Văn hoá học đường

Bàn thêm về bài học quốc tế để phát triển giáo dục và xây dựng đất nước

1.    Giáo dục là bài toán khó nên cần phải học hỏi thêm kinh nghiệm lịch sử và quốc tế

Trong 80 năm qua, Đảng, Nhà nước và Bác Hồ kính yêu của chúng ta luôn xem giáo dục, đào tạo cùng với khoa học, công nghệ là quốc sách hàng đầu. Nhiều chủ trương, chính sách đã được ban hành để xây dựng và phát triển nền giáo dục cách mạng ở nước ta. Giáo dục có lẽ là một trong các lĩnh vực quan trọng nhất nhưng cũng rất khó làm và vì thế chiếc ghế Bộ trưởng Giáo dục thường là ghế “nóng” với nhiều thử thách và sức ép. Trong một lần khi phóng viên Bích Lan (VoVNews, xem Dân trí ngày 29/6/2011) phỏng vấn, GS. TSKH. Ngô Bảo Châu cũng đã nói: “Tôi đã từng đi nhiều nước và nhận thấy, hầu như nước nào cũng đều không hài lòng với nền giáo dục của nước mình”.

Với tư cách Vụ trưởng từ 1993 đến 2001 và Thứ trưởng từ 2001 đến 2008, tôi cũng đã có một thời gian khá dài được giúp việc và cùng làm việc với mấy đời Bộ trưởng Giáo dục như GS. Bộ trưởng GD-ĐT Trần Hồng Quân, GS. Bộ trưởng GD Phạm Minh Hạc, GS. Bộ trưởng GD-ĐT Nguyễn Minh Hiển, GS. Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng GD-ĐT Nguyễn Thiện Nhân và GS. Bộ trưởng GD-ĐT Phạm Vũ Luận, nên thấu hiểu và chia sẻ trách nhiệm, khó khăn và sức ép ghê gớm đối với các đồng chí ấy. Mới nhìn vào người ta dễ tưởng làm giáo dục không khó, nhiều người có thể làm được, “phán” được. Nhưng càng về sau tôi càng thấu hiểu: Nói về một vấn đề cụ thể nào đó của giáo dục thì có vẻ không khó khăn lắm, nhưng làm giáo dục thực sự và nhất là làm bộ trưởng giáo dục thì lại là một công việc khó! Sau khi hết nhiệm kỳ Thứ trưởng Bộ GD-ĐT năm 2008, vẫn còn nhiều anh chị phóng viên thân quen hay phỏng vấn tôi về giáo dục. Nhưng tôi rất thận trọng và kiệm lời (đến mức gần đây Phó Thủ tướng Phạm Gia Khiêm nói với tôi qua điện thoại "sao kín tiếng thế"!), vì khi không còn trực tiếp làm giáo dục nữa, tôi rất tránh nói và “phán” một cách chủ quan về lĩnh vực khó khăn này, đặc biệt là không bao giờ dám “chê” người này người nọ, người trước người sau, và chỉ có mình là đúng là tốt. Vì ngày trước khi còn đương nhiệm, bên cạnh một số việc làm được, cũng có những việc tôi làm chưa tốt, làm hỏng. Nếu có ý gì hay thì đóng góp một cách thiện chí và xây dựng, nếu không có thì tốt nhất là ngồi im để tiếp thu và suy ngẫm thêm. Tôi sực nhớ đến một câu danh ngôn chí lý của một bậc thầy nào đó ở phương Đông: “Tai hoạ của con người là ở chỗ thích làm thầy người khác” (Nhân chi hoại tại hiếu vi nhân sư).

