Cuộc sống quanh ta

Thời thế tạo anh hùng - Anh hùng tạo thời thế (Phỏng vấn luật sư Phan Anh)(*)

P.V: Dịp này tỉnh Nghệ Tĩnh tổ chức cuộc Hội thảo về Chủ tịch Hồ Chí Minh nhân dịp chuẩn bị lễ kỉ niệm 100 năm ngày sinh của Bác Hồ, đồng chí có suy nghĩ gì về vấn đề này?

P.A: Đây là một sự kiện quan trọng không những đối với nhân dân Nghệ Tĩnh ta, mà còn quan trọng đối với cả dân tộc ta và hơn nữa cả với thời đại ta được đánh dấu bằng một phong trào giải phóng dân tộc sâu rộng trên toàn thế giới đã góp phần vào sự đổi mới cuộc sống của cả nhân loại.
P.V: Chủ đề cuộc Hội thảo "Bác Hồ với quê hương Nghệ Tĩnh - Nghệ Tĩnh với Bác Hồ", theo ý đồng chí gợi ra những vấn đề gì?
P.A: Tôi thấy đầu đề có một ý nghĩa vừa rộng vừa sâu. Rộng là vì nó không chỉ đóng khung trong phạm vi Nghệ Tĩnh mà còn bao trùm phạm vi toàn quốc, toàn cầu. Sâu là vì nó đặt ra hai vấn đề lớn mà lịch sử Việt Nam đã giải quyết và đang tiếp tục giải quyết, đó là vấn đề truyến thống dân tộc và vấn đề ánh sáng của thời đại. Theo thiển ý tôi thì Chủ tịch Hồ Chí Minh là hiện thân của sự kết hợp đó. Ta có câu "Thời thế tạo anh hùng - Anh hùng tạo thời thế", vận dụng câu đó vào Bác Hồ thì có thể nói rằng: dân tộc Việt Nam và thời đại mới đã tạo ra Bác và Bác phát huy truyền thống của dân tộc và ánh sáng của thời đại đó để tiến hành cách mạng Việt Nam và góp phần đẩy mạnh cách mạng thế giới. Đây là kết quả cụ thể của quy luật duy vật biện chứng và quy luật duy vật lịch sử.
P.V: Về truyền thống dân tộc, đồng chí đã được nhiều năm gần gũi Bác, đồng chí có thể kể lại vài ví dụ cụ thể nói lên bản chất tinh hoa của dân tộc mà Bác đã thể hiện trong cuộc sống hàng ngày.
P.A: Trong hành động cách mạng thì cán bộ ta, nhân dân ta đều đã thấm thía đường lối của Bác tóm tắt trong câu nói khi Bác kêu gọi toàn dân đứng dậy chống thực dân: Thà chết chứ không chịu làm nô lệ. Đó là truyền thống của mấy nghìn năm lịch sử chống ngoại xâm được thể hiện cụ thể trong tỉnh Nghệ Tĩnh ta với phong trào Cần Vương của Phan Đình Phùng, phong trào Đông Du của Phan Bội Châu, phong trào Văn thân… Tư tưởng bất khuất và ý chí độc lập tự do hun đúc ở đất Hồng Lam được phong trào yêu nước của toàn dân ta từ Bắc chí Nam hòa nhịp đã tạo ra người giáo viên yêu nước Nguyễn Tất Thành, người chiến sĩ cách mạng Nguyễn ái Quốc đi tìm ánh sáng của thời đại để cứu dân, cứu nước. Đó là đường lối chung của Bác trong thời kỳ trước Cách mạng Tháng Tám. Hoạt động của Bác khi đã thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hòa lại càng đậm bản sắc dân tộc. Trong những việc khó khăn như giải quyết tình hình quan hệ với quân Tưởng, quân Pháp, những ngày đầu của cách mạng, Bác kiên trì bảo vệ độc lập dân tộc, lấy đó làm cái vũ khí, cái cẩm nang "Dĩ bất biến, ứng vạn biến". Bảo vệ cái bất biến đó vững như sắt đá, nhưng Bác vận dụng mọi biện pháp lại uyển chuyển và linh hoạt. Tôi còn ghi một cách sâu sắc hai sự việc: một là đối với quân Tưởng, Bác mềm mại để đẩy nó đi, khi tôi cùng đi với Bác lên Phủ toàn quyền lúc bấy giờ là nơi Lư Hán đóng để tiễn quân chân Tàu về nước. Cái hành động nghi lễ đó là nối lại truyền thống của quân dân ta. Đã thắng địch, nhưng cấp lương