Cuộc sống quanh ta

Văn cúng của Phạm Phú Thứ

Văn cúng là một thể tài tương đối đặc biệt. Văn cúng thường được viết nhằm “gửi” đến đối tượng siêu nhiên mong phát truyền một ý nguyện nào đó. Do vậy, văn cúng có ý nghĩa và giá trị về mặt văn hóa tâm linh. Song, văn cúng luôn bị hóa vàng khi thực hiện xong việc cúng tế. Thêm nữa, văn tế chỉ do một bộ phận nhỏ viết ra, “truyền dạy” trong một phạm vi hẹp. Cho nên, hiện nay văn bản văn cúng còn lưu lại không nhiều.

Vả lại, hiện nay có rất nhiều tài liệu xuất bản giới thiệu về các mẫu văn cúng của các nhà xuất bản chính thống và của các cơ sở tôn giáo - tín ngưỡng. Chính tình trạng này đã dẫn đến sự không thống nhất trong quy cách và nội dung của văn cúng, làm cho người bình dân rất phân vân khi chọn lựa, người nghiên cứu khó khăn khi tiến hành tìm hiểu, thẩm định, kết luận.
Mặt khác, ngoài giá trị và ý nghĩa cúng tế như đã nói ở trên, văn cúng còn có nhiều giá trị học thuật khác. Tiêu biểu nhất, văn cúng là tài liệu để nghiên cứu về văn hóa tâm linh, dân tục học. Ngoài ra, văn cúng cũng còn là tư liệu đóng góp về mặt sử liệu, văn học, tư tưởng, v.v.. của thời đại ra đời “tác phẩm” văn cúng.
Do vậy, việc sưu tầm và nghiên cứu văn cúng là một việc hết sức cấp thiết nhằm giữ gìn và khai thác những giá trị của các văn bản văn cúng của người xưa để lại. Chúng tôi chọn trường hợp văn cúng của Phạm Phú Thứ trong Giá Viên toàn tập để làm đối tượng nghiên cứu của mình, đồng thời nhằm giới thiệu tài năng văn chương của Phạm Phú Thứ - người con ưu tú của đất Quảng.
1. Tổng quan về văn cúng và văn cúng của Phạm Phú Thứ
1.1. Lịch sử nghiên cứu về văn cúng và văn cúng của Phạm Phú Thứ
1. Tài liệu Hán - Nôm có nói về văn cúng nhìn chung có rất nhiều, nhưng thường không rõ về niên đại ra đời và một số văn bản hiện tại không còn.
Trước thời Lý Trần, chúng tôi chưa tìm thấy tài liệu viết về văn cúng. Thời Lý Trần, có một số bài/tác phẩm liên quan đến văn cúng như Chư đạo tràng khánh tán văn của Lâm Khu Huệ Sinh (? - 1063)[1], Tán Đằng Châu thổ thần (khuyết danh)[2], Bát nhã tâm kinh khoa sớ, Đạo trường tân văn (đời Trần Anh Tông, 1276 - 1320), Niết bàn đại kinh khoa sớ,[3] Tế Lô giang ngạc ngư văn của Hàn Thuyên[4], Văn tế một vị công chúa của Mạc Đĩnh Chi[5]… Thời Lê Nguyễn, có một số tác phẩm viết về văn nghi lễ như Hồ Thượng thư gia lễ (Quốc âm vấn đáp gia lễ) (AB.175) của Hồ Sĩ Dương (1621 - 1681), Tiệp kính gia lễ của Ngô Sĩ Bình (in năm 1707), Thọ mai gia lễ (VHv.117) của Hồ Gia Tân (có sách gọi Hồ Sĩ Tân), Các khoa cúng văn (VHv.755[6]), Cúng chư vị khoa (A.2936), Cúng văn chư khoa lục (A.1673), Cúng tôn sư tổ sư khoa nghi thông dụng (A.1447), Cúng văn tập (VHv.1841), Tấu sớ cúng văn (VHb.170), Tấu sớ cúng văn tạp biên (VHb.180), Tế thần nghi tiết (A.1544), Tế tổ nghi tiết (VHb.147), Tế văn diện tướng (VHv.735), Tế văn toàn tập (A.2284), Tế văn trích lục (VHv.276), Xuân thu đinh tế văn thể (A.2891). Những tài liệu này cũng chỉ giới thiệu những mẫu văn cúng trong các trường hợp cũng như những nghi thức trong việc cúng tế.
2. Tài liệu chữ Quốc ngữ về văn cúng thì nhiều vô kể, bao gồm nhiều sách (internet) in sẵn các mẫu văn cúng, nhưng chỉ rất ít tài liệu tìm hiểu về thể tài văn cúng. Có lẽ tài liệu xưa nhất có bàn về thể tài văn cúng là Việt Nam văn học sử yếu của Dương Quảng Hàm và một số tác giả nghiên cứu Hán Nôm, văn học trung đại về sau như nhóm Bùi Văn Nguyên, nhóm Lê Trí Viễn hoặc của các nhà khảo cứu phong tục Việt Nam như Toan Ánh. Trong đó, chúng tôi thấy rằng, việc tìm hiểu, giới thiệu về thể tài văn cúng của nhóm Lê Trí Viễn trong Cơ sở ngữ văn Hán Nôm (tập 4) là chi tiết hơn các tác giả khác. Song, công trình này cũng chỉ mới trình bày về thể tài văn cúng trong vỏn vẹn chưa đầy 03 trang.
3. Kỳ tế văn của Phạm Phú Thứ cũng chỉ mới được chúng tôi giới thiệu vài dòng trong công trình Nghiên cứu văn bản và giá trị học thuật của “Giá Viên toàn tập” (ĐHQGHN, 2008) và trong bài báo khoa học Một vài giá trị sử liệu của “Giá Viên toàn tập” (Tạp chí Khoa học & Giáo dục, ĐHSP Huế, số 03(07)/2008, tr.52).
Như vậy, cho đến hiện tại, thể tài văn cúng Việt Nam chưa được nhiều người đi sâu nghiên cứu. Và, văn cúng của Phạm Phú Thứ lại càng chưa được ai quan tâm, tìm hiểu và khai thác (có lẽ do mọi người không có văn bản chữ Hán Kỳ tế văn).
1.2. Thể tài văn cúng
1.2.1. Vài nét về văn cúng trong lịch sử
Ở Trung Quốc, các nhà nghiên cứu cho rằng văn cúng xuất hiện sớm nhất có lẽ vào thời nhà Hán[7]. Đến thời Đường Tống, văn cúng bắt đầu hưng thịnh và phát triển rộng rãi, chủng loại tăng lên không ngừng, xuất hiện nhiều nhà văn nổi tiếng với thể loại văn cúng như Hàn Dũ với Văn tế Nhị lang (Tế Nhị lang văn), Âu Dương Tu với Văn tế Thạch Mạn Liễu (Tế Thạch Mạn Liễu văn)[8].