Để minh hoạ thêm cho tính khó khăn của bài toán giáo dục tôi xin nêu một ví dụ bằng ... toán học. Trong lịch sử ngành này từ thời cổ đại cho đến tận hôm nay, có lẽ không có một bài toán nào mà quá trình đi tìm lời giải cho nó lại khó khăn, phức tạp và nhiều sai lầm, bi kịch như Bài toán lớn Fermat (xem trang 134, chương II).
Tuy nhiên Bài toán lại được Fermat, một luật sư làm toán nghiệp dư người Pháp, phát biểu dưới dạng rất đơn giản mà ngay một học sinh ở lớp đầu cấp II phổ thông cũng có thể hiểu được, thậm chí có thể thử giải và nghĩ rằng có thể giải được bằng những kiến thức sơ cấp thông thường của số học. Nhưng oái oăm thay, sau 357 năm tồn tại, mãi đến năm 1993, Bài toán lớn Fermat mới được một nhà toán học thiên tài người Anh tên là Andrew Wiles giải quyết xong. Một bài toán mà thoạt nhìn có vẻ đơn giản và sơ cấp, nên người đời dễ bị lừa là nó dễ và có thể giải được bằng công cụ đơn giản và sơ cấp. Nhưng để đi tới đích, cuối cùng Andrew Wiles đã phải lao động cật lực trong 8 năm liền và phải huy động những thành tựu hiện đại nhất, khó nhất của toán học trong thế kỷ XIX và XX. Cái khó khăn của bài toán giáo dục cũng có dạng như vậy!

Tôi nghĩ trong các lĩnh vực như y tế, văn hoá,... tình hình cũng gần tương tự. Và một Phó thủ tướng phụ trách tổng hợp các lĩnh vực nhiều sức ép như thế này chắc còn phải gánh chịu sức ép tổng hợp ghê gớm hơn nhiều? Tất nhiên mỗi lĩnh vực, không chỉ văn-xã, đều có cái khó riêng của nó, mà người ngoại đạo khó hình dung hết được. Trong thời gian công tác tại cơ quan Bộ GD-ĐT từ năm 1993 đến năm 2008, tôi được tiếp xúc và nhiều lần họp, làm việc trực tiếp với các Phó Thủ tướng phụ trách văn-xã, giàu năng lực, tâm huyết và có khả năng chịu sức ép cao, như Phó Thủ tướng Nguyễn Khánh, Phó Thủ tướng TS. Phạm Gia Khiêm và Phó Thủ tướng GS. TS. Nguyễn Thiện Nhân. Tôi mới làm đến cấp Vụ trưởng, Thứ trưởng mà nhiều lúc đầu quá căng đến mức tưởng không chịu nổi, ví dụ như khi làm Trưởng Ban chỉ đạo thi tuyển sinh đại học và cao đẳng “ba chung” những năm đầu tiên 2002-2004 hay Trưởng Ban tổ chức thi Olympic Toán quốc tế lần đầu tiên tại Việt Nam với sự tham gia của 93 nước và vùng lãnh thổ,... Đôi khi tôi nói vui: “Mình mới đứng ở dưới chân núi mà gió đã thổi mạnh đến thế này thì không biết ở gần đỉnh và trên đỉnh núi cao, các anh ấy còn phải chịu những cơn gió mạnh dữ dội đến đâu?”.

