Nhờ quen với giáo sư Đuya-rê, một nhà kinh tế học nên tôi được hướng dẫn tốt, giáo sư nói tiếng Pháp rất thạo và vợ giáo sư là một kỹ sư người Pháp. Trong đám sinh viên Việt Nam đến Liên Xô trước tôi 6 tháng có anh Trần Phú, tức Lích-vay và anh Nguyễn Xích tức Bùi Lâm tức Minh Khang, vì tôi là người làm báo nên anh em cử tôi phụ trách bích báo của nhóm sinh viên Việt Nam. Được nhận vào trường Phương Đông lúc đầu theo lớp anh Trần Phú, tuy đến muộn tôi cũng theo kịp. Nhưng muốn được học tốt hơn tôi xin vào lớp mới (3 năm) dạy bằng Pháp văn, trong lớp đó cùng học có anh Vơladimêrốp tức Nguyễn Bốn và Borigocnưi tức Trần (Xồi). Học lớp dạy trực tiếp tiếng Nga thì phải bỏ nhiều thì giờ vì Nga văn là một thứ tiếng khó học. Nhờ học tiếng Pháp là thứ tiếng tôi đã thạo nên hiểu nhanh hơn và tôi có nhiều thì giờ đi thư viện có thể nói tôi là người đi thư viện nhiều nhất. Anh Rục đối với tôi rất thân mật, anh là người Việt Nam được nhận là đoàn viên Cômxômôn đầu tiên, anh cũng là người giới thiệu tôi vào đoàn. Tháng 4-1927 đồng chí Nguyễn Ái Quốc từ Quảng Châu sang Liên Xô gặp chúng tôi tại trường Phương Đông, lúc đầu đến khách sạn Quốc tế người ta gọi đồng chí là đồng chí Vương, người gầy, má hơi hóp, mất vài chiếc răng. Về sau mới biết đó là đồng chí Nguyễn Ái Quốc. Đến trường Phương Đông lúc đó chỉ có 3 sinh viên trường đã từng gặp đồng chí là anh Trần Phú, anh Lê Hồng Phong đã từng gặp đồng chí ở Hương Cảng, còn anh Nguyên Thế Rục gặp đồng chí ở Paris. Đồng chí Vương gặp chúng tôi như những người quen biết lâu ngày, đồng chí đưa giấy căn cước đã xé làm đôi cho chúng tôi xem và nói với chúng tôi rằng trước kia đồng chí tưởng là một vật không cần đến nữa, nhưng từ khi ở Quảng Châu bị lộ, nhờ có nó đồng chí mới thoát khỏi bọn mật vụ của Tưởng. Trong khi đồng chí Vương được đưa đi nghỉ mát ở Crimê thì anh em Mạc Tư Khoa họp nhau bàn về việc tổ chức nhóm cộng sản Việt Nam. Những người dự cuộc họp tại buồng ngủ của anh Nguyễn Xích có anh Nguyễn Thế Rục, anh Trần Phú, Ngô Đức Trì (tức Iem-an), anh Nguyễn Xích và tôi tức Giao-ô, anh Lê Hồng Phong lúc đó còn học trường phi công ở Lêningrát nên không có mặt. Chúng tôi thảo luận rất náo nhiệt là cần hay chưa cần tổ chức nhóm cộng sản người Việt Nam. Rút cuộc ý kiến nên tổ chức nhóm cộng sản Việt Nam ngay đã được đa số tán đồng. Anh Phông Sông và tôi là hai đoàn viên Cômxômôn cố nhiên là người mong muốn mình trở thành người cộng sản chính thức. Nhóm quyết định cử anh Trần Phú làm bí thư. Khi đồng chí Vương từ Crimê trở về đến thăm và biếu chúng tôi mấy đồ chơi làm bằng ốc xà cừ để từ biệt, thì chúng tôi liền trao cho đồng chí Vương bản quyết nghị và danh sách các đồng chí cộng sản trong nhóm vừa tổ chức để đồng chí đưa lên Kimintec. Về sau bức thư của Bộ Phương Đông gửi trường Đại học Cộng sản Stalin kèm theo chữ ký của đồng chí đại diện bộ phận latin và đồng chí Nguyễn Ái Quốc, còn giữ tại Viện BTCMVN nước ta. Trong bức thư ngày 24-6-1927 đó có ghi tên 5 đồng chí trong nhóm cộng sản mới thành lập, đồng chí Nguyễn Ái Quốc sau đó sang Châu Âu rồi về Thái Lan (lúc đó gọi là Xiêm La). 