thực và xe ngựa, rải thảm đỏ cho địch rút. Việc thứ hai trong thời gian đó là việc Bác quyết tâm đi Pháp dự Hội nghị Fontainebleau. Cuộc hành trình này gặp rất nhiều trắc trở. Trước hôm đi, trưởng đoàn dự định của ta là Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Nguyễn Tường Tam viết một mảnh giấy báo tin cho Bác là ông ta không đi nữa. Hành động đó nhằm phá quan hệ giữa ta và Pháp. Bác đưa tôi xem những dòng chữ bất ngờ và trầm ngâm, Người nói: "Ta cứ đi". Bác hành động như vậy là vì Bác tin vào chính nghĩa, vào nhân dân ta: yêu tự do, độc lập, thà chết chứ không chịu làm nô lệ, với bất cứ kẻ nào. Cũng có người lúc đó cho rằng: cuộc hành trình của Bác sang Pháp là mạo hiểm, nhưng lịch sử đã chứng minh phương châm "Dĩ bất biến, ứng vạn biến" của Bác, lấy chính nghĩa độc lập dân tộc của Việt Nam thuyết phục nhân dân Pháp và thế giới, vào tận hang hổ để bắt hổ là một biện pháp có hiệu quả lớn đối với cả quá trình chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ sau này.
Về tác phong sinh hoạt thì tôi thấm nhuần sâu sắc bản chất dân tộc của con người Nghệ Tĩnh, ở con người Việt Nam đó đã trải qua cuộc sống bốn bể năm châu nhưng không mất gốc. Gốc ở Bác mà tôi đã được cảm thông một cách rất tự nhiên thể hiện thường xuyên khi được sống gần Bác, đó là tính cần kiệm liêm chính, chí công vô tư, thực s cầu thị. Đó cũng là bản chất của người đất Nghệ Tĩnh, của người Việt Nam nói chung: đó là tình thương yêu đồng bào, đồng cam cộng khổ, lá lành đùm lá rách, thể hiện trong câu nói của Bác, trong cảnh gian khổ kháng chiến của nhân dân ta "không sợ ít chỉ sợ không công bằng, không sợ nghèo chỉ sợ lòng dân không yên". Câu này là một câu trong sách Nho.
P.V: Theo đồng chí, thái độ của Bác đối với Nho giáo như thế nào?
P.A: Bác hấp thụ tinh hoa của Đông Tây kim cổ. Những tinh hoa đó nằm trong nhiều thời đại, nhiều con người. Tôi nghĩ: đó là những vốn chung của loài người, không nên có thái độ thiển cận mà bỏ qua những vốn quý. Trong Nho giáo không chỉ có Khổng giáo, mà còn có tinh hoa của dân tộc Việt Nam, đã biến những giá trị phổ biến của phương Đông thành vốn quý của dân tộc mình. Những vốn tinh hoa của dân tộc mình nằm trong luồng tư tưởng văn hóa như Nho giáo, Phật giáo… Nhân loại có nhiều đạo giáo nhưng quy tụ lại thì cái gốc của mọi đạo giáo là đạo làm người.
Xuất phát từ cái gốc đó mà tôi hiểu tư tưởng của Bác Hồ, lấy chữ Nhân làm gốc, lấy chữ Trung,chữ Hiếu mà ông cha ta truyền lại để phát huy những tư tưởng mới "trung với nước, hiếu với dân", lấy những câu trong sách cũ để diễn đạt những nội dung mới, như "không sợ ít mà sợ không công bằng, không sợ nghèo mà sợ không yên", chữ Hán nôm trong sách Nho là "Bất hoạn quả nhi hoạn bất quân, bất hoạn bần nhi hoạn bất yên". Cho nên: "Quân bất bần, hòa bất quả, yên bất khuynh". Nghĩa là: Không lo ít mà lo không công bằng, không lo nghèo mà lo không yên. Cho nên: Công bằng thì không nghèo, hòa hợp với nhau thì không bị cô lập, yên thì không có lật đổ; hoặc như câu "Chớ thi hành với mọi người cái bản thân mình không muốn" (Kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân) mà Bác đã vận dụng trong bài diễn văn trước Thủ tướng