo lực
Mặc dù nhân loại có đạt được những thành tựu khả quan về tiến bộ phụ nữ, song những thành tựu này còn cách xa khái niệm thật sự bình đẳng nam nữ về quyền sống con người mà ngàn năm nay luôn là khát vọng của phụ nữ.
a. Về giáo dục, trong 20 năm qua cho dù khoảng cách giữa nam và nữ có giảm đi một nửa, song những bất bình đẳng vẫn tồn tại dai dẳng như một thách thức nhân loại trong 880 triệu người mù chữ trên thế giới có gần 2/3 là phụ nữ; trong số 130 triệu trẻ em không được đến trường tiểu học có 60% là em gái. Phần lớn phụ nữ và em gái này sống ở nông thôn. Trong chương trình giáo dục cũng như sách giáo khoa ở nhiều nước vẫn còn những quan niệm thành kiến với phụ nữ (chẳng hạn phụ nữ chỉ nên học một số ngành khoa học xã hội, ít học khoa học tự nhiên), không đề cập đến những thành tựu của phụ nữ hay những vấn đề đặt ra hàng ngày đối với phụ nữ (chẳng hạn giải phóng các em, đặc biệt các em gái khỏi những công việc kiếm sống, để tập trung vào học tập cũng quan trọng như các chiến lược giáo dục khác)
Bước vào thế kỉ XXI, cộng đồng quốc tế trong đó UNESCO đã thức nhận vấn đề giáo dục có tầm quan trọng đặc biệt cho sự phát triển bền vững và UNESCO có cả chương trình hành động; “Thập kỉ giáo dục vì sự phát triển bền vững” (2005-2014). Trong đó việc ưu tiên cho giáo dục phụ nữ và phát triển giáo dục phụ nữ sẽ góp phần quyết định sự phát triển. Điều này được minh chứng bởi các số liệu của Ngân hàng Thế giới về Kênya nâng trình độ học vấn của phụ nữ ngang với nam giới đã làm tăng sản lượng lương thực từ 9% lên 22%. Những nước có thời kì được coi là “con rồng”, “con hổ” của Đông Á đều có tỷ lệ đầu tư cho giáo dục trong đó có giáo dục phụ nữ trên 20% GDP.
b. Nhu cầu của nam và nữ giới về y tế cũng như về dinh dưỡng tưởng như bằng nhau nhưng thực chất phụ nữ vẫn được chăm sóc ít hơn, điều này càng đúng ở thế giới thứ ba. Theo số liệu của LHQ hàng năm có hàng triệu phụ nữ bị tàn tật sau những lần phá thai, có 10 vạn phụ nữ chết vì phá thai, có 60 vạn phụ nữ tử vong do biến chứng của việc mang thai hoặc sinh đẻ… Chưa kể phụ nữ dễ mắc bệnh lây nhiễm nhiều hơn nam giới tới một lần rưỡi.
c. Nghèo khổ là một trong những vấn đề tác động mạnh mẽ đến phụ nữ. Thậm chí người ta còn cho rằng “nghèo khổ mang gương mặt phụ nữ - thầm lặng”. 70% trong số 1,3 tỷ người nghèo trên thế giới là phụ nữ. Nghèo khổ thường đi đôi với phân biệt đối xử và cũng là nguyên nhân dẫn đến hàng triệu cái chết cho phụ nữ và em gái trên hành tinh này. Nguyên nhân dẫn đến sự nghèo khổ của phụ nữ cũng thật đa dạng và phức tạp, từ địa vị xã hội, phong tục tập quán, phương thức sống cho đến các thể chế chính sách, các thị trường…
Ngay cả những nước phát triển, cơ hội bình đẳng về giáo dục nam nữ là như nhau, song sự đe dọa về nghèo với phụ nữ vẫn nhiều hơn bởi lẽ phụ nữ thường chịu trách nhiệm về gánh nặng gia đình và luôn bị phân biệt đối xử trong thị trường lao động. Ngay cả quyền bình đẳng của phụ nữ ở những nước này cũng chưa được xã hội công nhận, cho dù trình độ học vấn của họ có ngang nam giới song lương cũng không cao hơn nam giới và quyền lãnh đạo cũng ít có cơ hội hơn nam giới. Mặc đây đó có những phụ nữ nắm quyền điều hành đất nước ở những vị trí nhất định, thì con số này có thể tính trên đầu ngón tay.