Ở Việt Nam, hình thức “khấn”, “cầu khấn” có từ lâu đời. Đại Việt sứ kí toàn thư có chép những chuyện khấn cầu, văn tế như: “thành này cứ đắp xong lại sụt, vua lấy làm lo, mới trai giới khấn trời đất và thần kỳ núi sông rồi khởi công đắp lại” (năm 257 TCN), “thường thắp hương khấn trời: xin trời vì nước Việt ta sớm sinh thánh nhân, tự làm đế nước nhà, để khỏi bị người phương Bắc cướp vét” (năm 186), “vua ở trong đầm thấy quân Lương không lui, mới đốt hương cầu đảo, khẩn thiết kinh cáo với trời đất thần kỳ, thế rồi có điềm lành được mũ đâu mâu móng rồng dùng để đánh giặc” (năm 549), “vua thân đi đánh Diễn Châu. Khi về đến Vũng Biện gặp lúc trời đất tối sầm, gió sấm dữ dội, vua đốt hương khấn trời rằng: “Tôi là người ít đức, lạm ở trên dân, nơm nớp lo sợ như sắp sa xuống vực sâu, không dám cậy binh uy mà đi đánh dẹp càn bậy (…) xin lòng trời soi xét”. Khấn xong, gió sấm đều yên lặng.” (năm 1012), “bấy giờ có cá sấu đến sông Lô. Vua sai Hình bộ Thượng thư Nguyễn Thuyên làm bài văn (Tế Lô giang ngạc ngư văn mà chúng ta hay gọi Văn tế cá sấu - NHT chú) ném xuống sông, cá sấu bỏ đi” (năm 1282), “đến khi (Quốc Toản - NHT chú) mất, vua rất thương tiếc, thân làm văn tế, lại gia phong tước vương” (năm 1282). Như vậy, tạm thời chúng ta thấy rằng, ở Việt Nam, việc cúng tế có kèm văn cúng bắt đầu từ năm 1282 với sự kiện văn tế của Hàn Thuyên.
1.2.2. Một số khái niệm về văn cúng
Văn cúng là một tên gọi chung để chỉ một loại thể tài chủ yếu dùng trong trường hợp tế lễ. Hiện nay, văn cúng được sử dụng và thông hiểu bằng nhiều “thuật ngữ” khác nhau. Gọi theo cách gọi Việt như: Văn tế, văn khấn, văn nghi lễ, sớ, trạng, điệp, văn sớ, văn sớ cầu cúng, văn bản ca thỉnh, văn ai. Gọi theo cách gọi Hán như: Tế văn, kỳ văn, tự văn, kỳ tế văn, chúc văn, yết văn, v.v.. Dưới đây chúng tôi trình bày khái niệm của một số thuật ngữ về văn cúng[9].
Văn tế là “loại văn giãi bày nỗi thương tiếc người đã mất[10], thường có vần điệu, đọc trong lễ cúng tế”[11], là “loại văn đọc sau đó đem đốt trong lễ cúng tế”[12]. “Văn tế là bài văn được đọc trong khi cúng tế với nội dung nói về tính nết, công đức, sự nghiệp, và kỷ niệm của tiền nhân hay người thân mới qua đời để tỏ tấm lòng ngưỡng mộ và thương tiếc của người sống đối với người chết”[13].
Văn khấn là tên gọi mà dân gian hay sử dụng, “vì nó có nội dung cầu xin (khẩn cầu) Phật, Thánh, Quỷ, Thần và vong linh người quá cố che chở (phù hộ) cho những người cúng”[14].
Sớ cũng là một tên gọi khác của văn cúng, vì ở phần đầu có từ “sớ”, Lê Trí Viễn (sđd) cho rằng: “gọi là Sớ vì thường thường trong một bài văn cúng có liệt kê tên nhiều vị và do đó có thể mở đầu bằng một câu có từ “Sớ” (nghĩa là ghi, trình từng điều, từng khoản) (…) và kết thúc bằng một nhóm từ lầy từ Sớ làm trung tâm: “Cẩn sớ” (kính trình)”. Sớ là “loại in trên giấy màu vàng để cáo với Phật, Thánh thần”[15].
Trạng, điệp là loại in trên giấy màu trắng để cáo với Thần, “loại in trên giấy màu trắng là để cáo với tổ tiên, vong linh, còn gọi là điệp, cúng với cô hồn trong lễ thí thực cũng gọi là trạng. Điệp thì có điệp thỉnh để mời, điệp tiến để dâng cúng cho người trên, và điệp cấp để cho người dưới”[16].
Cố nhiên, những tên gọi trên ít nhiều có sự sai biệt về nội hàm, nhưng nhìn chung là đại đồng tiểu dị.
1.2.3. Loại hình văn cúng
Với những khái niệm như trên, theo Lê Trí Viễn (sđd), văn cúng có thể chia làm ba loại:
- Văn cúng vong linh người chết, thường dùng trong những trường hợp đám tang hoặc kỵ giỗ.
- Văn cúng quỷ thần thường dùng trong những trường hợp cúng thường kì như: lễ kì yên, lễ nhương tinh, tiến hành vào dịp đầu xuân, lễ cúng cuối năm, lễ cúng thần trong các ngày hội; hoặc những lễ bất thường như cúng Tơ hồng hoặc cầu đảo khi có tai biến.
- Văn cúng tiên sư, tổ sư các nghề nhất là các nghề tiểu thủ công.
Trần Đại Vinh (sđd) cũng có ý kiến tương tự như tài liệu của nhóm Lê Trí Viễn.
1.2.4. Viết văn tế
Viết văn tế ngày trước thường do những thành viên trong hội Tư văn của làng (điển văn) hoặc những người có chút ít văn nghĩa. Trường hợp viết văn tế thần quan trọng thì mọi người trong cộng đồng giao cho một người đàn ông cao niên biết chữ Hán, viết chữ đẹp, cộng thêm phẩm hạnh thiện hảo. Song, ngày nay, ở các cơ sở tôn giáo - tín ngưỡng hoặc các sách xuất bản đều có sẵn mẫu văn sớ theo kiểu “mì ăn liền”, người cần dùng chỉ điền những thông tin cá nhân, nội dung biệt lệ theo trường hợp cúng tế cụ thể của mình.
Văn tự dùng để viết văn tế phổ biến là chữ Hán, về sau có thêm chữ Nôm và ngày nay chữ Quốc ngữ trở nên thông dụng. Trường hợp văn tế viết bằng chữ Quốc ngữ vẫn có hai loại: một loại ghi theo âm Hán Việt (tất nhiên cũng có xen vài âm thuần Việt về tên người, tên đất) và một loại ghi theo âm tiếng Việt.