Pháp năm 1946 ở Paris (dịp Hội nghị Fontainebleau) để lên án người Pháp muốn chiếm lại Đông Dương mà chính những người Pháp đó lại vừa thoát họa Đức chiếm đóng. Kể chuyện Hán nôm, ý người ta thường nêu hình ảnh thầy đồ Nghệ. Bác có một thời gian làm nghề dạy học, như vậy Bác cũng là một thầy đồ Nghệ. Gia đình, xóm làng Nghệ Tĩnh đã sinh ra nhiều thầy đồ Nghệ. Tôi rất vui khi nghe người ta bình luận về đặc tính của thầy đồ Nghệ. Đồ Nghệ đây là con người có gốc nông dân, nhưng được một nền văn hóa cổ truyền đưa lên một đỉnh cao văn hóa, đỉnh cao của tinh thần tự hào dân tộc. Cái đỉnh cao đó về văn hóa không phải đo bằng chữ nghĩa, văn bằng, mà bằng lối sống, bằng nếp nghĩ và cách làm có kỷ luật, có đạo lý, có kỷ cương, trong gia đình, trong xóm làng, và cả đối với toàn xã hội, từ anh học trò đến anh cày ruộng, từ người thanh niên hoạt động xã hội đến người phụ nữ tần tảo đảm đang công việc gia đình. Tôi còn nhớ những người như mẹ, như chị tôi không được đi học, nhưng lại có nhận thức và cách cư xử, cách làm ăn, thậm chí cả trong cách nghỉ ngơi với lời ca, giọng hát, nói chung là cách đối nhân xử thế rất chu chí và hòa hợp với lòng người. Trình độ văn hóa đó được rèn luyện không phải trong sách vở, mà qua cuộc sống có truyền thống của cha ông từ đời này sang đời khác.
P.V: Đồng chí vừa nhắc đến gốc nông dân trong Bác, đề nghị đồng chí cho vài ví dụ về thái độ của Bác đối với nông dân.
P.A: Tôi còn nhớ một hôm đi công tác với Bác ở một làng miền núi, trời nóng bức quá, đi được một quãng rừng thì gặp cái ao nước rất trong. Hai Bác cháu rủ nhau xuống tắm, vừa khỏa chân xuống nước, tôi kêu lên: "Nhiều đỉa quá!". Bác cười nói: "Chú sinh ra ở nông thôn mà sợ đỉa à?" sau đó hai Bác cháu lội xuống ao bình tĩnh tắm thoải mái. Lên bờ ngồi dưới bóng cây, Bác nói lại câu chuyện đỉa. Bác nhắc lại hình tượng "đỉa", chuyện đỉa với cuộc kháng chiến của ta chống thực dân đế quốc. Bọn thực dân đế quốc cũng là một loại đỉa nguy hiểm hơn, đỉa này nó có hai vòi, một vòi hút máu nhân dân ta và một vòi hút máu nhân dân lao động ở ngay nước họ, vòi hút máu nhân dân thuộc địa như nhân dân ta chủ yếu nhằm vào tầng lớp nông dân. Cho nên phải dựa vào sự đấu tranh của nông dân và phải kết hợp được cuộc đấu tranh của lực lượng tiến bộ ở Pháp chống chế độ thực dân mới giành được thắng lợi.
Không những Bác tin vào nông dân về quyết tâm chống thực dân mà Bác còn tin vào nông dân cả về các mặt suy nghĩ và hành động thiết thực. Một hôm, sau cuộc họp bàn về kinh nghiệm đấu tranh của nhân dân Liên Xô, đặc biệt trong cuộc chiến tranh chống phát xít, tôi tranh thủ đề nghị Bác nói về học thuyết Mác - Lênin. Bác cười và trả lời: Học thuyết mà chú muốn học không cần đi tìm đâu xa, chú có thể học ngay ở ông cụ chủ nhà nơi chú trú ngụ. Ông ấy là một lão nông yêu nước đã có công với cách mạng và nay những người như ông ấy là cơ sở kháng chiến của ta.