d. Vấn đề bạo lực với phụ nữ
 Mặc dù quyền con người vốn được hiểu là bình đẳng cho cả nam và nữ, nhưng thực chất nhiều nơi vẫn chưa chấp nhận quyền này. Chính điều này đã dẫn sự coi thường địa vị xã hội của phụ nữ, cao hơn là nạn bạo lực, đàn áp về thể chất và tinh thần đối với phụ nữ diễn ra khắp nơi và suốt cuộc đời người phụ nữ. Ngay từ lúc còn là bào thai người ta đã có tư tưởng trọng nam khinh nữ, sẵn sàng loại bỏ thai nhi nữ, cho tới khi ra đời các bé gái đã chứng kiến bạo lực gia đình luôn diễn ra từ xưa. Ngay cả những nước văn minh vấn đề bạo lực đối với phụ nữ cũng vẫn tồn tại: Mỹ và Đức hàng năm có 4 triệu phụ nữ bị bạo hành, Canada, Nhật Bản, Hàn Quốc có từ 20% đến 60% phụ nữ bị chồng đối xử thô bạo… Chính những bạo hành đối với phụ nữ trên đã gây ra nhiều cái chết đau thương (phần lớn là tự tử) cho phụ nữ. Đấy là chưa kể tới hàng năm có tới 100 triệu thiếu nữ bị cưỡng bức hoặc lạm dụng tình dục. Rõ ràng bạo lực đối với phụ nữ là hành vi không thể chấp nhận được. Nó vi phạm các quyền cơ bản của con người và tự do cơ bản của phụ nữ, ngăn cản họ không cho thực hiện quyền tự do đó. Điều này cho thấy chỉ có pháp luật là chưa đủ để thay đổi bức tranh đen tối của bạo lực. Quan trọng hơn là thay đổi về nhận thức và xây dựng một môi trường văn hóa nhân văn để điều hòa xung đột hai giới dẫn đến sự tôn trọng và đối thoại chân chính với nhau thông qua giáo dục.
3. Những thành tựu trong đấu tranh bình đẳng giới
Trong hai thập niên trở lại đây, bình đẳng giới đã đạt được những thành tựu trên quy mô toàn cầu về những mặt cụ thể như: giáo dục, sức khỏe sinh sản và quyền lực của phụ nữ…
a. Về giáo dục, từ năm 1970-1990 tỷ lệ trẻ em gái và phụ nữ so với em trai và nam giới đều có sự tiến bộ rõ rệt. Tỷ lệ xóa mù chữ tăng từ 54% lên 74%. Bậc giáo dục tiểu học tỷ lệ nữ sinh tăng 1,7% so với nam 1,2%; bậc đại học tỷ lệ nữ sinh viên so với nam còn đáng khích lệ hơn tăng từ 50% lên 70%. Chính trong điều kiện này, cộng đồng quốc tế đã thức nhận coi giáo dục là lĩnh vực đầu tư tốt nhất, trong đó đặc biệt là giáo dục phụ nữ.
b. Về y tế, tuổi thọ của phụ nữ tăng 20% so với nam giới. Tỷ lệ sinh đẻ giảm từ 4,7con/1 mẹ (từ 1970-1975) xuống 3 con (từ 1990-1995). Điều này không chỉ góp phần tăng cường sức khỏe, giảm nguy cơ tử vong khi sinh đẻ hoặc mang thai cho phụ nữ mà còn tăng cường tự do và sự lựa chọn cho phụ nữ trong việc tham gia công tác xã hội và phát triển kinh tế.
c. Về mặt sinh đẻ, những Hội nghị của LHQ về Dân số và Phát triển (Cairo 1994) và Phụ nữ (Bắc Kinh 1995) đều đã khẳng định “công nhận quyền cơ bản của các cặp vợ chồng và mọi người được tự do quyết định một cách có trách nhiệm số con của mình và khoảng cách giữa các lần sinh đẻ và được thông báo các biện pháp để thực hiện điều đó…” (Chương trình hành động Bắc Kinh, Điều 95). Rõ ràng sự công nhận này là quan trọng. Điều này cho thấy tự do và trách nhiệm luôn gắn bó mật thiết. Thêm nữa trách nhiệm ở đây vừa do cá nhân và tập thể cùng cam kết thực hiện. Tập thể xã hội và gia đình phải huy động mọi nguồn lực để thúc đẩy sự tiến bộ của phụ nữ, trẻ em trong các lĩnh vực giáo dục, y tế và dịch vụ xã hội.
