Thầy ơi! Năm nay tròn 100 năm Ngày sinh của Thầy (1925 - 2025). Một thế kỷ - rất nhiều điều muốn nói, muốn viết về thầy…Nhân dân Hà Tĩnh đã sinh ra Thầy - nhà sử học lớn và chính Thầy đã làm rạng rỡ nền sử học Việt Nam.
Thầy ơi! Năm nay tròn 100 năm Ngày sinh của Thầy (1925 - 2025). Một thế kỷ - rất nhiều điều muốn nói, muốn viết về thầy…Nhân dân Hà Tĩnh đã sinh ra Thầy - nhà sử học lớn và chính Thầy đã làm rạng rỡ nền sử học Việt Nam.
GS - NGND Đinh Xuân Lâm
Tôi có giấy gọi vào Đại học Tổng hợp Khoa Lịch sử khóa 13 (1968 - 1972) nhưng rồi “gác bút nghiên theo việc đao binh”, chưa được một ngày vào cổng trường đại học. Sau hơn 8 năm, chính xác là 8 năm 4 tháng “cầm súng xa nhà đi kháng chiến”, chiến đấu ở chiến trường B, tháng 10 năm 1976 tôi mới chính thức được đặt chân vào cổng trường Đại học Tổng hợp. Tôi vào học khóa 21 (1976 - 1980), được xếp ở khoa lịch sử. Lớp chúng tôi là lớp “đặc biệt” thứ hai sau lớp “đặc biệt” thứ nhất khóa 20 (1975 - 1979). “Đặc biệt” vì toàn lính chiến về học, trăm phần trăm đảng viên. Vì tính chất “đặc biệt” như vậy nên được xếp vào học lớp lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam. Tuổi 25 bắt đầu ngồi trên ghế giảng đường đại học.
Vào trường một thời gian ngắn, tôi nghe một số sinh viên lớp trước, thầy cô nói các “đồng chí” may mắn lắm đấy, vì được học ở một khoa giàu truyền thống khoa học, có 4 “tứ trụ”. Lúc đó chúng tôi ngơ ngác, chẳng hiểu gì cả, cũng không muốn hỏi “tứ trụ” là gì vì nhỡ “đụng chạm” thì không hay. Lính mới mà. Nhưng chẳng cần lâu. Một thời gian ngắn, không biết từ đâu, lớp sinh viên chúng tôi biết “tứ trụ” là các thầy: GS. Đinh Xuân Lâm, GS. Phan Huy Lê, GS. Hà Văn Tấn, GS. Trần Quốc Vượng. Nhiều câu chuyện thú vị về các thầy thấm dần vào chúng tôi.
Tôi học chuyên ngành lịch sử Đảng nhưng hai năm đầu học đầy đủ các môn. Thầy Lâm dạy lịch sử Việt Nam cận - hiện đại, chủ yếu là lịch sử cận đại Việt Nam. “Trăm nghe” người khác nói không bằng “một nghe” trực tiếp thầy giảng. Thầy giảng về lịch sử cận đại Việt Nam bắt đầu từ khi triều Nguyễn cai trị đất nước đến Cách mạng Tháng Tám thành công. Điều tôi cảm nhận sâu sắc nhất ở thầy là cùng với sự kiện chính xác là phương pháp giảng dạy, lối truyền đạt hấp dẫn, truyền cảm hứng cho người học một niềm tin, sự đam mê khoa học lịch sử. Cho đến nay, qua cách giảng dạy của Thầy, tôi vẫn nói với học viên của tôi điều quan trọng nhất của người thầy là truyền phương pháp, truyền lửa và phát huy năng lực sẵn có của người học. Học ở thầy, điều cốt yếu là học phương pháp và sự đam mê.
May mắn đến với tôi là sau khi tốt nghiệp (9/1980), tôi được giữ lại làm giáo viên khoa lịch sử, về tổ cận - hiện đại Việt Nam nơi thầy Đinh Xuân Lâm làm tổ trưởng. Tôi được học, làm việc cạnh thầy trong tổ chuyên môn từ năm 1981 đến năm cuối 1993, khi tôi chuyển công tác về Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. Những năm đầu tôi đi nghe thầy giảng, giúp thầy hướng dẫn sinh viên thảo luận. Thời gian đó tôi học được ở thầy rất nhiều điều bổ ích. Tôi soạn bài nhờ thầy chữa. Một chi tiết nhỏ nhưng ý nghĩa lớn tôi nhớ mãi đó là thầy chữa từng dấu chấm, dấu phẩy, mẹo câu, diễn đạt. Dấu phẩy của thầy thì không một sinh viên nào có thể quên được. Chỉ một dấu phẩy, một cái ngoặc của thầy từ dòng này sang dòng khác trong bản thảo, giáo án làm đầu óc tôi sáng lên. Sau này, tôi vận dụng cách đó của Thầy trong việc chữa luận văn, luận án cho học viên.