5 anh em chúng tôi trở thành người cộng sản kể từ năm 1927. Con đường đi từ lòng yêu nước chân chính đến chủ nghĩa Cộng sản trong đời tôi bắt đầu từ đó. Anh Nguyễn Thế Rục về Pháp, anh Lê Hồng Phong về Mạc Tư Khoa lại vào học trường Đại học Phương Đông. Qua năm 1929 một tin từ Hồng Kông báo cho biết việc phân khai giữa Đại hội của Hội thanh niên Cách mạng đồng chí bấy giờ, trong nước anh em đã đặt ra sự cần thiết tổ chức môt đảng cộng sản. Anh Ngô Sĩ Quyết và anh Quốc Anh bỏ Đại hội thanh niên về nước rồi Đông Dương Cộng sản Đảng thành lập ở Bắc Trung kỳ. Anh Lê Hồng Phong và tôi báo cáo tin đó lên Đông Phương bộ, anh Đuy-cơ-ru, đại diện Đoàn thanh niên Pháp trong Quốc tế thanh niên cùng chúng tôi ban bạc sưu tầm tài liệu để Đông Phương bộ nghiên cứu. Ông Míp và ông Wôn phụ trách về Đông Dương trong Đông Phương bộ cũng nghiên cứu về vấn đề tổ chức đảng cộng sản thống nhất trên toàn cõi Đông Dương. Anh Trần Phú bị ốm không tham gia được. Bức thư của Quốc tế Cộng sản gửi cho những người cộng sản Đông Dương xuất hiện từ những sự nghiên cứu tình hình một các tỉ mỉ đó. Bức thư khuyên những người cộng sản phải nhanh chóng thống nhất thành một đảng cộng sản trên toàn Đông Dương. Sự chia rẽ thành những nhóm cộng sản kình địch nhau là rất nguy hại. Bức thư đó được gửi sang đảng cộng sản Pháp có chữa ít dòng để thích hợp với hoàn cảnh công khai của những người cộng sản Pháp, còn gửi cho những người cộng sản Đông Dương thì vẫn để nguyên bản, sự chú ý tỉ mỉ đó là một bài học cho những người làm công tác bí mật. Nhân anh Trần Phú về nước, Quốc tế Cộng sản giao cho anh cầm bức thư ấy về. Chính anh đã dựa vào những luận điểm cơ bản trong bức thư ấy đưa vào các tài liệu nói về phong trào thuộc địa, nhất là dựa vào đề cương thuộc địa (thèses coloniales) của Đại hội thứ 6 của Quốc tế Cộng sản, những tài liệu tình hình trong nước thì anh Trịnh Đình Cửu cung cấp để thảo ra luận cương chính trị đầu tiên của Đảng ta. Tháng 6-1930, sau khi tốt nghiệp tôi chuẩn bị về nước. Từ Liên Xô về tôi phải đi vòng sang Pháp để tìm đường về Sài Gòn có thể qua Hồng Kông. Anh Lê Hồng Phong đưa cho tôi một địa chỉ. Sang Pháp chuyến này phải đi theo tàu buôn Liên Xô đến Hăm-bua rồi từ Hăm-bua đến biên giới Đức, Bỉ. Các đồng chí người Đức tiếp tôi ở Béc-lanh rất niềm nở, giúp tôi chu đáo và đã nói với tôi những lời vàng ngọc “Bạn về làm việc cho phong trào cộng sản quốc tế, chúng tôi rất tin cậy ở bạn”. Những lời căn dặn đó tôi còn nhớ đến nay. Kết hợp công tác giải phóng dân tộc với công tác giải phóng giai cấp công nhân là khâu quyết định của mọi thắng lợi của phong trào cộng sản quốc tế. Các bạn Đức cho tôi đi theo một chiếc xe đầy hàng từ Đức đến gần biên giới Bỉ rồi từ đó tôi được dẫn bò qua hàng rào dây thép gai phân chia biên giới hai nước. Khi qua lọt hàng rào thép gai đến nhà trọ tôi chia tay người bạn Đức. Chúng tôi ôm hôn nhau với tình thân thiết bạn bè, về Bỉ rồi thì coi như đến nước Pháp không xa nữa. Đến Paris tôi chỉ ở lại vài hôm phải chuẩn bị hành lý để mau chóng về Mác-xây.