d. Về mặt quyền lực, mặc dù được mở ra đối với phụ nữ song còn chậm. Việc phụ nữ tham gia chính quyền không còn là điều hiếm ở một số nước trên thế giới. Số lượng nữ bộ trưởng tăng gấp đôi trong 10 năm qua. Số lượng nghị sĩ nữ cũng tăng lên đáng kể (Thụy Điển, Na Uy là 40%,) chưa kể Tổng thống nữ. Nhiều nhà khoa học cũng đã có lí, dự báo thế kỉ XXI là thế kỉ của phụ nữ khi càng có nhiều phong trào do phụ nữ lãnh đạo có hiệu quả.  
4. Bất bình đẳng giới thông qua so sánh
Giới nhằm nói đến vai trò cũng như quyền lực khác nhau trong xã hội của nam giới và nữ giới. Quan hệ giới có ảnh hưởng đến hình thái tổ chức cộng đồng, gia đình và thể chế xã hội; nó cũng ảnh hưởng đến việc đưa ra quyết định và việc sử dụng tài nguyên môi trường. Chính vì vậy, để hiểu được yếu tố giới tác động đến môi trường như thế nào, chúng ta cần tìm hiểu vai trò trách nhiệm của nam giới và nữ giới với cách tiếp cận và kiểm soát tài nguyên, những hiểu biết của họ và quyền quyết định sử dụng tài nguyên… 
a.Từ góc độ môi trườngsuy thoái đối với giới.
Nam giới hay nữ giới không chỉ khác nhau về cách họ sử dụng và quản lý tài nguyên và môi trường mà họ còn bị ảnh hưởng của suy thoái tài nguyên thiên nhiên dưới nhiều hình thức khác nhau. Suy thoái rừng, thiếu nước, ô nhiễm sông ngòi, nguồn nước, suy thoái đất, việc tiếp xúc với các hóa chất nông nghiệp và công nghiệp, các chất ô nhiễm hữu cơ… ảnh hưởng đến phụ nữ và nam giới theo các hình thức, cũng như mức độ không hề giống nhau.
Điều này là do ba nguyên nhân: kinh tế, sinh học và giới tính. Để phát triển kinh tế, chống lại đói nghèo, để có một nền kinh tế thị trường với lợi nhuận khổng lồ, người ta bất chấp cả sự an toàn của môi trường. Các tác động của sự suy thoái môi trường thường bị đẩy xuống dưới mục tiêu kinh tế.
b. Từ bất bình đẳng xã hội, thậm chí chạy theo mối lợi của một tập đoàn, một nhà máy người ta còn dùng mọi thủ đoạn phá hoại làm ô nhiễm môi trường, đẩy những người nghèo trong đó có nhiều phụ nữ không có đủ điều kiện để tự bảo vệ mình, bảo vệ quyền sống của mình trước sự xuống cấp của môi trường. Đặc biệt là phụ nữ khắp nơi trên thế giới thường bị rơi vào những hoàn cảnh trên, họ ở những nấc thang dưới đáy của kinh tế xã hội.
c. Từ góc độ sinh lí có những khác biệt về sinh học giữa nam và nữ, bao gồm các sự khác biệt quan trọng trong cấu trúc hormon, khiến cho nam và nữ có sự nhạy cảm khác nhau đối với hiện tượng phơi nhiễm chất độc và các chất ô nhiễm khác có từ môi trường. Chẳng hạn căn bệnh ung thư vú trong nữ giới ở trên thế giới ngày càng tăng cao là do sự phơi nhiễm các chất thải công nghiệp, nhất là các chất clo hữu cơ tổng hợp, có mặt khắp nơi trong các nước công nghiệp hóa.