Người ta thường viết văn cúng lên giấy bổi màu vàng. Miếng giấy đó đem xếp lại thành thếp cỡ ngang rộng bằng bàn tay (10cm), rồi lại gấp thành các hàng dọc cỡ khoảng ngón tay cái (2cm) vừa đủ viết một chữ. Viết sớ theo hình thức cổ truyền từ phải sang trái, từ trên xuống dưới.
1.2.5. Bố cục
Nhìn chung, một bài văn tế được bố cục thành ba phần (ít trường hợp văn tế chia thành 4 phần như Văn tế Nghĩa sĩ Cần Giuộc[17]). Theo Dương Quảng Hàm: Phần mở bài của bài văn tế thường dùng để nói về lai lịch của người quá cố và ngày giỗ (huý nhật) của họ, ngày tháng năm và địa điểm tổ chức cúng tế, và sự liên hệ giữa người sống và người chết. Phần nói về tính nết, công đức, sự nghiệp, và kỷ niệm của tiền nhân hay của người thân đã qua đời. Phần nói về tấm lòng đau khổ, thương tiếc, kính trọng, cầu khẩn, và ước nguyện của những người còn sống đối với người đã qua đời.
Theo Toan Ánh[18], nhóm Lê Trí Viễn và Trần Đại Vinh, văn cúng gồm có 3 phần[19]:
Phần mở đầu: gồm có:
- Thời điểm: niên hiệu, năm, tháng, ngày
- Địa điểm: Việt Nam quốc, tỉnh (trấn), phủ, huyện, tổng, xã, thôn, xứ
- Tín chủ: tên của cá nhân hoặc tập thể (phường, xã) người cúng
- Lý do: trường hợp cúng: kỳ yên, đám cưới, v.v..
Phần chính:
- Tên đối tượng cầu cúng: đối tượng cầu cúng có khi chỉ có một, song có khi gồm nhiều vị.
- Nội dung cầu xin: xin bình yên vô sự hoặc mong đôi lứa trăm năm…
Phần kết thúc: Một câu nghi lễ công thức: Kính thưa, kính trình, mong hưởng, mong xét, v.v..
1.2.6. Nghệ thuật ngôn từ
Văn cúng thường viết theo thể văn ngôn, sử dụng nhiều điển cố, trau chuốt câu chữ, lời văn hoa lệ, tuân thủ quy cách, đôi lúc có nhiều từ ngữ mang màu sắc mê tín, thần bí.
Về phương diện văn thể, văn cúng (văn tế) làm theo thể văn xuôi, thể tán, phú cổ thể, phú Đường luật, lục bát, song thất lục bát hoặc tổng hợp các dạng trên.
Về phương diện quy cách, mở đầu văn bản thường dùng chữ “duy(hoặc hoặc). “Duy” không có ngữ nghĩa cụ thể vì nó chỉ là một hư từ đưa đẩy (trợ từ ngữ khí) nhằm nhấn mạnh giọng phán đoán của câu, nhằm làm tăng tính chất trang nghiêm của buổi lễ cúng quỷ thần. Thường sử dụng những từ cổ như “hàn âm (gà trống), “tư thịnh (mâm xôi), “thanh chước (rượu)… Đồng thời, sử dụng kết cấu từ công thức: “cảm kiền cốc vu (dánh thành khẩn trình với) hoặc “cảm chi cốc vu (dám kính trình với), “cảm chiêu cốc vu (dám trình rõ với) để chuyển tiếp từ phần mở đầu sang phần chính; “cẩn cốc (kính trình) hoặc “phục duy cẩn cốc (cúi nhớ kính trình), “cẩn sớ (kính trình) - nếu mở đầu dùng “sớ vi (trình rằng), hoặc “thượng hưởng (mong hưởng), “thượng giám (mong xét) để kết thúc bài văn cúng[20].
1.2.7. Đọc văn tế
Trong nghi lễ, phần “độc chúc” cũng đòi hỏi một yêu cầu đặc biệt. Ở mỗi dịp tế lễ, cúng kiếng hoặc đối với mỗi loại hình tôn giáo tín ngưỡng mà có một ít sai biệt về cách đọc văn tế. Nhìn chung, giọng đọc phải vang ấm, thành khẩn, truyền cảm. Có loại văn cúng cần đọc to, có loại văn cúng đọc thầm và có loại văn cúng không cần đọc.
1.2.8. Hóa vàng văn tế
Văn tế khi đọc xong, người ta liền đốt ngay. Tùy mỗi tự sở hoặc tư gia mà có kiểu hóa vàng khác nhau. Có nơi người ta hóa vàng trong cái tiểu chuông (đang để trên bàn hành lễ), có nơi hóa trong chậu nước (trước dùng để “quán tẩy”), có nơi hóa tại lư hương. Thông thường sau khi hóa, người làm lễ tưới lên đó một ít rượu cho âm dương giao hòa.
Tóm lại, văn cúng là một thể tài văn học dùng để (khấn) cáo với người chết hoặc các vị thần thánh trong trời đất, núi sông. Về hình thức có văn vần và văn xuôi, lại chia thành nhiều loại. Nội dung chủ yếu là ai điếu, cầu chúc, truy niệm người đã mất, ca tụng đức hạnh sự nghiệp, kí thác ai tư, kích lệ người sống, phát truyền ước nguyện. Văn cúng luôn tuân thủ theo một nguyên tắc thống nhất, chặt chẽ từ bố cục văn bản, hình thức giấy viết, tả văn - rước văn cho đến tụng độc, hóa vàng. Văn cúng là một thể tài đặc biệt trong văn chương, góp phần làm phong phú văn hóa văn hóa tâm linh nước nhà.
2. Văn cúng của Phạm Phú Thứ
2.1. Vấn đề văn bản học
2.1.1. Thứ tự sắp xếp các bài văn tế trong văn bản
Toàn bộ văn cúng của Phạm Phú Thứ được tập hợp trong tập Kỳ tế văn,là quyển thứ 23 của Giá Viên toàn tập (kí hiệu VHv.8/1-4). Kỳ tế văn của Phạm Phú Thứ gồm 42 bài. Ở đây tính theo tiêu đề văn bản, chưa kể trường hợp một tiêu đề văn bản có một vài đơn vị văn bản. Một số tiêu đề văn tế có hơn 01 đơn vị văn bản như文二Đảo vũ văn nhị thủ gồm 2 bài, Đảo vũ văn ngũ thủ gồm 5 bài. Thứ tự sắp xếp các bài văn tế trong văn bản Kỳ tế văn như bảng sau:

 
Tiêu đề bài văn tế
Tờ
1.                    
文二 Đảo vũ văn nhị thủ
1a
2.                    
Tạ đảo văn
2a
3.                    
神文Tế Thái bảo thượng đẳng thần văn
2b
4.                    
公文Tế Tham tri Phạm Trọng Vũ công văn
3b
5.                    
文五 Đảo vũ văn ngũ thủ
5a
6.                    
Hội đồng kì vũ
7b
7.                    
Vạn An từ yết đảo
8a
8.                    
Kì vũ văn
8a
9.                    
固文Kì đảo đê điều ổn cố văn
9a
10.                
Xử trí lưu dân yết đảo văn
10a
11.                
Xử trí lưu dân sự thanh đáp tạ văn
11a
12.                
文二 Đảo vũ vũ nhị thủ
11b
13.                
Thăng quan kì tạ văn
12a
14.                
Thành hoàng miếu mật cáo văn
13a
15.                
Hồi quán phần hoàng cáo tế văn
13b
16.                
Hữu bản xã văn chỉ
13b
17.                
Hữu đình từ
14a
18.                
Hữu bản xã tiền hiền từ đường
14a
19.                
Hữu bản tộc từ đường
14b
20.                
Hồi quán tỉnh yết cáo tế văn
14b
21.                
Yết bản huyện văn miếu
14b
22.                
Yết bản xã văn chỉ
15a
23.                
Yết đình từ 
15a
24.                
Yết đại tộc từ đường
16a
25.                
Yết bản chi từ đường
15a
26.                
Sơ hành xuân thu tế cáo
16b
27.                
Yết tế tiên nghiêm từ từ đường
17a
28.                
Từ đường lạc thành tế thổ thần
17b
29. 
謁鄉 Yết hương tự tiền hiền miếu
17b
30.                
Hồi quán tỉnh tảo cáo tế văn
18b
31.                
Hữu huyện văn chỉ tự văn hương hiệu tự đồng
19a
32.                
Hữu đình tự văn nhị miếu tự đồng
19a
33.                
Hữu hương từ văn
19b
34.                
Hữu tộc từ văn
20a
35.                
Hữu bản chi từ văn
20b
36.                
祠文Hữu bản gia tiên từ văn
21a
37.                
庵文Hữu bản ấp Quan Thánh am văn
21b
38.                
 Trừng giang ngoại từ đường lạc thành an vị văn
21b
39.                
Bổ lục Nhị miếu cáo điệp
22a
40.                
Mật đảo Quan Thánh miếu
22b
41.                
Bệnh thuyên tạ Quan Thánh miếu
22b
42.                
Khai thương sự thành tạ Quan Thánh miếu văn
23a