Đến Sài Gòn thoát lên bến không phải là khó lắm nhưng vì chưa bắt được mối lỡ ra bị tóm thì không lợi nên tôi phải ngược lên Hồng Kông. Đến Hồng Kông tìm khách sạn mà anh Lê Hồng Phong đã trao địa chỉ cho, nhưng không may địa chỉ đó đã lộ nên chưa thấy ai tiếp mình cả, chỉ thấy một người Tàu cao cao hình như đến để dò la gì. Tôi ba chân bốn cẳng phải bỏ nơi đó đến một khách sạn khác nhờ người ta làm cho một giấy đảm bảo đi mua vé tàu đi trên một chiếc quan thuyền từ Hồng Kông đi Sán Đầu. Tôi đi trên thuyền không biết tiếng Quan thoại mà cũng chả biết tiếng Quảng Đông, giao thiệp với người ta tôi chỉ viết mấy chữ nho học khi còn bé nên xem ra cũng có ích. Đến Sán Đầu tôi tiếp tục bỏ tiền mua giấy bảo đảm đi Thượng Hải. Đến Thượng Hải bấy giờ mới thấy cái đồ sộ của nó. Tô giới Anh, Mỹ, Nhật rất lớn, tôi biết tô giới Pháp ở ngay bên cạnh nhưng không dám bén mảng tới, lúc đó tôi đóng vai một công tử, thuê ngay một phòng khá đắt tiền tại phố Thiên Tân nhưng ăn uống thì rất dè sẻn, một gói bánh bao ăn hai bữa trừ cơm.
Việc thứ nhất là phải tìm cách bắt liên lạc với một cơ quan của Đông Phương bộ tại Thượng Hải, trong buổi đó tôi đến một tờ báo Trung Quốc đăng quảng cáo tìm chỗ dạy tiếng Pháp. Hai ngày sau có một người lạ mặt đến tìm tôi với chiếc ảnh nhỏ của tôi đã để lại Mạc Tư Khoa. Họ trao lại cho tôi một hộp diêm nhãn Hương Cảng làm mật hiệu, thế là sớm hôm sau tôi đã đến cơ quan tiếp đón của Bộ Phương Đông. Đến đó tôi không ngờ gặp đồng chí Vương và đồng chí Trần Phú. Chúng tôi rất vui mừng khi gặp lại nhau. Hai đồng chí ta đến đó để trình bày luận cương chính trị cùng điều lệ của Đảng để Bộ Phương Đông đóng góp ý kiến. Chúng tôi cùng nhau duyệt kỹ bản luận cương chính trị và điều lệ của Đảng Cộng sản Đông Dương một lần nữa. Ở lại đó mấy ngày rồi chúng tôi mới mua vé tàu về Hương Cảng.