d. Từ góc độ dinh dưỡng, suy thoái môi trường còn gây nên sự suy giảm về chế độ dinh dưỡng trong gia đình. Ở những nơi thiếu củi đun, thiếu nước ăn, hoặc những nơi đất bị suy thoái do trồng trọt chăn nuôi quá mức, hay bị xói lở, sa mạc hóa, thì cả nam giới và nữ giới đều phải thay đổi thói quen ăn uống trong gia đình. Việc thiếu củi đun buộc các gia đình phải chuyển sang ăn các loại thức ăn kém dinh dưỡng, có thể ăn sống hoặc nấu tái; thức ăn nấu tái dễ bị ngộ độc, hay ăn các thức ăn thừa trong điều kiện không có gì bảo quản dễ bị ôi thiu. Mặc dù những thay đổi về dinh dưỡng ảnh hưởng đến cả gia đình nhưng ở mức độ nào đó, theo cả phong tục, phụ nữ và các em gái thường được ăn ít nhất và ăn sau cùng thì họ lại là người phải chịu nhiều ảnh hưởng nhất. Đấy là chưa nói tới phụ nữ và trẻ em còn có nguy cơ tiếp xúc cao với các chất ô nhiễm trong ngôi nhà của mình, trong khi nam giới đi làm ở bên ngoài. Những chất ô nhiễm trong nhà thường là bồ hóng được tạo nên do lâu ngày dùng củi đun nấu hoặc sưởi ấm, do đốt than rơm rạ… Việc tiếp xúc ở mức độ cao và lâu dài với khói trong khi làm việc nhà cũng liên quan trực tiếp đến sức khỏe cũng như thai sản của phụ nữ như sinh ra trẻ thiếu tháng, nhẹ cân hoặc tử vong sau khi sinh…
e. Từ góc độ sinh sản, suy thoái môi trường còn làm tăng nguy cơ đối với vấn đề sinh sản. Nam giới khi tiếp xúc nhiều với thuốc trừ sâu, trong chiến tranh một số người bị nhiễm chất độc da cam họ có thể bị ung thư tinh hoàn không sinh được con, hoặc có sinh được con thì cũng bị dị tật; còn phụ nữ tiếp xúc nhiều với các chất độc hại trong sản xuất nông nghiệp như thuốc trừ sâu họ cũng có nguy cơ đẻ non, con chết yểu hoặc mắc bệnh nan y.    
g.Xét về vai trò và trách nhiệm đối với gia đình của giới
 Nhìn chung ở các nước trên thế giới, do sự phân công lao động lâu nay, nam giới thường giữ vai trò lớn hơn phụ nữ trong việc khai thác tài nguyên thiên nhiên phục vụ các mục đính sản xuất hay thương mại như chặt đốn cây rừng, chăn thả gia súc, đào than, lấy các sản phẩm từ rừng.   
Mặt khác cả phụ nữ và nam giới đều tham gia vào các hoạt động sản xuất kinh tế như cày cấy, thu hái… bên cạnh đó người phụ nữ còn phải làm nhiều công việc khác theo chức năng giới. Trong đó trách nhiệm hàng đầu của họ là lo cho nhu cầu sinh hoạt hàng ngày của một gia đình như tìm kiếm chuẩn bị thức ăn, lấy nước, chăm sóc con cái và chăm lo sức khỏe cho cả gia đình. Chỉ riêng điều này cũng có thể thấy trách nhiệm của nam giới đối với công việc gia đình là còn hạn chế. Từ đó có thể thấy, do phải gánh thêm phần trách nhiệm đối với công việc gia đình mà người phụ nữ thường có nguy cơ bị phơi nhiễm sớm hơn và lâu hơn nam giới, đối với các chất ô nhiễm sinh ra từ nước, các chất ô nhiễm trong quá trình làm thức ăn, các chất ô nhiễm trong sinh hoạt gia đình, bao gồm cả ô nhiễm không khí trong nhà.
 Như vậy nếu xét về tiêu chí thời gian sử dụng trong ngày thì nữ giới phải làm cả công việc trong gia đình và ngoài gia đình còn nam giới chủ yếu là làm công việc ngoài gia đình. Điều này rất điển hình ở các nước nghèo và đang phát triển. Nam giới thường phải lên các thành phố tìm việc làm để kiếm tiền nuôi gia đình, để lại một gánh nặng gia đình cho người phụ nữ ở nông thôn phải gánh vác. Việc những người nam giới lên thành phố kiếm sống không chỉ ảnh hưởng đến vai trò giới mà còn ảnh hưởng đến cả môi trường. Chẳng hạn ở Ghana vì thiếu sức lao động của đàn ông để đốn cây bụi, làm cỏ… đã làm cho chu trình quay vòng cây trồng bị kéo dài, vì vậy mà thời gian tái phục hồi độ màu mỡ của đất bị ít đi, tất nhiên sẽ ảnh hưởng đến sản lượng cây trồng và đất nhanh thoái hóa bạc mầu. 