Như chúng ta biết, đối với giáo dục ở mỗi nước, những vấn đề sau đây là quan trọng: Triết lý và mục tiêu giáo dục, tư duy và phương pháp luận, sự phối hợp giữa gia đình, nhà trường và xã hội trong giáo dục, người dạy và người học, chương trình và sách giáo khoa, thi cử và đánh giá, môi trường và phương tiện dạy học, điều hành và quản lý, đầu tư và tài chính,... Nhưng trước tiên và quan trọng nhất là phải xác định cho được triết lý, sứ mệnh và mục tiêu giáo dục phù hợp với đất nước mình. Thực ra những vấn đề quan trọng này Bác Hồ kính yêu của chúng ta đã nói rõ ngay từ những ngày đầu tiên mới khai sinh nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Ngày 19/8/2011 vừa qua, Viện KH Giáo dục Việt Nam đã tổ chức tại trường ĐH Sư phạm TP. HCM một hội thảo về triết lý giáo dục. Đã có 13 ý kiến, tham luận với những quan điểm khác nhau về khái niệm và vai trò của triết lý giáo dục. Nhưng tất cả đều thống nhất về sự cần thiết phải có và tầm quan trọng của một triết lý giáo dục ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Thậm chí mỗi một trường phổ thông hay đại học cũng cần phải có một triết lý và sứ mệnh giáo dục áp dụng cho riêng mình. Chúng tôi rất đồng ý với quan điểm này. Trước hết cần phải có một triết lý giáo dục, rồi trên cơ sở đó xác định và xây dựng các yếu tố giáo dục còn lại. Tuy nhiên, để làm các việc này trong thời đại hội nhập và thế giới phẳng ngày nay, chúng tôi cho rằng việc tham khảo có chọn lọc những kinh nghiệm giáo dục của các nước và chú ý đến những khuyến cáo của các tổ chức quốc tế, trước hết là UNESCO, UNICEF,... sẽ giúp chúng ta giảm bớt khó khăn, bớt mày mò và đi đúng hướng văn minh của thời đại. Và cũng chỉ khi đó, nguồn nhân lực do chúng ta tạo ra mới đủ trình độ và sức mạnh để hợp tác và cạnh tranh bình đẳng trên toàn cầu.

Cố gắng học hỏi được nhiều nhất những cái hay của thiên hạ và quan trọng hơn nữa là học hỏi ngay chính những cái tốt trong lịch sử giáo dục nước nhà, một quốc gia có nền văn hiến mấy nghìn năm, sẽ giúp chúng ta bớt "loay hoay". Mà có ai, có nước nào trên thế giới này ngăn cấm chúng ta học hỏi và tham khảo kinh nghiệm tốt của họ đâu. Chúng ta học hỏi và tham khảo có chọn lọc chứ không phải sao chép (copy). Vả lại làm gì có một loại "thức ăn sẵn" nào trong giáo dục. Nhưng cũng không có nghĩa ta phải loay hoay từ đầu trong hoàn cảnh của ta, cho riêng ta. Từ tư duy đến hành động, từ triết lý đến triển khai giáo dục, cần thiết và có thể vận dụng triệt để các bài học quốc tế và lịch sử có giá trị và phù hợp với mình. Khi đó chúng ta có thể hy vọng tiến nhanh hơn (so với chính mình ở giai đoạn trước) và giảm bớt dần khoảng cách so với khu vực và thế giới phát triển. Ở đây chúng tôi chưa dám nói là chúng ta sẽ "đi tắt, đón đầu" các nước có nền giáo dục tiên tiến. Cố bám sát họ nhất có thể được đã là khó khăn, thách thức và vinh dự. Vì khi ta cố "tiến lên" thì họ đâu có dừng mà còn "tiến lên" với tốc độ lớn hơn. Nói theo ngôn ngữ vật lý thì không chỉ tốc độ mà gia tốc của các nước tiên tiến đều lớn hơn ta.

Để có một thêm một tham khảo quốc tế, chúng tôi xin nhắc lại quan điểm chỉ đạo của Chính phủ Trung Quốc đối với giáo dục, từ cuối những năm 70 của thế kỷ trước, rằng cần phải quốc tế hoá nhanh chóng, toàn diện và triệt để nền giáo dục nước này. Đã hơn 40 năm trôi qua kể từ ngày đó, nền giáo dục Trung Quốc đã tạo ra nguồn nhân lực vừa có quy mô lớn vừa có chất lượng cao, đủ sức lan toả và cạnh tranh trên toàn thế giới. (Xem thêm bài "Nguồn nhân lực-Yếu tố hàng đầu quyết định sự phát triển của kinh tế và xã hội Trung Quốc" ở Chương III.) Thật thú vị khi thấy ý tưởng "Kho trời chung, mà vô tận của mình riêng" của nhà thơ Việt Nam Cao Bá Quát (1809-1855) trong bài thơ "Thú nhàn" của ông ngày càng "nghiệm" trong kỷ nguyên toàn cầu hoá ngày nay.