2.1.2. Vấn đề thời gian của văn bản Kỳ tế văn
2.1.2.1. Thời gian sáng tác văn bản
Như trên trình bày, Kỳ tế văn là toàn tập văn cúng của Phạm Phú Thứ, bao gồm 42 tiêu đề văn bản (hơn 42 đơn vị văn bản). Mỗi một đơn vị văn bản được viết vào một thời gian cụ thể nhất định. Do vậy trong toàn bộ số văn cúng này có rất nhiều mốc thời gian khác nhau. Một số đơn vị văn bản có thời gian xác định rõ ràng. Một số đơn vị văn bản không đề thời gian, cần phải căn cứ vào nội dung mà luận đoán.
Những tiêu đề văn bản có niên đại thời gian xác định như: Tế Tham tri Phạm Trọng Vũ công văn (6/1862), Xử trí lưu dân yết đảo văn (1876), Hữu bản tộc từ đường (8/1863), Hồi quán tỉnh yết cáo tế văn (1866), Yết tế tiên nghiêm từ từ đường (1863), Hồi quán tỉnh tảo cáo tế văn (1874), Hữu bản chi từ văn (1/1/1874), Bổ lục Nhị miếu cáo điệp (1866), Mật đảo Quan Thánh Miếu (4/1875), Bệnh thuyên tạ Quan Thánh Miếu (1876).
2.1.2.1. Thời gian khắc in văn bản
Thời gian khắc in của Kỳ tế văn chính là thời gian khắc in của Giá Viên toàn tập. Nhưng, trong toàn bộ hơn 1600 trang của Giá Viên toàn tập, không có một chỗ nào cho chúng ta biết thời gian khắc in văn bản. Dựa vào nội dung nội tại của văn bản, chúng tôi cho rằng bộ Giá Viên toàn tập được khắc in vào thời gian sau năm 1900 (Đồng Trị Canh Tí - Phần mở đầu, tờ 16a) và trước năm 1935 (năm mất của Phan Trân - người kiểm khắc).
2.1.3. Đơn vị tổ chức khắc in
Trong văn bản không nói rõ ai đứng ra tổ chức khắc in và tàng bản. Nhưng, dựa vào nội tại của văn bản, chúng tôi đoán định văn bản Kỳ tế văn này được khắc in do cơ quan nhà nước (Tỉnh đường Quảng Nam) chủ trì với sự kiểm tập của Án sát sứ tỉnh Quảng Nam là Tiểu Cao Nguyễn Văn Mại và Án sát sứ tỉnh Quảng Trị là Doãn Tân Trương Trọng Hữu, đồng thời có sự tham gia kiểm khắc chặt chẽ của những người thân trong gia đình Phạm Phú Thứ và người thân quen là Giải nguyên Phạm Viên.
2.1.4. Chữ húy trong văn bản
Trong Giá Viên toàn tập của Phạm Phú Thứ có 6 (mặt) chữ húy: “thời”, “hồng”, “nhậm”, “tông”, “hạo”, “hoa”. Nhưng riêng trong quyển 23 (Kỳ tế văn) có 5 chữ húy: “thời”, “hồng”, “tôn”, “hạo”, “hoa”. Chữ “thời” viết thành “thìn” (1b, 4a, 6b, 9b, 11a, 14a, 16b), xuất hiện 7 lần; Chữ “hồng” viết thành “hồng” (lược nét) (1a), xuất hiện 1 lần; chữ “tông” viết thành “tôn” (9a, 16a, 21b), xuất hiện 3 lần; bộ phận “tông” (trong cấu tạo chữ khác, như sùng) viết thành “” (sùng) (6a, 8a, 10a, 16a), xuất hiện 4 lần; chữ “hạo” viết thành “    hạo” (lược nét) (8a), xuất hiện 2 lần; chữ “hoa” viết thành “hoa” (viết tắt) (4b), xuất hiện 1 lần.
2.1.5. Nhân danh, địa danh trong văn bản
Về nhân danh (tự, hiệu, kể cả chức danh) gồm có: Kim Giang tướng công (1a), Cúc Viên tướng công (1a), Hà Đình cung bảo (1a), Nhĩ Nam thái tể (1a), Án sát sứ Nguyễn Văn Mại (1a), Án sát sứ Trương Trọng Hữu (1a), Hưng Đạo, Tham tri Phạm Trọng Vũ, Tự Đức (4a, 10a, 14b, 17a, 18a, 18b, 21b, 22b), Đại Vương (8b) (tức Trần Hưng Đạo), Trưng Nữ Vương (9a), Trừng Tĩnh Viên Thông (9a), Không Lộ Nguyễn thiền sư (9a), Tuần phủ Nguyễn Tăng Doãn (10b), Giám đốc Lương Văn Tiến (10b), Ông Húc Đại vương (22a), Quan Thánh (22b, 23a).
Về địa danh gồm có: Lạng Giang (1a), Phượng Nhãn (1a), Vạn An (8a), Đằng Giang (8a), Hải Dương (8b, 9a, 9b), Hải An (9a, 11b, 18b, 19b), Bắc Ninh (9a), Hưng Yên (9a, 9b), Dạ Trạch (9a, 9b), Bắc Kỳ (9a), Văn Giang (9b), Cát Bà (10b), Hải Ninh (10b), Diên Phúc (14b).
Tóm lại, Kỳ tế văn là tập hợp toàn bộ những bài văn cúng của Phạm Phú Thứ trong suốt một thời gian dài của ông từ lúc làm quan cho đến lúc đáo hưu quy điền và trong nhiều trường hợp khác nhau. Số văn cúng này là tư liệu quan trọng để tìm hiểu về đặc điểm văn cúng của Phạm Phú Thứ, góp phần nghiên cứu giá trị sáng tác của ông.
2.2. Đặc điểm văn cúng của Phạm Phú Thứ qua Kỳ tế văn
2.2.1. Đặc điểm ngôn ngữ
2.2.1.1. Cấu trúc tiêu đề văn cúng của Phạm Phú Thứ
Qua khảo sát 42 bản văn cúng của Phạm Phú Thứ, chúng tôi nhận thấy cấu trúc tiêu đề văn bản của Kỳ tế văn có sự khác nhau. Có thể chia thành những loại cấu trúc sau:
1. (tế) + A (khách thể/đối tượng được “tế”) + (văn):
Tế Thái bảo Thượng đẳng thần văn
公文Tế Tham tri Phạm Trọng Vũ công văn
2. (kỳ)/ (đảo)/ 祈禱 (kỳ đảo) + A (sự việc cầu xin) + (văn):
文二 Đảo vũ văn nhị thủ
文五 Đảo vũ văn ngũ thủ
Kỳ vũ văn
Kì đảo đê điều ổn cố văn
Đảo vũ văn nhị thủ
3. A (sự việc cầu xin/tạ) + (yết đảo)/ (đáp tạ)/ (kỳ tạ) + (văn):
民謁Xử trí lưu dân yết đảo văn
謝文Xử trí lưu dân sự thanh đáp tạ văn
Thăng quan kì tạ văn
4. A (tự sở) + (yết đảo)/ (mật cáo) + ():
Vạn An từ yết đảo
Thành hoàng miếu mật cáo văn
5. (yết)/ (mật đảo) + A (tự sở)
Yết bản huyện văn miếu
Yết bản xã văn chỉ
Yết đình từ
Yết đại tộc từ đường
Yết bản chi từ đường
Yết tế tiên nghiêm từ từ đường
謁鄉 Yết hương tự tiền hiền miếu
Mật đảo Quan Thánh miếu
6. A (tự sở) + (kỳ) + B (nội dung sự việc)
Hội đồng kì vũ
7. A (nội dung sự việc) + (tế)/ (tạ)+ B (tự sở, tự thần)
Từ đường lạc thành tế thổ thần
Bệnh thuyên tạ Quan Thánh miếu
Khai thương sự thành tạ Quan Thánh miếu
 