h.Về kiến thức cuộc sống
Nhìn chung nhất, cả nam giới và nữ giới đều có những kiến thức nhất định về bảo vệ và quản lý môi trường, tài nguyên, nhưng họ có thể biết nhiều hay ít về các giống loài cây, con trong tự nhiên và cách thức ứng xử với môi trường khác nhau là tùy thuộc vào các điều kiện sống của họ. Tuy nhiên kiến thức môi trường nhìn từ góc độ giới lại rất khác nhau và phức tạp tùy thuộc vào dân tộc, độ tuổi, vị thế xã hội. Một ông trưởng bản thuộc nhóm bản địa, có những kinh nghiệm và cách sử dụng tài nguyên rừng khác với một thanh niên sống ngoài cộng đồng ấy. Với phụ nữ cũng vậy, nhu cầu vào rừng để hái lượm tìm thức ăn và củi đốt nhiều hơn chặt phá cây rừng để làm nhà đốt nương. Nắm được sự quan tâm khác nhau về kiến thức môi trường giữa nam giới và nữ giới trong điều kiện kinh tế xã hội khác nhau, sẽ giúp các nhà quản lý môi trường xác định các hoạt động can thiệp vào môi trường sao cho hợp lý và bền vững.
i.Vấn đề quyền lợi tiếp cận và kiểm soát tài nguyên     
Quyền sở hữu và kiểm soát tài nguyên của cả nam giới và nữ giới đều lệ thuộc vào điều kiện kinh tế, xã hội, thể chế và pháp luật. 70% người nghèo trên hành tinh này sống phụ thuộc vào đất, nước và rừng. Họ khai thác tài nguyên thiên nhiên để làm củi đun tạo ra năng lượng, gỗ để làm nhà ở, cùng các loài động thực vật khác nhau để làm thức ăn. Mặc dù sống phụ thuộc vào môi trường thiên nhiên rất lớn, song hầu hết những người nghèo đều thiếu quyền tiếp cận và không có quyền kiểm soát các tài nguyên này.
 Vị thế xã hội của người phụ nữ, đặc biệt trong những nước nghèo và đang phát triển đã hạn chế quyền lợi của những người nghèo đối với việc tiếp cận độc lập và kiểm soát tài nguyên đất. Nhiều nước trên thế giới còn bảo lưu những luật tục hạn chế vị thế xã hội và quyền lợi của người phụ nữ. Thường quyền lợi của người phụ nữ đối với đất đai thời phong kiến trước kia ở các nước phương Đông, đều không được quan tâm, thậm chí mất đi khi người phụ nữ ly dị hoặc góa bụa. Ngay cả những nước có pháp luật đảm bảo quyền lợi bình đẳng của cả nam và nữ về đất đai như nhau, thì phụ nữ vẫn có thể không nhận thức ra quyền lợi của họ hoặc do phong tục tập quán họ có thể bỏ qua quyền sở hữu thực tế được pháp luật thừa nhận này. 
Chế độ sở hữu đất đai lâu đời chỉ quan tâm đến nam giới mà không quan tâm đến nữ giới đã cổ vũ cho chế độ gia trưởng ra đời đặc biệt ở các nước phương Đông đã ăn vào tiềm thức con người. Chính chế độ sở hữu đất đai này đã ảnh hưởng đến các hình thái sử dụng tài nguyên thiên nhiên khác nhau theo các nhóm. Người ta thường thấy phụ nữ, người nghèo và các nhóm bị cách ly khỏi nhịp điệu phát triển của xã hội thường có xu hướng đầu tư thời gian, tiền của và cả việc áp dụng những phương thức canh tác giúp cho bền vững môi trường ngay trên mảnh đất mà họ không có quyền sở hữu (chẳng hạn nông dân Hưng Yên không đủ đất canh tác đi thuê đất bãi ở Thanh Trì Hà Nội để trồng rau và cây thuốc)     