Nghĩ cũng hay hay, không biết một tiếng Tàu, chỉ nhờ cuốn tự vị Pháp Anh và một ít chữ nho, tôi đã thực hiện việc bắt liên lạc với cơ quan Bộ Phương Đông ở Thượng Hải, xong công việc đó tôi không còn lo gì nữa vì đã có đồng chí Vương. Về đến Hương Cảng, đồng chí Vương lúc này còn gọi là đồng chí Lý đưa tôi và anh Trần Phú về cơ quan, đồng chí Lý rất cẩn thận đi qua cơ quan trên 100m ngoảnh lại nhìn không thấy ai theo mình mới trở lại đưa chúng tôi vào nhà, ở đấy đã có anh Hồ Tùng Mậu, Ngô Đức Trì, cô Đức và cô Thuần Đức nói tiếng Tàu rất thành thạo, anh Mậu phụ trách liên lạc với các thủy thủ người Trung Quốc, chuẩn bị đầy đủ cho chúng tôi về Sài Gòn, anh Trần Phú, Ngô Đức Trì và tôi cùng về một chuyến tàu. Trước khi từ biệt Hương Cảng chúng tôi bắt tay đồng chí Lý tỏ vẻ cảm ơn đồng chí đã săn sóc chúng tôi chu đáo. Đồng chí Lý lúc này vẫn gầy, thỉnh thoảng ho khọt khẹt nhưng đôi mắt đầy sức sống từ biệt chúng tôi, bắt tay với đầy niềm tin vào tương lai.
Tôi về cơ quan Thường vụ Trung ương Đảng cùng với anh Trần Phú và Ngô Đức Trì. Sau nửa tháng, ban Thường vụ quyết định tôi phụ trách việc tuyên truyền và cổ động của Trung ương Đảng. Tôi không có chân trong Ban Công vận nhưng vẫn cùng anh Giáp, Nhật và Kiệt trong thời gian đầu họp bàn tổ chức Tổng công hội Đông Dương. Ban Thường vụ cũng dự định giao cho tôi cùng Lý Tự Trọng phụ trách tổ chức Đoàn thanh niên cộng sản. Nhưng tiếc thay tôi mới chuẩn bị bản điều lệ của đoàn chưa được bao lâu thì tôi cũng như Trọng đều bị bắt. Trong một thời gian ở cùng với anh em bồi bếp để tránh lộ bí mật, thỉnh thoảng tôi cũng đến cơ quan Thành ủy Sài Gòn. Bất ngờ tôi gặp lại Nguyễn Khoa Văn, Văn rất vui mừng đoán tôi ở Liên Xô mới về. Tôi biết Văn từ năm 1925 khi Văn đi xe đạp còn hụt chân. Văn biết tôi lần đầu tiên trong lúc tôi cùng cụ Phan Bội Châu và Trần Đình Nam ăn cơm tại nhà bà Đạm Phương (mẹ Văn). Văn coi tôi như người anh và rất kính trọng. Tôi cũng được gặp Năm Thái phụ trách Tổng công hội Nam Kỳ, người có khẩu súng mà Lý Tự Trọng đã tạm mượn để tham gia tự vệ trong cuộc mít tinh kỷ niệm Yên Bái bạo động tại sân banh Sài Gòn.