Về đường lối kháng chiến, Bác luôn luôn nhắc cán bộ tầm quan trọng của lực lượng nông dân, trong mọi lĩnh vực kinh tế, chính trị, quân sự. Bác luôn luôn nhắc cán bộ làm kinh tế lúc đó như Bác đã nhắc tôi phải chú ý đến nhu cầu của nông dân, khai thác những luồng lâm thổ sản đổi lấy những nhu yếu phẩm cho nông dân bằng công tác xuất nhập khẩu. Tôi nhớ một hôm bàn về nhu cầu vải, có anh em chủ trương không nhập khẩu vải đen, vì khó khăn thị trường mua, Bác đã cho ý kiến: "Các chú phải nhớ rằng: vải đen là một nhu yếu phẩm của các bà, các chị nông dân". Chúng tôi có thêm một bài học về quan điểm quần chúng của Bác. Trong cuộc kháng chiến chống Pháp, một yếu tố có tác dụng quyết định là công tác hậu cần, tiếp tế lương thực, vấn đề thu thuế nông nghiệp đã giải quyết khó khăn đó. Nhưng, Bác luôn luôn nhắc nhở cán bộ kinh tế phải làm công tác chính trị đến nơi đến chốn, khai thác, cổ vũ tinh thần yêu nước của nông dân, mà không máy móc thi hành biện pháp hành chính. Tôi nghĩ cũng trên dòng tư tưởng đó mà trong Di chúc của Bác có ghi lời dặn chú ý thực hiện miễn giảm thuế nông nghiệp cho nông dân. Về lĩnh vực văn hóa chính trị, chúng ta ai mà không thấy phong trào xóa nạn mù chữ đã đem lại niềm vui nô nức cho bà con trong xóm làng như thế nào.
P.V: Đối với các tầng lớp nhân dân khác, đặc biệt đối với giới trí thức, đồng chí có những kỷ niệm gì đặc biệt?
P.A: Tôi được gặp Chủ tịch Hồ Chí Minh đầu tiên ở Hà Nội. Trong cuộc gặp đó, tôi nhớ lời Bác nói: tin vào trí thức và động viên khuyến khích trí thức tham gia cách mạng bằng mọi cách có thể được. Bác giao cho tôi làm chủ tịch và đồng chí Bùi Công Trừng, một con người cộng sản có tiếng tăm làm Tổng thư ký Hội đồng Kiến thiết quốc gia. Tổ chức này nhằm mục đích chính trị thực hiện đường lối đoàn kết của Bác Hồ, một đường lối đã mang lại thành công trong cả quá trình cách mạng chống ngoại xâm. Đến ngày Toàn quốc kháng chiến, mọi người trong tổ chức này, không ai bảo ai, đều tìm đường lên chiến khu Việt Bắc và từ đó trở thành nòng cốt của Bộ Kinh tế trong Chính phủ kháng chiến. Trong Chính phủ mà Bác làm chủ tịch, số trí thức chiếm một tỷ lệ khá cao, có những trí thức đã theo cách mạng ngay từ buổi đầu (trước khi Cách mạng Tháng Tám thành công) như các anh Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp… có những trí thức theo cách mạng (sau Cách mạng Tháng Tám) như các anh Tạ Quang Bửu, Trần Duy Hưng, Nguyễn Văn Huyên, Trần Đăng Khoa, Vũ Đình Hòe, Hoàng Minh Giám, Nghiêm Xuân Yêm, Hoàng Tích Trí, Vũ Đình Tụng… Đồng thời, Bác đặc biệt chú ý cổ vũ giới khoa học kỹ thuật. Ví dụ: kỳ họp Chính phủ nhân dịp Quốc khánh năm 1953, Bác đã đích thân trao Huân chương kháng chiến cho bác sĩ Tôn Thất Tùng, bác sĩ Trần Hu Tước, kỹ sư Trần Đại Nghĩa là những ví dụ về sự quan tâm trực tiếp của Bác, từ khi các anh theo Bác về trong dịp Hội nghị Fontainebleau.
Riêng đối với cá nhân tôi, thì cũng có rất nhiều kỷ niệm. Đặc biệt là buổi đầu kháng chiến, Bác đã cổ vũ tôi bằng nhiều bài thơ vào những lúc tưởng như rất khó khăn đối với tôi như ngày đầu vào chiến khu và lúc địch tấn công lên Việt Bắc. Những bài thơ ấy tôi đã có nhiều dịp nhắc tới.
Tấm lòng của Bác đối với tôi, đối với mỗi cán bộ, đối với mọi tầng lớp nhân dân là tấm lòng vì con người, tin vào con người và cái tốt của con người và luôn luôn tìm mọi cách phát huy cái tốt đó để thực hiện những mục đích cụ thể trong từng giai đoạn lịch sử như chiến tranh giải phóng đất nước.