k.Sự tham gia của cộng đồng vào việc ra quyết định
Việc tham gia của cộng đồng vào quản lý môi trường ngày càng được xem như là một thành tố quan trọng của các chính sách môi trường của các quốc gia cũng như trên toàn hành tinh. Thực tế là việc tham gia của phụ nữ vào việc lập kế hoạch xây dựng và bảo vệ môi trường, thực hiện các chính sách về môi trường vẫn còn rất thấp ở mọi cấp, từ địa phương đến các cấp cao hơn – nơi quyết định các chính sách về môi trường quốc gia và quốc tế.
Sự tham gia hạn chế của giới nữ đối với việc ra quyết định về các chính sách môi trường cũng có nghĩa là nhu cầu, kiến thức, và viễn cảnh về quyền lợi của người phụ nữ đối với môi trường bị coi nhẹ và các giải pháp họ đưa ra thường bị lờ đi. Nhưng người phụ nữ vẫn phải sống, phải lo cho sự sống của gia đình, nên họ vẫn phải dựa vào thiên nhiên, tác động vào môi trường. Vì vậy những hoạt động, hành vi bảo đảm sự tồn tại của họ và gia đình dễ trở thành bất hợp pháp, trong khi các chính sách lại không làm thay đổi hành vi của họ được.
5. Giáo dục như là một phương tiện hữu hiệu trong việc giáo dục bình đẳng giới và giải phóng phụ nữ
Giải phóng phụ nữ là một sự nghiệp lớn lao và lâu dài của toàn xã hội. Vì vậy nó là kết quả tổng thể của nhiều yếu tố mới có thể thành công được. Trong thời đại ngày nay nhân loại không thể bỏ qua 50% tiềm lực sáng tạo của mình. Vì vậy cần giúp cho phụ nữ những phương tiện hành động không chỉ về kinh tế mà ở các lĩnh vực khác của đời sống trí tuệ và khoa học, nơi mà lâu nay tài năng và tầm nhìn của họ luôn bị che khuất hoặc không được công nhận. Để đảm bảo thành công cho chiến lược phát triển, trước hết cần đầu tư vào giáo dục và y tế cho phụ nữ, đồng thời đảm bảo sự tham gia của họ về mọi mặt của đời sống chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội.
a. Phổ cập giáo dục và giáo dục suốt đời là một mục tiêu quan trọng của UNESCO đối với mọi người và đặc biệt đối với phụ nữ
Phổ cập giáo dục trên thực tế là làm cho các em gái bình đẳng với các em trai ở độ tuổi tới trường và giúp cho phụ nữ có những kiến thức khoa học tiến bộ nhờ tiếp cận với giáo dục thường xuyên hoặc từ xa. Mặt khác phải mở rộng giáo dục phụ nữ cho tất cả phụ nữ trong suốt cuộc đời. Bởi lẽ nhiều phụ nữ do nhiều nguyên nhân khác nhau đã bị loại khỏi nền giáo dục đáng ra họ cần được thụ hưởng trong giai đoạn còn lại của cuộc đời. Đặc biệt những tiến bộ của khoa học giáo dục người lớn hết sức cần thiết cho sự nghiệp giải phóng phụ nữ. Điều này không chỉ tạo ra sự cải thiện điều kiện sống, nâng cao chất lượng sống cho phụ nữ mà còn có những hiệu quả thiết thực về nhận thức và hiệu quả thu nhập cho bản thân phụ nữ và cả gia đình họ, thậm chí cả một cộng đồng. Bên cạnh đó giáo dục cho người lớn còn góp phần khôi phục phẩm giá của người phụ nữ.
Chính vì vậy cần việc đảm bảo giáo dục suốt đời có tác dụng quan trọng trong quá trình bình đẳng giới. Giáo dục đã đem lại hiểu biết và kiến thức về xã hội và tự nhiên giúp người phụ nữ có thể tự chủ về kinh tế, lựa chọn tự do cách thức sống, ý thức được tự do và trách nhiệm trong việc sinh sản cũng như lựa chọn cho tương lai, trực tiếp để họ sống tốt hơn và ứng xử tốt hơn với nhau đặc biệt là giữa hai giới vốn đã bất bình đẳng.