Một hôm tôi vừa ngủ dậy tại cơ quan Thường vụ Trung ương thì anh Bùi Lâm đến đưa cho tôi một bộ quần áo bà ba mới toanh để sang cơ quan huấn luyện trung ương. Đến đó tôi gặp lại anh Hoàng Tuyền (tức Não) chính Hoàng Tuyền trước học Quốc văn với tôi tại trường Nguyễn Phan Long. Thầy trò bây giờ đã thành bạn đồng chí. Tôi giảng cho anh em về chủ nghĩa Mác-Lênin và đường lối chính trị của Đảng trong lúc đó. Ngót một tuần, tối hôm thứ bảy bỗng nhiên đèn tắt. Một anh trong các đồng chí được huấn luyện đi mua đèn cầy về chăm chỉ lau khẩu súng lục. Các đồng chí ta tán với nhau: “Nếu mật thám đến đây thì sẽ nổ súng”. Nói chuyện mãi đến khuya mới đi ngủ, tôi thì còn thao thức suy nghĩ dàn bài để giảng nốt hôm sau. Bỗng nhiên nghe có tiếng gõ cửa với giọng ngoại quốc: “Mở cửa”. Anh em biết là mật thám liền nhảy lên mái nhà và bắn lại chúng. Mấy anh em thoát được, còn lại những anh chị em khác đều bị bắt, ba người bị mật thám bắn bị thương trong đó có một chị bị thương ở đùi, một anh bị thương ở bụng. Chúng đạp cửa vào bắt chúng tôi đưa tay lên, chúng còng chúng tôi lại nhưng không đưa ra xe ngay để cho bọn chúng tôi xem kịch chúng dàn xếp, chúng thị oai đánh nhừ tử hai anh Oanh và Vô bị chúng bắn bị thương trong khi tẩu thoát. Sau trận đánh phủ đầu đó, chúng đưa chúng tôi lên xe đi sát sau một chiếc xe bịt bùng có khoét một lỗ nhỏ, sau chúng tôi mới rõ là chiếc xe chở người chỉ nhà chúng tôi cho chúng bắt. Đến bót Catina thì bọn mật thám dồn chúng tôi vào một phòng, xúm nhau đánh chúng tôi một trận khủng khiếp rồi còng chéo tay mỗi người và còng chân chúng tôi vào một xâu, anh Vô là người bị thương ở bụng đau quá kêu la inh ỏi nhưng chúng vẫn thản nhiên, máu ra nhiều anh khát nước nhưng chúng chẳng cho một hớp, chúng tôi là người xấu số cùng cảnh ngộ thương anh ấy vô cùng!
Giữa đêm khuya anh Hoàng Tuyền lấy tay viết sau lưng tôi bảo rằng chịu tất cả những tang vật bị bắt và bảo tôi nên khai là mới đến trọ nhà anh từ hôm qua vì trước kia anh là người học trò của tôi. Cũng trong phòng nhốt chúng tôi cờ đỏ và khẩu hiệu rất ngổn ngang bên đường, tôi đoán đó là những thứ chúng mới bắt được. Anh Hoàng Tuyền lấy tay viết sau lưng tôi cốt để không ai nghe thấy ngay cả microphone cũng không thể ghi âm được. Chúng tôi thường nói chuyện với nhau bằng cách ấy trong thời gian cùng bị giam chung. Bọn mật thám Đông Dương cố tìm tung tích tôi đã lâu. Ngay hôm sau bị chúng bắt, chúng đã đưa đến một cái ảnh cũ của tôi để nhận diện, chúng cho bắt được tôi như săn được một con vật béo. Đưa tôi lên phòng lấy cung nghĩa là đến phòng tra khảo, chúng bắt đầu đánh tôi một trận cho sướng tay. Thằng cò lai Rossi như một con cọp dữ với bộ mặt tai tái nghiến hai hàm răng lại và nhìn tôi: “Ông không khai à!”