8. A (nội dung sự việc) + (tế cáo)/ (cáo tế văn)/
       (yết cáo tế văn)/ (cáo điệp)
Sơ hành xuân thu tế cáo
Hồi quán phần hoàng cáo tế văn
Hồi quán tỉnh yết cáo tế văn
Bổ lục Nhị miếu cáo điệp
9. Những trường hợp khác: Không sử dụng động từ “cầu - tạ”
Trừng giang ngoại từ đường lạc thành an vị văn
2.2.1.2. Từ ngữ “công thức” trong Kỳ tế văn
Trong văn cúng, người ta thường sử dụng những từ ngữ “công thức” như:
cảm kiền cốc vu” (dánh thành khẩn trình với)
cảm chi cốc vu” (dám kính trình với)
cảm chiêu cốc vu” (dám trình rõ với)
cẩn cốc” (kính trình)
phục duy cẩn cốc” (cúi nhớ kính trình)
cẩn sớ” (kính trình)
thượng hưởng” (mong hưởng)
thượng giám” (mong xét).
Trong Kỳ tế văn, Phạm Phú Thứ vẫn sử dụng những từ công thức như vậy. Bên cạnh đó ông còn sử dụng những từ ngữ khác với hàm nghĩa tương tự tùy theo từng chức vụ của ông, hoặc những từ ngữ mà chúng tôi thấy dường như lặp lại nhiều lần, trở thành “dấu ấn”. Đó là:
Viết cung duy” (kính nghĩ rằng) (1a, 3a, 10b, 12b, 13b(2), 14b, 15a, 16a (2), 21b)
Viết duy” (nghĩ rằng) (7b, 8a, 12b)
Viết cung” (kính nghĩ) (20b)
Cảm điện vu” (Dám đặt (lễ) rằng) (4a)
Vị dân thỉnh mệnh minh tạ chi chí” (vì dân chúng xin thỉnh thần đến phù trợ và không quên tạ ơn) (1b)
Vị dân thỉnh mệnh chi chí” (vì dân chúng xin thỉnh thần đến phò trợ) (2a)
Vị dân minh đảo chúc vọng chi chí” (vì dân chúng cầu xin và mong thần đến phò trợ) (2b)
Thực lại tôn thần chi đại huệ dã” (Thực là nhờ vào ơn huệ lớn của tôn thần vậy) (3b, 15b, 17b, 19a)
Thực lại tôn thần chi mặc hữu dã” (Thực là nhờ vào sự giúp đỡ âm thầm của tôn thần vậy) (8a)
Thực lại đốc hữu chi đại huệ dã” (Thực là nhờ vào ơn huệ lớn dốc hết giúp đỡ vậy) (19b)
Thực lại âm phù chi trạch dã” (Thực là nhờ vào ơn trạch âm phò vậy) (16b)
Thực lại thánh sư chi đại huệ dã” (Thực là nhờ vào ơn huệ lớn của thánh sư vậy) (18b)
Thực lại thánh quân chi đại huệ dã” (Thực là nhờ vào ơn huệ lớn của thánh quân vậy) (21b)
Thực lại phù trì chi trạch dã” (Thực là nhờ vào ơn trạch phò trì vậy) (15a)
Hạnh giám vi thành cẩn cáo” (Cầu mong xét lòng thành, kính trình) (13a)
Thành ý cẩn cáo” (Thành ý kính trình) (13b, 14a)
Kiền cáo cẩn cáo” (Kính trình, kính trình) (14b)
Kiền yết hạnh giám vi thẩm” (kính cáo cầu mong xét làm thành thực) (15a)
Phục duy giám cách” (cúi nhớ mong xét lòng thành) (16b, 23a)
Nhất thành thượng hưởng” (một lòng thành mong hưởng) (22a)
Cẩn ủy gia nội cù thị dĩ cáo” (kính nhờ vào sự đau lòng của người trong nhà mà trình lên - ý chỉ điếu tang) (5a)
Thực lại tôn thần phù trì chi đại huệ dã” (Thực là nhờ vào ơn huệ lớn của tôn thần phù trì) (11a)
Bảo hữu thùy từ chi đại huệ dã” (Ơn huệ lớn của thần bảo vệ giúp đỡ rủ lòng thương) (11b)
2.2.2. Đặc điểm nội dung văn cúng của Phạm Phú Thứ
2.2.2.1. Nội dung “cầu” hoặc “tạ”
Trong văn cúng chúng ta thường thấy có hai loại chính, một loại là văn cúng “cầu xin” và một loại là văn cúng “tạ ơn”.
Văn cúng của Phạm Phú Thứ trong Kỳ tế văn chỉ về loại “cầu xin” gồm có những bài文二 Đảo vũ văn nhị thủ, Đảo vũ văn ngũ thủ, Hội đồng kì vũ văn, Xử trí lưu dân yết đảo văn, Kì đảo đê điều ổn cố văn, Kì vũ văn, Thành hoàng miếu mật cáo văn, Mật đảo Quan Thánh miếu, v,v.. Văn cúng chỉ sự “cầu xin” chiếm đa số trong Kỳ tế văn.
Những bài văn cúng chỉ về sự “tạ ơn” gồm có 5 bài: Tạ đảo văn (Tạ ơn vì cầu mưa được mưa), Xử trí lưu dân sự thanh đáp tạ văn, Thăng quan kì tạ văn, Bệnh thuyên tạ Quan Thánh miếu, Khai thương sự thành tạ Quan Thánh miếu văn.
Ngoài ra còn nhiều bài mang tính tổng hợp, không phân định rạch ròi là thể loại văn cúng chỉ sự “cầu xin” hay là “tạ ơn”. Thường những bài văn cúng này có nội dung “cáo yết” với chư thần, vừa cảm ơn sự độ trì lại vừa tiếp tục cầu xin sự phù hộ cho bản thân, gia đình và cộng đồng dân cư sở tại.
2.2.2.2. Nội dung sự việc
Qua khảo sát 42 bài văn cúng của Phạm Phú Thứ, chúng tôi có thể tạm phân loại nội dung sự việc mà văn cúng cần thể hiện thành mấy loại sau:
Văn cúng về nông nghiệp. Xã hội phong kiến có tư trưởng dĩ nông vi bản, trọng nông ức thương. Do vậy nhà nước luôn chú trọng khuyến nông. Đối với việc nông nghiệp ở thời phong kiến thì nước mưa và đê điều là những vấn đề cần cấp. Trong văn cúng của Phạm Phú Thứ, chúng tôi thấy có rất nhiều bài nói về cầu mưa (11 bài trên tổng số 42 bài văn cúng), điều thú vị là có cả bài văn cúng cầu cho đê điều vững chắc (Kì đảo đê điều ổn cố văn).
Văn cúng về bệnh tật. Ở thời phong kiến, trình độ y học còn nhiều hạn chế, cộng thêm những yếu tố đời sống khác làm cho người dân thường phát sinh bệnh tật và khó chữa, đặc biệt là những đợt bệnh dịch hoành hành. Có trường hợp nơi sở nhậm của Phạm Phú Thứ, vì thời tiết oi bức mà dân chúng bị bệnh thổ tả nguy cấp. Các quan lại địa phương hết cách cứu chữa, Phạm Phú Thứ đành phải viết văn cúng cầu xin Quan Thánh đế quân tại miếu Quan Thánh mong thần rủ lòng thương âm phò dân chúng ( Mật đảo Quan Thánh Miếu). Kết quả dân chúng khỏi bệnh và Phạm Phú Thứ lại làm văn cúng tạ ơn Quan Thánh ( Bệnh thuyên tạ Quan Thánh miếu).
Văn cúng về an ninh chính trị. Bài Vạn An từ yết đảo thỉnh cầu thần hộ quốc tí dân. BàiXử trí lưu dân yết đảo văn và bàiThành hoàng miếu mật cáo văn xin các vị thần phù hộ để giải quyết nạn lưu dân gây rối ở đảo Cát Bà. Khi nạn lưu dân được giải quyết xong thì Phạm Phú Thứ cũng làm văn cúng tạ ơn qua bàiXử trí lưu dân sự thanh đáp tạ văn.
Văn cúng về thương nghiệp. Mặc dù dưới thời Tự Đức, nhà nước chủ trương bế quan tỏa cảng, nhưng Phạm Phú Thứ rất ý thức về phát triển thương nghiệp. Ông đã thực thi tư tưởng của mình về lĩnh vực này khi làm Hải An Tổng đốc kiêm sung Tổng lý Thương chánh đại thần. Ông tổ chức, quản lý giao thương với người Hoa, Pháp ở vùng biển Ninh Hải. Bài Vạn An từ yết đảo nói về cầu xin khai thương, còn bàiKhai thương sự thành tạ Quan Thánh miếu văn lại nói về tạ ơn sự khai thương thành công.
Văn cúng về việc quan. Thời Tự Đức, quan lại đình thần được thăng cấp hay giáng lưu xảy ra phố biến. Ngay cả Phạm Phú Thứ là một vị đại thần mà hoạn lộ luôn thăng trầm, 40 năm làm quan có đến 18 lần thay đổi nhiệm sở, 4 lần bị giáng chức. Do vậy, việc làm quan cũng là việc hệ trọng. Phạm Phú Thứ rất vui mừng và làm văn cúng ngay khi được thăng quan, thể hiện ở bài văn cúngThăng quan kì tạ văn. Song, ở đây tác giả cũng lồng vào việc khấn cầu cho phủ thành an ninh, kho lẫm dồi dào, nhân dân yên ổn.