Ở đây tôi không có ý định và cũng không có khả năng bàn sâu về nhiều vấn đề nóng của giáo dục, vì mình cũng chỉ là một giáo viên toán có tham gia giảng dạy và quản lý giáo dục, chứ không phải là một chuyên gia nghiên cứu sâu về giáo dục. Vì thế tôi chỉ xin lạm bàn về kinh nghiệm của một vài nước trong vấn đề chương trình và sách giáo khoa. Đây luôn luôn là một trong những vấn đề quan trọng, khó khăn và phức tạp của giáo dục mà cả xã hội và báo chí luôn quan tâm. Có rất nhiều bài báo và cuốn sách ở trong và ngoài nước viết về giáo dục, một lĩnh vực rộng lớn và vô cùng quan trọng. Xin nêu ví dụ bài báo “Nhất thiết phải thay đổi cách nghĩ, cách làm giáo dục” của nguyên Bộ trưởng Giáo dục và nguyên Phó Chủ tịch Nước CHXHCN Việt Nam Nguyễn Thị Bình mới đăng gần đây trên tạp chí Tia Sáng ra ngày 06/10/2011, trong đó Bà đã trích dẫn chỉ thị quan trọng từ Văn kiện Đại hội XI của Đảng ta là phải “đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục”. Cuốn sách [12] của GS. TSKH. Phạm Minh Hạc, nguyên Bộ trưởng Giáo dục, cũng là một tài liệu có tính hệ thống và cập nhật về giáo dục và đào tạo.

Tôi muốn nhấn mạnh vai trò vô cùng quan trọng của việc tham khảo có chọn lọc các kinh nghiệm quốc tế trong giáo dục và nói riêng là trong việc xây dựng chương trình, sách giáo khoa. Điều đáng mừng là ngay từ những ngày đầu tiên của nền giáo dục cách mạng, chúng ta đã chú ý đến điều này. Nhiều kinh nghiệm giáo dục của Liên Xô (cũ), Pháp, Trung Quốc và các nước XHCN khác đã được chúng ta tiếp thu có chọn lọc. Tôi nhớ ngày còn đi học, các cuốn sách giáo khoa phổ thông mỏng dính, kiến thức rất chắt lọc, nhưng về cơ bản vẫn "đủ chất" cho học sinh, kể cả “chất để làm người”, dù học tiếp lên đại học ở trong hoặc ngoài nước, học cao đẳng hay đi học nghề hoặc đi làm. Được vậy là nhờ chúng ta đã tham khảo cách làm giáo dục, tham khảo các sách giáo khoa chuẩn mực và rất cơ bản của Nga, Pháp và các nước khác. Nói riêng trong môn toán, các cuốn sách giáo khoa cấp II và III ngày ấy do thầy Lê Hải Châu và thầy Hoàng Tụy biên soạn vừa ngắn gọn, súc tích vừa cơ bản.