b. Về nội dung giáo dục 
Trước khi có được những nội dung giáo dục thích hợp cho phụ nữ, cũng cần nhắc tới bốn cột trụ của giáo dục đó là: học để biết, học để làm, học để tồn tại và học để cùng chung sống. Chỉ cần vận dụng tốt bốn trụ cột này, cho mọi nội dung giáo dục trong cả quá trình giáo dục đều có thể đạt chất lượng khả quan, tất nhiên cũng tốt cho công tác giáo dục phụ nữ nhằm nâng cao địa vị và cơ hội phát triển của họ.
Cần tạo điều kiện thuận lợi cho phụ nữ trong đó có các em gái được tiếp cận những kiến thức cơ bản, đặc biệt là giáo dục công dân và giáo dục khoa học kĩ thuật để họ có thể ngang hàng với nam giới trong vấn đề hiện đại hóa và việc thể hiện khả năng và trách nhiệm.
Giáo dục công dân cần thiết đối với mọi người dân, đặc biệt càng cần thiết đối với phụ nữ vốn lâu nay bị vị thế xã hội thấp mà nhiều quyền lợi cũng chưa được pháp luật công nhận. Điều này không chỉ đem lại những hiểu biết về quyền con người đối với người phụ nữ để họ thay đổi từ tư duy đến nhận thức và lựa chọn quyết định hành động trong quá trình ứng xử với xã hội và tự nhiên. Từ những hiểu biết về quyền con người, người phụ nữ chẳng những tin tưởng ở tiềm năng của mình, tiến tới đòi hỏi những quyền sống chính đáng cho mình và cho mọi người, đấu tranh với hủ tục, những áp bức bất công đối với phụ nữ nhằm cải thiện điều kiện sống và sự công bằng đối với phụ nữ.
Một nội dung giáo dục đối với phụ nữ có hiệu quả là “giáo dục và tìm hiểu về pháp luật” để phụ nữ có ý thức về quyền thực sự của mình và những điều luật bảo vệ họ. Điều này không chỉ tăng thêm niềm tin đối với cuộc sống mà trực tiếp phát huy sức mạnh của phụ nữ trong xã hội.
Một nội dung giáo dục quan trọng nữa nhằm thay thế thói bạo lực đối với phụ nữ bằng văn hóa hòa bình. Thực tế trong cuộc sống ngàn năm nay của nhân loại, phụ nữ thường cố gắng bảo tồn những gì còn lại của cấu trúc xã hội và gia đình mình, còn nam giới thích bạo lực và giết chóc. Vì vậy UNESCO thông qua các chương trình giáo dục nhằm tăng cường vai trò vị trí người phụ nữ bằng cách giáo dục những giá trị văn hóa đề cao lòng bao dung, đoàn kết và tình thương đối với mọi người trong cộng đồng; đem lại sự bình đẳng cho phụ nữ, chống lại mọi bạo hành và lạm dụng của nam giới đối với phụ nữ và các em gái.
Một yếu tố rất quan trọng đối với nội dung giáo dục và quá trình giáo dục là vai trò to lớn của phụ nữ trong công tác giáo dục. Có thể nói phụ nữ là nhà giáo dục đầu tiên và nhiều phụ nữ tham gia và giữ vai trò quan trọng trong hệ thống giáo dục quốc dân. Vì vậy họ cần được tham gia trực tiếp vào mọi sự cải tổ của hệ thống giáo dục cũng như chương trình và nội dung giáo dục, để có thể phát huy cao độ nguồn nhân lực to lớn và lâu dài của một quốc gia.
c. Về chính sách xã hội như một hệ quả của giáo dục
Để có được bình đẳng giới, tạo điều kiện để nâng cao vị thế và cơ hội của phụ nữ không chỉ là những hình thức giáo dục và nội dung giáo dục trực tiếp mà điều này cần thấm sâu vào nhận thức của mọi người thông qua giáo dục và được thể chế hóa thành các chế độ chính sách xã hội.    