“Dấu chấm, dấu phẩy” đúng là chỉ tiết nhỏ so với những bộ sách lớn của Thầy. Làm giảng viên tổ lịch sử cận - hiện đại Việt Nam, tôi bắt đầu tìm đọc những công trình sử học Thầy viết riêng hoặc viết chung như: Lịch sử Việt Nam từ 1897 đến 1914, Nhà xuất bản Xây dựng, 1957; Lịch sử cận đại Việt Nam, tập I, Nhà xuất bản Giáo dục, 1959; Lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam, tập I, Nhà xuất bản Giáo dục, 1960; Lịch sử cận đại Việt Nam, tập II, Nhà xuất bản Giáo dục, 1961; Lịch sử cận đại Việt Nam, tập III, Nhà xuất bản Giáo dục, 1961; Lịch sử cận đại Việt Nam, tập IV, Nhà xuất bản Giáo dục, 1963; Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam, Nhà xuất bản Giáo dục, 2000, v.v.. Những công trình đó góp phần quan trọng giúp tôi có được như ngày nay.
Có một câu chuyện trực tiếp về chuyên môn, tôi không bao giờ quên được. Đó là dấu ấn của thầy đối với tôi trong công việc nghiên cứu, giảng dạy tư tưởng Hồ Chí Minh. Trước hết, phải nói tôi là người có “duyên nợ” với ngành Hồ Chí Minh học. Năm 1980 tôi đã làm tiểu luận tốt nghiệp đại học với đề tài Hồ Chí Minh. Năm 1987, tôi làm nghiên cứu sinh trong nước với đề tài Hồ Chí Minh với việc xây dựng nền văn hóa mới Việt Nam trước năm 1954. Đề tài thuôc mã số sử học vì lúc đó chưa nói đến tư tưởng Hồ Chí Minh, khái niệm mà đến năm 1991 mới được Đảng ta nêu ra ở Đại hội VII. Tôi đề nghị Giáo sư Đinh Xuân Lâm hướng dẫn. Trong một cuộc trao đổi ở bộ môn, Thầy nói vui: “Ông Phong điếc không sợ súng!”. Sau này nghĩ lại tôi thấy câu nói vui mà rất đúng, rất hay, như là một liều thuốc, cú hích giúp tôi có được chỗ đứng khoa học như ngày nay. Đúng là năm 1987, khi cả đất nước đang trong tình trạng khủng hoảng trầm trọng mà nghiên cứu về Hồ Chí Minh, lại là văn hóa Hồ Chí Minh để làm luận án Phó tiến sĩ thì đích thực là người “điếc không sợ súng”. Nhưng cuộc sống, nhất là đời sống khoa học lịch sử rất thú vị. Có người “điếc” thì có người “chữa điếc”. Thầy Đinh Xuân Lâm đã “chữa điếc” cho tôi thành công. Đúng là “không có thầy đố mày làm nên”. Tôi đã làm nên nhờ thầy, nhờ cây đại thụ sử học, chuyên gia đầu ngành về lịch sử cận - hiện đại Việt Nam, một trong “tứ trụ” sử học Việt Nam.
Viết đến đây không thể không viết thêm mấy dòng về Thầy của tôi, một trong những Giáo sự có đóng góp tích cực vào ngành Hồ Chí Minh học. Thầy là một trong những nhà khoa học đầu tiên hướng dẫn luận án Phó tiến sĩ về đề tài Hồ Chí Minh và tôi là một trong những người có được vinh dự đó. Thầy quan tâm và có sự hiểu biết sâu sắc về cuộc đời, sự nghiệp, tư tưởng, đạo đức, phong cách, phương pháp Hồ Chí Minh khi Đảng ta chưa đề cập tới tư tưởng Hồ Chí Minh. Sau này, từ năm 1991, khi Đại hội VII nêu cái mới “cùng với chủ nghĩa Mác - Lênin, Đảng ta nêu cao tư tưởng Hồ Chí Mịm”, Giáo sư Đinh Xuân Lâm có nhiều công trình viết chung hoặc đồng chủ biên về đề tài Hồ Chí Minh, tiêu biểu như: Góp phần tìm hiểu tư tưởng độc lập, tự do của Chủ tịch Hồ Chí Minh (Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, 1994), Hồ Chí Minh - Văn hóa và đổi mới (Nhà xuất bản Lao động, 1998), Về danh nhân văn hóa Hồ Chí Minh (Nhà xuất bản Lao động, 2001), Văn hóa và triết lý phát triển trong tư tưởng Hồ Chí Minh (Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, 2007), v.v..