Hiện nay khi biên soạn lại và hiện đại hoá sách giáo khoa chúng ta đã chú ý hơn nữa đến việc học hỏi những kinh nghiệm quốc tế. Đó là cách làm rất khoa học, tiết kiệm và hội nhập trong thời đại "thế giới phẳng" ngày nay. Nhưng chúng tôi cho rằng cần phải mạnh dạn hơn nữa trong việc tham khảo có chọn lọc và sử dụng nguồn thông tin, sách giáo khoa trên thế giới, đặc biệt là đối với các môn khoa học tự nhiên, kỹ thuật, công nghệ, không chỉ ở bậc phổ thông mà ngay cả ở bậc đại học và sau đại học. Ngay cả đối với các môn khoa học xã hội và nhân văn, chất liệu về cơ bản đương nhiên là của chúng ta, nhưng vẫn cần xem họ thiết kế chương trình và dạy ra sao, để học sinh chúng ta luôn tiếp cận được những tư tưởng tiến bộ nhất trong văn hoá, nghệ thuật, hiểu được và hướng tới những giá trị nhân văn cao cả của thời đại ngày nay. Tóm lại là phải thấm nhuần sâu sắc phương châm "cơ bản, hiện đại, Việt Nam" của Đảng ta trong giáo dục phổ thông và cả đại học. "Trông Bắc trông Nam, trông cả địa cầu", ngẫm lại cả chiều dài lịch sử và hướng tới tương lai (cho đủ cả bốn chiều!) để học hỏi, để xây dựng con người Việt Nam mới, đậm đà bản sắc dân tộc, nhưng cũng phải đủ bản lĩnh để hội nhập và phát triển trong thế giới phẳng ngày nay, với đầy cam go, thử thách và cạnh tranh khốc liệt xảy ra trong khu vực và trên thế giới, liên quan tới phát triển bền vững, tới an ninh và chủ quyền Tổ quốc. 

Chúng tôi suy nghĩvà bước đầu thấy rằng nền giáo dục Anh quốc có những nét đặc trưng khác các nền giáo dục khác và khi nói chuyện, người Anh rất tự hào về điều này. Đó là: Giáo viên và sách giáo khoa nước Anh trước hết chú ý rèn cho học sinh, sinh viên của họ học để sáng tạo chứ không học để thuộc lòng, học chỉ để có kiến thức. Có lẽ họ là một trong số những môn đệ điển hình trung thành của nhà bác học vĩ đại nhất mọi thời đại Albert Einstein với câu nói nổi tiếng: “Trí tưởng tượng quan trọng hơn cả kiến thức" (“Imagination is more important than knowledge”). Khi nói chuyện với tôi, các nhà giáo dục Anh quốc "chê" nhà trường ở một số nước, vì dạy học sinh học thuộc lòng quá nhiều, vì "cứng nhắc" và "bảo thủ". Tôi không dám khẳng định rằng nhận định này đã khách quan chưa, là đúng hay sai, vì mình chưa nghiên cứu sâu và vì thế chưa có đủ căn cứ khoa học, giáo dục và thực tiễn. Tuy nhiên, sau khi tìm hiểu thêm tôi thấy sự "quá tự tin" đáng yêu đó của các học giả người Anh cũng có những cơ sở nhất định. Theo kết quả của một cuộc thăm dò ý kiến đáng tin cậy trên toàn thế giới, trong số 10 phát minh khoa học vĩ đại nhất của loài người từ xưa đến nay thì 4 do người Anh nắm giữ. Trong số 10 đại học đứng hàng đầu thế giới thì thường Mỹ chiếm 7, Anh 2 và Pháp 1 (École Polytechnique, thành lập năm 1794) và bốn đại học hàng đầu thế giới là Harvard (Mỹ, thành lập năm 1636), MIT (Mỹ, 1861), Oxford (Anh, 1096) và Cambridge (Anh, 1209). Nhưng sẽ rất thú vị khi phân tích kĩ lịch sử hình thành của chúng: Harvard là “con đẻ” của Oxford và Cambridge! Nói rộng ra, nền giáo dục và đại học nước Anh đã góp phần tạo ra và tiếp tục có ảnh hưởng to lớn trong vòng hai thế kỷ vừa qua đến các nước ở Bắc Mỹ, Úc, Nam Á, nam ASEAN, Hongkong và các nước khác thuộc khối Liên hiệp Vương Quốc Anh. Có thể chăng, đây cũng là một trong các lý do làm cho tiếng Anh ngày càng trở nên phổ dụng trên toàn thế giới? Theo thống kê mấy năm trước đây của Hội đồng Anh (BC): Có 370 triệu người bản ngữ nói tiếng Anh và 375 triệu người sử dụng tiếng Anh như một ngoại ngữ. Như vậy có 745 triệu người nói tiếng Anh. Con số này chắc tăng nhanh lên hàng ngày. Đó là chưa kể đến hàng tỷ máy tính trên khắp thế giới này lại chỉ được loài người "dạy" để "nói" tiếng Anh. Vì thế người ta nói: Tiếng Anh có nhiều nước nói nhất, còn tiếng Trung Quốc có nhiều người nói nhất.