Theo UNESCO thành công trong lĩnh vực giáo dục của một số nước chính là sự điều chỉnh ngân sách nhà nước ưu tiên cho giáo dục. Điều này không chỉ làm tăng tổng sản phẩm quốc dân mà còn làm giảm mức độ gia tăng dân số, nâng cao trình độ dân trí.
Một thực tế là phụ nữ luôn phải đương đầu với mọi thách thức của xã hội, nếu không có sự can thiệp của chính quyền chắc chắn sự tiến bộ của phụ nữ khó có thể thực hiện được. Ngoài những quan niệm lạc hậu, kì thị phụ nữ vốn có từ ngàn đời là những cơ chế của thị trường, sức ép trong lĩnh vực tư nhân và bất cập trong lĩnh vực công, chưa kể đói nghèo bệnh tật luôn đeo đẳng… đã là cái “vòng kim cô” làm cho phụ nữ khó vượt qua được nếu như không có cải cách cơ cấu cùng những biện pháp hỗ trợ tích cực của chính quyền nhằm đảm bảo cho sự bình đẳng về giới.
Làm cho phụ nữ có thể tiếp cận bình đẳng về y tế và dinh dưỡng, về các dịch vụ sức khỏe sinh sản, về giáo dục và đào tạo nghề; tiếp cận bình đẳng về chế độ tài chính tiến tới bình đẳng về kinh tế.
Đảm bảo phụ nữ được bình đẳng về quyền công dân và dân sự, cụ thể là quyền sở hữu và thừa kế tài sản.
Tăng cường khuyến khích phụ nữ cũng như nam giới trong khả năng tự do lựa chọn về lao động, đặc biệt cần có chương trình ưu tiên thực hiện phổ cập giáo dục suốt đời cho phụ nữ, đồng thời bảo đảm sức khỏe cho phụ nữ nhất là thời kì thai sản. Bên cạnh đó là tạo điều kiện cho vay tín dụng để phát triển kinh tế đó là những chính sách có tính tổng hợp có thể tăng cường quyền lợi và cơ hội đối với sự nghiệp giải phóng phụ nữ.
Tóm lại, để kết thúc bài viết chúng tôi xin trích ý kiến của Giắc Lang (Jack Lang) cựu Bộ trưởng Văn hóa và Giáo dục Quốc gia Pháp, một trong những cố vấn của Tổng Thư ký Liên Hiệp Quốc trong việc chuẩn bị cho Hội nghị Cấp cao Bắc Kinh, đã nhấn mạnh: “đã đến lúc cần phải trao cho phụ nữ của hành tinh này vị trí xứng đáng của họ. Cần phải chấp nhận điều hiển nhiên: thông qua việc giải phóng bản thân, phụ nữ sẽ giải phóng thế giới. Phụ nữ không phải là một câu hỏi, có lẽ trước hết phụ nữ chính là câu trả lời; câu trả lời cho các vấn đề chậm phát triển và tăng dân số, câu trả lời cho các vấn đề duy trì hòa bình, câu trả lời cho vấn đề quyền lực và dân chủ.”
Ghi chú: những con số được trích dẫn trong bài viết dựa theo nguồn của UNECSO Việt Nam năm 1999 trong tài liệu Một thế giới mới của Phêđêricô Mayo.
TƯ LIỆU THAM KHẢO CHÍNH
1. Trần Lê Bảo (chủ biên) Văn hóa sinh thái nhân văn. Nxb ĐHSP 2005
2. Trần Lê Bảo. Khu vực học và nhập môn Việt Nam học. NxbGD 2008
3. Nhiều tác giả. Lịch sử văn hóa Trung Quốc (Ba trăm đề mục) Nxb Cổ tịch Thượng Hải – Nxb VHTTHN 1999
4. Phêđêricô Mayo. Một thế giới mới. UBQG UNESCO Việt Nam 1999
5. Toàn cầu hóa văn hóa. Tư liệu chuyên đề. Học viện Chính trị Quốc gia HCM 2000
6. Tuyên bố ASEM về Đối thoại giữa các nền văn hóa và văn minh (Hội nghị Á - Âu lần thứ V) 2004


tin tức liên quan

Thống kê truy cập

114513377

Hôm nay

2163

Hôm qua

2315

Tuần này

21314

Tháng này

220250

Tháng qua

121356

Tất cả

114513377