Văn cúng về gia tiên. Bao gồm các bài Hồi quán phần hoàng cáo tế văn, Hữu bản xã tiền hiền từ đường, Hữu bản tộc từ đường, Yết đại tộc từ đường, Yết bản chi từ đường,  Trừng giang ngoại từ đường lạc thành an vị văn
2.2.2.3. “Chư thần” trong Kỳ tế văn
Văn cúng thường thỉnh cầu và liệt kê các thần danh sở tại và tự sở. Qua khảo sát văn cúng của Phạm Phú Thứ, chúng tôi xin liệt kê các vị thần linh sau đây: Chí trung Đại nghĩa Hồng huân Vĩ liệt Trạc linh Hưng Đạo Thượng đẳng thần (1a), Thái bảo Thượng đẳng thần (2b), Nhĩ Hà tôn thần (9a), Trưng Nữ Vương Nhị vị Thượng đẳng thần (9a), Dạ Trạch chính từ Tam vị Thượng đẳng thần (9a), Trừng Tĩnh Viên Thông (9a), Không Lộ Thiền sư (9a), Ngũ quan chi thần (9a), Hành khiển (9a), Thành hoàng (9a), Thổ địa (9a), Thủy phủ (9a), Hà bá (9a), Chí thánh Tiên sư (18b), Ông Húc Đại vương (22a), Quan Thánh đế quân (22b).
2.3. Giá trị học thuật của Kỳ tế văn
2.3.1. Giá trị tư liệu về bản thân tác giả
Trước tác thường mang dấu ấn cá nhân. Cho nên tác phẩm cũng là một mảng tư liệu để nghiên cứu về tác giả. Văn bản văn cúng của Phạm Phú Thứ ít nhiều giúp chúng ta tìm hiểu về con người của ông.
Thứ nhất, qua số văn cúng còn lại, chúng ta biết được Phạm Phú Thứ cũng thường xuyên tham gia việc cúng tế hoặc đích thân viết văn cúng. Điều này phản ánh con người Phạm Phú Thứ có lòng tín ngưỡng thần linh, phù hợp với văn hóa tâm linh của thời đại.
Thứ hai, dựa vào năm tháng và địa điểm thể hiện trong văn cúng, cho phép chúng ta xác định lại khoảng thời gian công tác cũng như địa phương và quá trình kinh lịch của tác giả. Như bài Xử trí lưu dân yết đảo văn cho chúng ta biết khoảng thời gian năm 1876, tác giả Phạm Phú Thứ làm quan tại Hải An (vùng Hải Phòng ngày nay).
Thứ ba, những bài văn tế cũng nói lên được mối quan hệ, tình cảm của Phạm Phú Thứ với quê hương, dòng tộc và đồng liêu. Đồng thời chúng ta cũng thấy được ý thức của Phạm Phú Thứ với di tích lịch sử văn hóa của người xưa để lại.
2.3.2. Giá trị tư liệu về văn hóa tâm linh
Tế tự là một thành tố của văn hóa tâm linh. Văn cúng là một phần của tế tự. Do vậy, văn cúng của Phạm Phú Thứ có một giá trị tư liệu về phương diện văn hóa tâm linh nhất định. Tất cả các văn bản văn cúng của ông phản ánh được diện mạo sinh hoạt tín ngưỡng của thời đại. Mọi sự việc đều nhờ cậy vào thần linh, con người phải kí thác vào lực lượng siêu nhiên vô hình để giải quyết sự việc, mong cầu hạnh phúc. Từ những việc đơn giản như cầu lành bệnh, tạ ơn hết bệnh, được thăng quan, khai thương thành công cho đến khấn niệm tổ tiên, cầu mưa, cầu đê điều vững chắc hoặc công việc quan trọng hơn như xử trí lưu dân đều khấn cáo cầu xin với thần linh.
2.3.3. Giá trị về mặt sử liệu
So với những tài liệu khác thì văn cúng không có giá trị sử liệu bằng. Song, từ trong văn cúng, chúng ta cũng ít nhiều thấy được những sử liệu hữu ích và tin cậy. Như trên đã trình bày, văn cúng góp thêm tư liệu nghiên cứu về tác giả cũng như dân tục học. Đó cũng chính là giá trị về mặt sử liệu. Ngoài ra, văn cúng của Phạm Phú Thứ cung cấp cho chúng ta một số giá trị sử liệu khác như:
Một là, giá trị sử liệu về kinh tế. Từ văn cúng cầu mưa (11 lần tổ chức lễ), như vậy chúng ta thấy ở vùng Đông Bắc bộ thường xuyên xảy ra hạn hán. Bên cạnh đó cũng có văn cúng cầu đê điều vững chắc như bài Kì đảo đê điều ổn cố văn. Tư liệu này góp phần bổ sung và tham chiếu cho chính sử. Bài Khai thương sự thành tạ Quan Thánh miếu cung cấp thông tin về việc giao dịch thương mại thành công của nhà Nguyễn với ngoại quốc.
Hai là, giá trị sử liệu về chính trị, an ninh quốc gia. Sử sách cho biết dưới thời Tự Đức ở vùng biển Quảng Yên, Hải An luôn bị cướp biển, Thanh phỉ và lưu dân gây rối, làm mất trật tự an ninh quốc gia và địa phương. Điều này cũng được thể hiện trong văn cúng của Phạm Phú Thứ. Hay nói cách khác, mấy bài văn cúng về việc xử trí lưu dân ở vùng nêu trên là một trong những tư liệu có giá trị về mặt sử liệu để cho chúng ta biết tình hình chính sự ở vùng biển Đông Bắc bộ lúc bấy giờ. Đó là những bài văn cúngXử trí lưu dân yết đảo văn,  Xử trí lưu dân sự thanh đáp tạ văn, Thành hoàng miếu mật cáo văn.
2.3.4. Giá trị tư liệu văn học
 “Khôn văn tế, dại văn bia”. Bởi vì văn tế khi làm lễ xong sẽ hóa vàng, nên văn tế, văn cúng thần linh không sợ/bị người khác tìm đọc và phê bình, do vậy người viết có thể yên tâm về tác phẩm của mình - đó là cái khôn của người đời chọn viết văn cúng. Song, chính vì văn tế luôn bị hóa vàng như vậy, cho nên trong nền văn chương của nước nhà, số lượng các bài văn cúng còn lại rất ít ỏi, không tương xứng với các thể tài văn học khác. Do vậy, nếu các nhà nghiên cứu hiện tại muốn nghiên cứu về thể tài văn cúng của Việt Nam thì sẽ gặp rất nhiều khó khăn về mặt tư liệu. 42 bài văn cúng của Phạm Phú Thứ đã được cơ quan nhà nước (phong kiến) kiểm tập, khắc in sẽ là một tư liệu quý giá để nghiên cứu thể tài văn cúng của Việt Nam chúng ta.
Ngoài ra, như chúng ta đã biết, Phạm Phú Thứ đã từng là thầy giáo của Tự Đức, từng làm việc ở Viện Tập hiền (cơ quan văn học của nhà vua), do vậy tài năng văn chương của ông ắt cũng sẽ thể hiện trên văn cúng. Và, tác phẩm văn cúng của Phạm Phú Thứ sẽ có giá trị về mặt văn học.
3. Kết luận
1. Toàn bộ văn cúng của Phạm Phú Thứ được khắc in trong quyển 23 Kỳ tế văn của Giá Viên toàn tập. Văn bản Kỳ tế văn là văn bản chữ Hán, mang trong nó những đặc điểm của văn bản học Hán Nôm. Số lượng bài văn cúng của Phạm Phú Thứ hơn 42 đơn vị văn bản với 42 tiêu đề văn bản.
2. Văn bản văn cúng của Phạm Phú Thứ mang đặc điểm chung của văn cúng Việt Nam về mặt bố cục, nội dung và nghệ thuật ngôn từ. Đồng thời, văn cúng của Phạm Phú Thứ cũng có những nét riêng mang dấu ấn cá nhân, thể hiện tài hoa văn chương của ông.
3. Văn cúng của Phạm Phú Thứ góp phần làm phong phú diện mạo thể tài văn học Việt Nam nói chung và văn cúng nói riêng. Đồng thời, Kỳ tế văn cũng là một tư liệu có nhiều giá trị học thuật, có ý nghĩa quan trọng, là tư liệu tham khảo đáng tin cậy để nghiên cứu những vấn đề liên quan.
 