2.    Canh tân đất nước nhờ giáo dục ở một số nước ở châu Á

Theo thiển nghĩ của chúng tôi, nguyên nhân “hoá rồng” trong vòng 25, 50 hoặc 100 năm qua của một số quốc gia, như Nhật Bản, Singapore, Hàn Quốc, Trung Quốc,... là khoa học, giáo dục, nguồn nhân lực và nói cho rõ hơn là nhà nước đã thực sự hiểu vai trò quốc sách hàng đầu của khoa học, giáo dục và quan tâm, chỉ đạo, đầu tư quyết liệt cho nó. Nhật Bản có Vua Minh Trị, Việt Nam có Hồ Chí Minh, Singapore có Lý Quang Diệu,... Trong cuốn sách [13], nhiều nguyên nhân, bài học kinh nghiệm quý báu của một số nước về phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ gắn với xây dựng đội ngũ trí thức đã được phân tích và đúc kết rất công phu. Tuy nhiên, trong 5 hay 7 nguyên nhân "hoá rồng" đã được đúc kết của các nước này, chúng tôi vẫn cứ muốn tìm hiểu tận cùng xem đâu là nguyên nhân chính, đâu là nguyên nhân số không (đứng trước tất cả các nguyên nhân 1, 2, 3, 4,... khác), đâu là nguyên nhân của mọi nguyên nhân. Và cuối cùng chúng tôi cho rằng nguyên nhân chính là những người lãnh đạo đất nước thực sự coi trọng khoa giáo. Sau đó là cả dân tộc đoàn kết, lao động cần cù, sáng tạo, trung thực và khiêm tốn. Hai đức tính sau cùng này vô cùng quan trọng, đến mức có thể nói: Trung thực và khiêm tốn để phát triển! Thử nhìn lại các quốc gia hoá rồng để kiểm nghiệm điều này.

Dân tộc Việt Nam ta đã rất may mắn có được một lãnh tụ sáng suốt và vĩ đại như Hồ Chí Minh, Người thực sự luôn xem giáo dục cùng với khoa học là quốc sách hàng đầu, cả trong nhận thức, lời nói và việc làm, cả trong trái tim và khối óc của mình. Người là tấm gương cần kiệm liêm chính, chí công vô tư, tấm gương khiêm tốn và trung thực. Đó cũng là cái tài của người lãnh đạo có đức và cái đức của người lãnh đạo có tài. Một dân tộc có phúc khi có được người đứng đầu tài đức vẹn toàn như vậy! Trong sách Kinh Lễ của Khổng Tử (551-479 TCN) đã viết: “Dựng nước gìn dân lấy học làm đầu”. Nay Bác Hồ dạy chúng ta: "Non sông Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay không, dân tộc Việt Nam có bước tới đài vinh quang để sánh vai với các cường quốc năm châu được hay không, chính là nhờ một phần lớn ở công học tập của các em." Đã và sẽ còn tiếp tục không biết bao nhiêu người viết, bài viết về tài năng và đức độ của Bác Hồ kính yêu của chúng ta. Tôi vẫn thích nhất câu sau đây trong Điếu văn Hồ Chủ tịch do Đồng chí Lê Duẩn, Bí thư thứ nhất BCHTW Đảng, đọc tại tang lễ được tổ chức vào ngày 09/9/1969 tại Quảng trường Ba Đình trước 100000 người tham dự: “Dân tộc ta, nhân dân ta, non sông đất nước ta đã sinh ra Hồ Chủ Tịch, người anh hùng dân tộc vĩ đại, và chính Người đã làm rạng rỡ dân tộc ta, nhân dân ta, non sông đất nước ta.” Gần đây khi đọc để góp ý cho bản thảo cuốn sách này, GS. NGND. Hà Minh Đức đã lưu ý tôi rằng Nghị sĩ người Pháp R. Aubrac, Anh hùng chống chiến tranh của Phát xít Đức, đã có những câu nói rất hay về Bác Hồ của chúng ta.