. Nó tự tay đánh tôi rồi chỉ bọn chó săn đánh tiếp, chúng đạp lên lưng tôi, cầm hai cánh tay tôi bị còng chéo lật ngược ra đằng trước làm cho tôi ngạt thở, mỗi lần làm xong trò đó (về sau tôi mới biết là “lộn mề gà” chúng lại đạp lên lưng tôi rồi đánh roi cặc bò vào hai lòng bàn chân, đánh cho đến lúc tôi chỉ còn nghe văng vẳng như ai nhịp bên tường cho đến khi lịm đi không còn biết gì nữa. Sau khi chúng đưa tôi về xen-luyn tỉnh dậy mới thấy hai bàn chân ứ máu tím đen, cả người ê ẩm nhức nhối, mệt mỏi rã rời, người không ra người nữa, chỉ được nghỉ một buổi chiều, hôm sau chúng lại đưa lên phòng mổ. Lúc này tiếng mở khóa xen-luyn làm cho tôi rất khó chịu. Bọn chó săn cầm dây kéo tôi đi sang cái sân đầy sen, lúc đó tôi cảm giác như đi trên lửa than. Sao lúc này tôi hèn thế? Trong đầu óc lo lắng đến thế? Hai chân đi run run, lên đến cầu thang gác thì tôi mới trấn tĩnh lại. Trong óc không còn sợ nữa, tôi nghĩ bây giờ chỉ còn chịu đựng thôi, đây mới là một thử thách. Hôm ấy chúng lại bày một trò mới, hai tên chó săn đứng hai bên dùng điện đánh bốc thoi vào đầu, mặt, ngực, bụng tôi xem như một quả banh, xong trận đó chúng lại lộn mề gà làm tôi ngạt thở chết ngất, chúng chỉ còn cách vất vào xen-luyn. Khi tỉnh lại đã thấy bên tôi có một người thường phạm mà có lẽ vì thiếu buồng nhốt nên bọn lính kín vất ẩu vào đó thôi. Thật là một người tù tốt bụng, anh xoa bóp cho tôi và bảo tôi uống nước tiểu của mình sau khi bị đánh bầm tím, nhờ đó mà dần dần đến hôm sau tôi mới thấy dễ chịu. Nằm ở xen-luyn anh Ngô Gia Tự coi ngủ ỳ là thượng sách, còn muốn giết thời gian và giữ vững tinh thần trong những ngày nằm xen-luyn, tôi thường hát và làm thơ.
Phải sống cho đời sống, tôi luôn luôn lạc quan là nhờ cái triết lý đó. Thấy tôi đã yếu lắm không tra khảo được nữa nên chúng để cho tôi nằm yên mấy ngày, chúng cho tôi ăn tốt hơn, thay đổi phương pháp và tìm cách dụ dỗ. Chúng bảo: “Ông đã bắn vào nhà chức trách, theo luật pháp thì ông có thể bị tử hình. Nhưng nếu ông khai đi thì có chỗ châm chước”. Tôi trả lời là đã khai hết cả rồi không còn gì nữa.
Một buổi chiều bọn mật thám đưa tôi cùng các anh em khác ngồi dựa bên hành lang, chúng kéo mấy anh còng tay và vác theo sau một khẩu súng liên thanh chúng mới đào đâu lên được, tôi liếc mắt nhìn thì một trong những người bị còng tay đi theo là anh cai Lợi lính khố đỏ. Sau tốp đó chúng kéo một thanh niên mặt mày bầm tím chân đi xiêu vẹo qua hàng người ngồi dựa hành lang. Người thanh niên đó chính là Hai tức Lý Tự Trọng mà anh Phú đã giới thiệu cho tôi tháng trước. Bọn mật thám bảo Trọng trong số người ngồi đó ai là kẻ đưa súng. Trọng một mực lắc đầu cắn răng chịu đựng tiếp đòn chúng đánh vào những vết thương vừa bị tra tấn. Chúng tôi nhìn Trọng với đôi mắt tỏ lòng biết ơn đối với người chiến sĩ trẻ tuổi. Nếu Trọng mất tinh thần chỉ vào một người nào thì người đó sẽ mang một tai vạ không lường được. Bị tra tấn và giam trong xen-luyn chỉ trong 10 ngày mà tôi đã xơ xác không còn ra người nữa, hai chân bị tê bại mỗi khi đi phải có người dìu. Trong những ngày giữa tháng bảy, cứ mỗi chiều thứ bảy là nghe bọn mật thám xì xào bàn tán chuẩn bị đón Nguyễn Ái Quốc, chúng tưởng đế quốc Anh sẽ giao đồng chí Nguyễn cho chúng. Trong lúc bọn mật thám xì xào bàn tán với nhau tôi rất lo cho số mệnh đồng chí Lý, nhưng cũng may là mỗi thứ bảy chúng xuống tàu đón thì lại về không.