Chính tấm lòng đó, niềm tin vào con người yêu nước, vào dân tộc Việt Nam bất khuất trước mọi kẻ ngoại xâm mà Bác đã xây dựng và vun đắp khối đại đoàn kết dân tộc, thành lập Mặt trận đoàn kết dân tộc ngay sau khi thành lập Đảng, ngày 18 - 11 - 1930. Năm nay ta kỷ niệm 100 năm ngày sinh của Bác, cũng kỷ niệm 60 năm ngày thành Đảng và Mặt trận Dân tộc thống nhất. Một vốn quý mà Bác để lại cho chúng ta cần đề cao trong dịp kỷ niệm này, đó là tinh thần đoàn kết dân tộc.
P.V: Người ta thường vui thích kể rằng: Bác hay yêu cầu đồng chí góp vui sau mỗi cuộc họp, góp phần phát huy niềm phấn khởi đã được nảy nở trong các cuộc họp, bằng cách "lẩy Kiều", đề nghị đồng chí cho vài ý kiến về vấn đề này.
P.A: Bác thích lẩy Kiều và dân ca cũng như nhiều người dân Nghệ Tĩnh thích Kiều lẩy, có lẽ vì văn Kiều là một lối văn đáp ứng tình cảm của con người trong mọi ngóc ngách của cuộc sống, riêng cũng như chung. Nó vừa có tính chất dân gian, vừa có tầm vóc nghệ thuật diễn tả tâm lý và cả triết lý. Nhân dân Nghệ Tĩnh nói riêng và nhân dân Việt Nam nói chung lấy những câu Kiều hoặc những câu ca dao để thể hiện tâm sự của mình. Đặc biệt những người sống ở nước ngoài nhớ dân, nhớ nước, nhớ quê hương thường lấy những vần thơ Kiều để ngâm ngợi cho khuây nỗi nhớ mà tôi đã có thời sống trong tâm tư đó. Bác đã sử dụng lối văn "lẩy Kiều" để tăng thêm thú vui vào những lúc nghỉ ngơi. Sống gần Bác, tôi đã được Bác nhiều lần khuyến khích dùng thơ Kiều và ca dao để góp vui trong các cuộc họp, ví dụ ngay lễ sinh nhật Bác đầu tiên ở Hà Nội, ngày 19 - 5 - 1946. ở Bắc Bộ phủ, tôi đã lẩy Kiều tặng Bác:
"Từ phen đá biết tuổi vàng
Mỗi dây mỗi buộc ai giằng cho ra
Sao cho muôn dặm một nhà
Tương tri nhường ấy mới là tương tri."
Mấy câu này không chỉ nói lên tâm tư riêng tôi mà cả những người dự cuộc họp và có thể cũng là của toàn dân Nam - Bắc. Cái lo lắng lúc đó là vấn đề thống nhất Nam - Bắc đương bị bọn thực dân hung hăng đe dọa…
Vào một dịp khác, năm 1953, khi hội nghị hành chính bàn về thuế nông nghiệp kết thúc, Bác yêu cầu các đại biểu ngâm thơ. Tôi đã "lẩy ca dao" với hai câu kết là:
"Diệt thù giải phóng quê ta
ấy là nghĩa nặng, ấy là tình sâu."
Bác đứng dậy, đọc tiếp luôn:
"Đành lòng chờ đợi ít lâu
Chầy ra, là một năm sau vội gì."
Rồi Bác lấy cái áo đang vắt ở lưng ghế và ra về, đọc tiếp:
"Nói rồi, xách áo ra đi."
Câu lẩy Kiều đó của Bác như một lời tiên đoán, vì đúng một năm sau, năm 1954 thì có chiến thắng Điện Biên Phủ giải phóng nửa đất nước. Tất nhiên, theo Bác là những tràng pháo tay, những tiếng reo cười càng rộ lên tiễn Bác ra về.
P.V: Đồng chí đã nói Bác là hiện thân của tinh hoa dân tộc đồng thời của văn minh thời đại. Đồng chí có thể nêu một vài sự việc cụ thể về tính thời đại của Bác không?