Chúng tôi xin nêu vài ví dụ để so sánh. Năm 1965, Singapore tách ra thành một đảo quốc độc lập từ Malaysia và Ông Lý Quang Diệu (NS: 1923), cựu sinh viên luật của ĐH Cambridge, nước Anh, là Thủ tướng trong suốt 31 năm, từ 1959 cho đến 1990. Với diện tích 697,25 km2, chỉ xấp xỉ bằng huyện Cần Giờ, TP. HCM, và dân số 4553000 người (năm 2010), Singapore xuất phát từ một làng chài nghèo, đến nước uống cũng không có, phải mua của Malaysia. Vì thế Thủ tướng Lý Quang Diệu ngay từ đầu đã xác định rằng nước mình không có một nguồn tài nguyên nào hết, tất cả phải nhờ cái đầu, đi lên bằng cái đầu, bằng nguồn nhân lực và tài năng. Singapore có ba nhóm người chính là Hoa, Ấn Độ và Mã Lai. Cả ba vẫn duy trì tiếng nói, văn hoá và bản sắc của mình, nhưng ngôn ngữ chính thức được sử dụng chung trong hành chính và giáo dục là tiếng Anh. Hiện nay 20% số sinh viên trên đất Singapore là người nước ngoài, có thể bằng học bổng của Singapore, nhưng sau khi tốt nghiệp đại học, có bằng thạc sĩ hoặc tiến sĩ thì ở lại làm việc tại Singapore để trả nợ. Một số trường phổ thông chất lượng cao và đại học có uy tín quốc tế của Singapore đã trực tiếp sang Việt Nam hoặc qua internet, tổ chức hội thảo du học, trại hè,... để tìm học sinh, sinh viên và NCS tài năng thu hút về học tập và nghiên cứu ở nước họ. Như vậy, họ không chỉ biết khai thác trí tuệ của 4-5 triệu người của mình mà cả hàng triệu người nước ngoài, nhất là người có tài. Sự khôn ngoan của họ lại làm tôi nhớ đến câu thơ rất hay của Cao Bá Quát “kho trời chung, mà vô tận của mình riêng”. Trong một số lần sang thăm và trả lời phỏng vấn tại Việt Nam, Ông Lý Quang Diệu cho rằng đó là lợi thế của nước mình trong hội nhập quốc tế và còn khuyên thế hệ trẻ nước ta ngày nay phải nhanh chóng thành thạo tiếng Anh thì mới làm ăn và cạnh tranh được trên thế giới.

Trong suốt 20 năm đầu khi mới thành lập nhà nước Singapore, Ông Lý Quang Diệu chỉ đạo Bộ Giáo dục nước này dùng luôn sách giáo khoa phổ thông của nước Anh cho trường học của mình, nhất là đối với các môn khoa học tự nhiên, kỹ thuật và công nghệ. Đây có lẽ là một trong số các cách nhanh nhất, khoa học nhất, tiết kiệm nhất để cập nhật, hiện đại hoá nền giáo dục và nói riêng là biên soạn sách giáo khoa, bảo đảm các nguyên tắc của khoa học sư phạm hiện đại, vì các nước phát triển lâu đời như nước Anh đã có truyền thống với nhiều chuyên gia khoa học và giáo dục rất giỏi. Đương nhiên khi viết sách giáo khoa, các tác giả người Anh đã kết hợp tài tình những kinh nghiệm truyền thống của họ được cả thế giới khâm phục với những bài học quốc tế đắt giá.