Đáng kể nhất phải nói tới cuốn Góp phần tìm hiểu cuộc đời và tư tưởng Hồ Chí Minh (Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, 2008). Cuốn sách tập hợp trên 40 bài viết của Giáo sư đã được công bố trên các sách báo với dung lượng 467 trang, được chia thành 4 phần:
Phần I: Về phương pháp luận nghiên cứu Hồ Chí Minh;
Phần II: Tìm hiểu cuộc đời và tư tưởng Hồ Chí Minh;
Phần III: Về một số tác phẩm của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh;
Phần IV: Về một số công trình trong nước và ngoài nước viết về Hồ Chí Minh
Tuy kết cấu bốn phần nhưng cuốn sách vẫn cho thấy nội dung bào trùm, xuyên suốt là cuộc đời, sự nghiệp tư tưởng Hồ Chí Minh. Điểm nhấn ở đây là Giáo sư lý giải khoa học, thuyết phục con đường Hồ Chí Minh từ chủ nghĩa yêu nước đến chủ nghĩa Mác - Lênin, từ độc lập dân tộc đến chủ nghĩa xã hội. Cuốn sách cho thấy cống hiến lớn nhất của Hồ Chí Minh là sự khẳng định một dân tộc thuộc địa bị áp bức hoàn toàn có khả năng tự giải phóng. Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc phải đi theo con đường cách mạng vô sản. Luận giải mối quan hệ biện chứng giữa độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội là một đột phá sáng tạo về lý luận của Hồ Chí Minh, đưa cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác được Giáo sư Đinh Xuân Lâm phân tích thấu đáo, hết sức thuyết phục.
“Chìa khóa” trong cuốn sách là vấn đề phương pháp luận. Cùng với những luận giải sâu sắc về nội dung tư tưởng chính trị, đạo đức, văn hóa… thì phần viết về phương pháp luận nghiên cứu Hồ Chí Minh là một đóng góp đặc sắc cho ngành Hồ Chí Minh học cho đến ngày nay. Đến nay gần 35 năm từ khi Đảng ta nêu cao tư tưởng Hồ Chí Minh, việc nghiên cứu Hồ Chí Minh vẫn còn những hạn chế, bất cập mà nguyên nhân cơ bản là lúng túng về phương pháp. Lúng túng về phương pháp nghiên cứu nên việc nghiên cứu nặng về mô tả, kể lể, dẫn chứng hoặc suy diễn, thần thánh hóa, giai thoại hóa, v.v.. chưa đi sâu được vào phương pháp luận Hồ Chí Minh, chưa phát hiện được logic phát triển trong tư tưởng Hồ Chí Minh, chưa lý giải một cách thuyết phục tư tưởng Hồ Chí Minh về quy luật phát triển của cách mạng Việt Nam từ một nước thuộc địa giành độc lập dân tộc, quá độ dần lên chủ nghĩa xã hội, từ đó tìm ra quy luật của công cuộc đổi mới hiện nay ở Việt Nam.
Cuốn sách xuất bản cách đây gần 20 năm nhưng nội dung tư tưởng, đặc biệt phương pháp nghiên cứu vẫn nguyên giá trị, soi sáng ngành Hồ Chí Minh học.
Tôi viết bài báo ngắn mừng 100 năm Ngày sinh, cũng là nén nhang thắp lên ban thờ nhân 8 năm Ngày mất của Thầy (2017 - 2025). Với Thầy - một di sản đồ sộ hơn 560 công trình nghiên cứu khoa học, tham gia đào tạo hàng nghìn nghiên cứu sinh, học sinh, sinh viên trong cả nước và quốc tế, giới thiệu, truyền bá tri thức lịch sử Việt Nam và tư tưởng Hồ Chí Minh đến nhiều nước trên thế giới - bài báo nhỏ của tôi chưa nói lên được hết tầm vóc vĩ đại của cây đại thụ nền sử học Việt Nam. Mong thầy ghi nhận tấm lòng thành của một học trò nhỏ và lượng thứ cho sự sơ sài trong bài viết.
B.Đ.P
(Bài đã đăng VHTT Nghệ An Số Tết Ất Tỵ - Tháng 01/2025)
2127
2340
21519
217275
1114325557
114546953