P.A: Tính thời đại ở Bác được tôi luyện biết bao năm ở hải ngoại, trên khắp năm châu, đặc biệt ở Pháp, ở Liên Xô, ở Trung Quốc và ngay ở nhiều nước trong Đông Nam á đã thể hiện trong suốt quá trình Bác chuẩn bị thành lập Đảng, lãnh đạo Đảng hoạt động đi vào lòng dân tộc, đưa cách mạng đến thành công. Tôi nghĩ rằng: đây là kết quả của cả một cuộc đời thanh niên của người thanh niên Nguyễn ái Quốc đã xuất phát từ lòng yêu nước đi tìm con đường giải phóng và đã thấy được con đường đó ở chủ nghĩa Mác - Lênin, nguồn ánh sáng của thời đại mới. Chủ nghĩa Mác - Lênin để lại cho ta một vũ khí sắc bén để đấu tranh, chứ không phải một bộ kinh điển để sao chép một cách giáo điều. Cho nên, tính dân tộc đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh phát triển dưới ánh sáng của thời đại mới để thực hiện sự nghiệp giải phóng dân tộc. Yêu nước với yêu Chủ nghĩa xã hội không thể tách rời nhau, giải phóng dân tộc là cơ sở của sự nghiệp giải phóng con người. Đi từ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân mà chúng ta đã thành công đến Chủ nghĩa xã hội, con đường đi còn phải tìm tòi. Nhưng, cái cẩm nang mầu nhiệm đã đưa Bác đến thành công, tôi thiết nghĩ đó là lấy đường lối cách mạng độc lập tự do hạnh phúc làm mục đích, và lấy phương pháp khoa học duy vật biện chứng và duy vật lịch sử làm phương tiện để thực hiện. Đó là cái "bất biến" để ứng với "vạn biến".
P.V: Trong cuộc đổi mới của chúng ta hiện nay, đồng chí có ý kiến gì về phương hướng vận dụng đường lối của Bác?
P.A: Câu hỏi của đồng chí rất thú vị. Câu hỏi đó cần phải đặt ra trong mọi lĩnh vực đổi mới của chúng ta. Xác định mục đích, biện pháp là đi từ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân tiến lên Chủ nghĩa xã hội.
Về mục đích như tôi đã nói ở trên không ngoài ba nguyện vọng Độc lập - Tự do - Hạnh phúc mà Bác đã đặt làm tiêu đề cho chế độ của chúng ta. Độc lập dân tộc đã thành công là cơ sở để xây dựng tự do, hạnh phúc. Độc lập cần được củng cố để giữ chủ quyền của nhân dân ta, đồng thời có khả năng đóng góp vào cách mạng thế giới, nhằm thực hiện một nền hòa bình vững chắc. Quyền tự do dân chủ của nhân dân là một vấn đề cấp thiết phải xây dựng. Nó là một trụ cột của độc lập dân tộc. Có tự do dân chủ mới giải phóng được con người, xây dựng xã hội công bằng, đạt được tiến bộ xã hội, tạo hạnh phúc cho toàn dân.
Về bước đi, phải luôn luôn bám sát thực tế khách quan, không nôn nóng, không bảo thủ trì trệ, vận dụng phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử.
Nói tóm lại, Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VI đã xác định tư tưởng và đường lối đổi mới "Lấy dân làm gốc", tôn trọng quy luật khách quan và gắn dân tộc với thời đại.
P.V: Để thực hiện đường lối đó một cách cụ thể, vấn đề gì cần được đặt vào hàng ưu tiên?
P.A: Tôi nghĩ, Nghị quyết VI đã có nêu vấn đề này, đó là vấn đề tổ chức và cán bộ. Nhân đây tôi muốn nói cụ thể hơn về suy nghĩ của tôi trong vấn đề này.
Về cán bộ thì chúng ta còn nhớ câu nói của Bác Hồ: "Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội thì phải có con người xã hội chủ nghĩa". Chúng ta trong mười mấy năm qua sau khi nước nhà thống nhất chưa làm được gì nhiều trong vấn đề xây dựng con người. Còn trong thời kỳ kháng chiến, phải khẳng định rằng: chúng ta đã xây dựng được con người yêu nước và có thể nói toàn dân ta đã hấp thu được chủ nghĩa yêu nước. Do đó có những anh bộ đội Cụ Hồ, những cháu ngoan Bác Hồ và đã từng có câu "Ra ngõ là gặp anh hùng"; còn ngày nay vấn đề xây dựng con người XHCN rõ ràng còn phải đặt ra để giải quyết hiện tại mai sau.