Một buổi sáng, một tên mật thám đến xen-luyn mở còng chân cho tôi và dẫn tôi ra xe bít bùng đi Khám lớn. Người tôi nhẹ nhõm mừng thầm thoát khỏi cảnh địa ngục Catina. Chiều hôm trước, khi 5 giờ bọn mật thám đã đưa tôi đi tắm, giữa đường đến giếng tôi bắt gặp anh Bùi Lâm, râu ria xồm xoàm như lão cố đạo, anh nhìn tôi và lắc đầu bảo ngầm cho biết là anh không khai gì đến tôi cả, mà thực vậy, chưa khi nào bọn mật thám đưa anh đến đối diện với tôi. Trong tháng bảy bọn mật thám lôi tôi ra bót Catina một lần cuối vì chúng thấy tôi đã quá yếu.
Trong tháng 5-1931 tôi gặp anh Trần Phú cũng bị đưa vào khám 6, anh Phú bị bệnh lao hạch cũng yếu hơn tôi nhiều. Tôi phụ trách giảng chủ nghĩa Mác-Lênin cho anh em trong khám. Anh Trần Phú tuy rất yếu nhưng cũng cố gắng giảng một số bài. Ở Khám lớn tôi ăn rất nhiều nhưng không tiêu, đi ngoài còn thấy nguyên cả hạt cơm, hai chân tê đến nỗi sau hai mươi tháng vẫn chưa đi vững được. Hôm người ta đưa tôi đi bót Catina trong tháng bảy thì anh Phú cũng đi vào Chợ Quán chữa bệnh, ngoài bệnh lao hạch anh còn bị bệnh đậu lào trong người nổi những hạt bé tí như trẻ con lên sởi, có lẽ vì bệnh đậu lào mà anh chóng mất. Lúc còn sống, anh thường mơ ước được ra Côn Đảo chăn gà. Nhưng khi chúng tôi trồng rau nuôi gà ở Côn Đảo thì anh không còn nữa.
Thuốc lá đối với anh Trần Phú là một vật quý, trong nhà lao lại càng thấy quý. Hễ có một điếu được ai cho thì anh cùng anh em chia sẻ, một điếu thuốc có khi chia làm tư lấy giấy cuộn lại làm ống điếu để hút. Anh Trần Phú lúc còn đang ở cơ quan Trung ương, thấy bệnh tình của mình mỗi ngày mỗi tăng thường nói với tôi là đời anh không còn bao lâu nữa, anh cần tận dụng những thì giờ còn lại của đời mình để phục vụ cách mạng. Mặc dù anh phê bình anh em Nghệ Tĩnh về thái độ đối với trí thức và phú nông là tả khuynh (nhổ tận gốc, trốc tận rễ trí phú địa hào) nhưng ngay trong bản Luận cương chính trị của chúng ta cũng chưa đánh giá hết vai trò của giai cấp tư sản trong một nước kinh tế còn lạc hậu. Phong trào công nông lên cao thì cái thái độ lơ là của họ từng khi dễ trở thành thái độ cảm tình và chống lại đế quốc. Kinh nghiệm trên bốn mươi năm chiến đấu chống bọn đế quốc phong kiến ở nước ta đã chứng minh rõ rệt điều đó.
Mãi đến tháng 9-1931 mới nghe tin anh Trần Phú mất, tôi là người bạn học của anh từ Mạc Tư Khoa, đã từng cùng anh ở chung một nhà tại Sài Gòn cuối năm 1930 đầu năm 1931 nên tôi rất cảm động. Một bài thơ thương tiếc khóc anh đã được ghi lại:
CƯỜI ĐI ANH TRẦN PHÚ ƠI!
Anh vô Chợ Quán tôi ra bót,
Hai đứa cùng đi về một thôi!
Người bã lưng cùng đành nuốt hận,
Một thề quyết thắng trả thù ai.
Hồn anh đèn dọi đường muôn dặm,
Giữa bước âm u của cuộc đời.
Đau khổ thấm nhuần say chân lý
Ta đoàn người tiến mãi không thôi
Lửa nghĩa khí đốt khi nước mắt,
Phải hy sinh để cứu lấy đời.
Lòng nhớ nhớ lời tin chiến thắng,
Hãy cười đi anh Trần Phú ơi!
Tháng 9 năm 1931