Trong khi đó Malaysia, nước láng giềng bên cạnh, thì lại chủ trương dùng tiếng Malay là chủ yếu. Kết quả là rất nhiều học sinh, sinh viên nước này bỏ ra học nước ngoài, trong đó có nhiều thanh thiếu niên, con nhà giàu, khiến mỗi năm bị chảy máu ngoại tệ nhiều tỷ Đô la Mỹ và chất lượng đại học đi xuống. Cách đây ít năm, sau 22 năm làm Thủ tướng, ông Mahathir Mohamad đã rút ra bài học kinh nghiệm đắt giá về giáo dục và yêu cầu mọi người Mã Lai hãy trở lại với tiếng Anh và cá nhân Ông gương mẫu học trước. Nói vậy thôi, nhưng có lần vào khoảng đầu những năm 2000, khi thay mặt Bộ GD-ĐT Việt Nam tham dự Hội nghị thường niên của các Bộ trưởng Giáo dục ASEAN (SEAMEC) được tổ chức tại Kinabalu (Malaysia), tôi nghe Ông phát biểu trơn tru bằng tiếng Anh thứ thiệt trong suốt một giờ đồng hồ mà không cần cầm giấy tờ, trợ lý, phiên dịch gì cả.

Một thế kỷ trước Singapore, vua Minh Trị (1852-1912) đã canh tân đưa Nhật Bản phát triển lên thành một quốc gia hiện đại, thoát khỏi nguy cơ trở thành một nước thuộc địa. Nhật Bản cũng tự xác định, nước mình không được ưu ái gì về tài nguyên thiên nhiên, ngược lại còn bị động đất liên miên, nên ngay từ đầu họ đã chú ý xây dựng và khai thác nguồn tài nguyên con người. Tinh thần thời mở cửa của vua Minh Trị được thể hiện cụ thể trong công thức:"Tinh thần, đạo đức phương Đông và khoa học phương Tây" ("Eastern ethics and Western science") do nhà công nghệ nổi tiếng Sakuma Sho-zan (1811-1864) đề xuất. Vua Minh Trị, một mặt mời các nước tư bản phương Tây vào làm ăn buôn bán, mặt khác cử hơn 200 thanh niên, sinh viên, chuyên gia trên một chuyến tàu đi tham quan học tập một năm rưỡi vòng quanh thế giới, qua Mỹ, Anh, Pháp, Đức, Nga,... Đến nước nào Đoàn cũng để lại người tiếp tục học tập và nghiên cứu, quá nửa là ở Mỹ. Ngay từ ngày ấy nước Nhật đã có sự lựa chọn rất chiến lược và cụ thể cần học cái gì, ở đâu. Sau Minh Trị duy tân, Nhật Bản đãhọc hỏi khoa học y tế và quân sự từ nước Đức, hải quân thì phần lớn học từ nước Anh và mỹ thuật, luật dân sự từ nước Pháp. Sau chiến tranh Thế giới thứ II, họ tiếp tục học được  nhiều kỹ thuật quan trọng từ công nghiệp sản xuất xe hơi của Mỹ, khoa học hạt nhân của Pháp, công nghiệp sản xuất máy móc và dược phẩm của Đức.

Hà Nội 7/2011

Nguồn: Trần Văn Nhung. Về giáo dục và đào tạo, đôi điều ghi lại. Nxb Giáo dục Việt Nam. Hn 2012

tin tức liên quan

Thống kê truy cập

114558423

Hôm nay

221

Hôm qua

2384

Tuần này

21982

Tháng này

225966

Tháng qua

122920

Tất cả

114558423