 
PHỤ LỤC
 
Trích chụp vài trang văn bản của Giá Viên toàn tập
 
Trang bìa


 

 
1.       Toan Ánh, 1996, Phong tục thờ cúng trong gia đình Việt Nam, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội
2.       Trần Lâm Biền, 2003, Đồ thờ trong di tích của người Việt, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
3.       Phan Kế Bính, 1990, Việt Nam phong tục, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, Tp.HCM.
4.       Thu Linh - Đặng Văn Lung, 1984, Lễ hội truyền thống và hiện đại, Nxb Văn hóa, Hà Nội.
5.       Bùi Xuân Mỹ, 2009, Tục thờ cúng của người Việt, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
6.       Bùi Tấn Niên, 1997, Gia lễ, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, Tp.HCM.
7.       Nguyễn Hoàng Thân, 2007, Sưu tầm và giới thiệu di cảo Hán Nôm của Phạm Phú Phú. Đề tài NCKH cấp ĐHĐN. Mã số T2007-03-26.
8.       Nguyễn Hoàng Thân, 2008, Một vài giá trị sử liệu của Giá Viên toàn tập // Tạp chí Khoa học và Giáo dục, số 03(07)/2008, ĐHSP Huế, tr.52
9.       Nguyễn Hoàng Thân, 2009, Khảo sát chữ húy trong “Giá Viên toàn tập” // Ngữ học trẻ 2008, Hội Ngôn ngữ học Việt Nam và Trường Đại học Vinh xuất bản, Hà Nội, tr.565
10.    Nguyễn Hoàng Thân, 2010, Tìm hiểu giá trị văn học của Giá Viên toàn tập // Ngữ học toàn quốc 2009, Hội Ngôn ngữ học Việt Nam và Ủy ban Nhân dân thành phố Cần Thơ xuất bản, Hà Nội, tr.666.
11.    Lê Trí Viễn (chủ biên), 1987, Cơ sở ngữ văn Hán Nôm, tập 4, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
12.    Trần Đại Vinh, 2006, Tín ngưỡng dân gian Huế, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
 


[1] Thơ văn Lý Trần, tập 1, tr.257
[2] Tiêu đề này do Ban biên soạn Thơ văn Lý Trần đặt. Khi Lê Long Đĩnh chưa lên làm vua, một hôm về thực ấp của mình ở Đằng Châu bơi thuyền, bỗng gặp mưa to, bèn khấn xin thần giúp đỡ; thần thổ địa ở đây đã hiển linh làm cho bên sông này tành ráo trong khi bên kia vẫn cứ mưa như trút (tr.205-206).
[3] Thơ văn Lý Trần, tập 2, tr.903-917
[4] Thơ văn Lý Trần, tập 1, tr.155
[5] Từ điển văn học, tr.529
[6] Những kí hiệu sách lưu trữ tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm.
[7] Chúc văn bắt đầu từ Đổng Trọng Thư, kỳ văn bắt đầu từ Chuyên Nghị, yết văn bắt đầu từ Trương Siêu (http://www.zdic.net/cd/ci/8/ZdicE7ZdicA5Zdic88175671.htm)
[9] Chúng tôi không xếp “chầu văn”, “tán văn”, luyện văn” vào ở nội dung này.
[10] Từ điển văn học, tập 2, Nxb KHXH, 1984, tr.529
[11] Hoàng Phê (chủ biên), Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng - Trung tâm từ điển học, 2002, tr1101
[12] Nhiều tác giả, Hỏi và đáp về cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb VH-TT, tr.99
[13] Khải Chính Phạm Kim Thư dẫn lại theo Việt Nam văn học sử yếu của Dương Quảng Hàm, Trung tâm học liệu xuất bản, Sài Gòn, 1968, tr. 144-145..
[14] Lê Trí Viễn (chủ biên), Cơ sở ngữ văn Hán Nôm, tập 4, Nxb Giáo dục, 1987, tr.162
[15] Trần Đại Vinh, Tín ngưỡng dân gian Huế, Nxb VH-TT, 2006, tr.227
[16] Trần Đại Vinh, tlđd.
[17] Lung khởi: câu 1, 2: Hoàn cảnh hi sinh của nghĩa quân. Thích thực: từ câu 3 đến câu 15: Cuộc đời, cảnh chiến đấu và hi sinh của nghĩa quân. Ai vãn: từ câu 16 đến câu 25: Niềm thương tiếc và cảm phục. Kết: từ câu 26 đến câu 30: vừa tiếp tục than tiếc vừa nêu lên ý nghĩ của người đứng tế. Xem Từ điển văn học, tập 2, Nxb KHXH, 1984, tr.529 và Ngữ văn 11 (nâng cao), Nxb Giáo dục, 2007, tr. 35; Ngữ văn 11 (cơ bản), Nxb Giáo dục, 2008, tr. 60.
[18] Toan Ánh, Phong tục thờ cúng trong gia đinh Việt Nam, Nxb VHDT, 1996, tr.13
[19] Lê Trí Viễn, sđd, tr.163; Trần Đại Vinh, sđd, tr.228
[20] Lê Trí Viễn, sđd, tr.163

tin tức liên quan

Thống kê truy cập

114513656

Hôm nay

2129

Hôm qua

2313

Tuần này

21593

Tháng này

220529

Tháng qua

121356

Tất cả

114513656