Xây dựng con người cần song song thực hiện hai biện pháp: biện pháp giáo dục và biện pháp tổ chức; giáo dục là tự giác và tổ chức là bắt buộc. Về giáo dục không gì hơn giáo dục đường lối và rất coi trọng pháp luật. Coi pháp luật là một sức mạnh cần thiết để xây dựng cuộc sống xã hội giữa cá nhân này với cá nhân nọ, tổ chức này với tổ chức khác, giữa các nước với nhau. Khi các cường quốc ký kết Hiệp ước Versaille chấm dứt cuộc Chiến tranh thế giới thứ nhất, Bác đã kiến nghị những điều khoản trả lại tự do cho các dân tộc thuộc địa và Bác đã làm một bài thơ để phổ biến yêu cầu đó. Trong bài thơ có câu: "Trăm điều phải có thần linh pháp quyền".
Một quyển sách nổi tiếng mà Bác đã viết hồi đó để chống chủ nghĩa thực dân được đặt tên là "Bản án" đó là Bản án chế độ thực dân Pháp. Trong đó yêu cầu về pháp luật được đặt rất cao.
Đối với sự nghiệp xây dựng nền dân chủ mới, Bác cũng đã sử dụng kịp thời biện pháp pháp lý: tổ chức tổng tuyển cử bầu ra Quốc hội đầu tiên của dân tộc ta, lập ra Chính phủ liên hiệp và thảo ngay ra Hiến pháp năm 1946. Trong thời kỳ chiến tranh, hoạt động chủ yếu của Chính phủ, của nhân dân là nhằm vào kháng chiến, nhưng công tác pháp luật rất được chú ý và nhiều văn kiện pháp luật đó có tính chất pháp lý rất rộng rãi và rất phù hợp với tình hình kháng chiến và sắc lệnh tuyên bố giữ nguyên những luật cũ nếu chưa có luật mới để thay vào.
Chế độ pháp luật là chế độ có hiệu nghiệm trong việc thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ. Muốn có dân chủ phải có lãnh đạo. Muốn lãnh đạo đúng phải phát huy dân chủ. Pháp luật bảo đảm quyền dân chủ của toàn dân, tránh độc quyền và độc đoán. Pháp luật bảo đảm cho mọi người được bình đẳng: người dân hay người có chức hay có quyền đều phải tuân theo pháp luật, bình đẳng với nhau trước pháp luật. Cho nên, muốn có dân chủ phải có pháp luật. Mặt khác, muốn có tập trung một cách có hiệu quả cũng cần phải có pháp luật, định rõ quyền hạn và nghĩa vụ từ trên xuống dưới của các cấp, các ngành để cho guồng máy xã hội hoạt động một cách hài hòa.
Nguyên tắc trọng pháp luật ở trong câu thơ của Bác "Trăm điều phải có thần linh pháp quyền" hiện nay đang được vận dụng trong cuộc đấu tranh đổi mới ở các nước lại càng cần được vận dụng ở nước ta để bảo đảm tập trung dân chủ.
Trong dân chủ, Bác luôn luôn chống tệ quan liêu. Việc kiểm tra ở các cấp, các ngành được tiến hành có hiệu quả, nhưng Bác vẫn rất lo lắng và nhắc nhở cán bộ tác hại to lớn của bệnh quan liêu. Bác nói quan liêu đẻ ra lãng phí và tham ô. Cho nên phải chống quan liêu ngay từ những cấp cao nhất. Trong cuộc họp Hội đồng Chính phủ nhân ngày Quốc khánh 1953, Bác đã tặng mỗi thành viên Hội đồng Chính phủ một chiếc bút máy có khắc dòng chữ "Chống quan liêu, 2 - 9 - 1953".
Hiện nay trong công cuộc đổi mới của ta, chống quan liêu, phát huy dân chủ thì càng nhớ gương Bác Hồ, noi gương Bác…
 



(*)Bài đăng trong K yếu "Hi tho 100 năm ngày sinh Ch tch H Chí Minh" ca Tnh y Ngh Tĩnh tháng 5-1989, vi chđề"Bác H vi Ngh Tĩnh - Ngh Tĩnh vi Bác H".

tin tức liên quan

Thống kê truy cập

114513660

Hôm nay

2133

Hôm qua

2313

Tuần này

21597

Tháng này

220533

Tháng qua

121356

Tất cả

114513660