Góc nhìn văn hóa
Thầy Lê Trí Viễn trong niềm biết ơn của tôi

Giáo sư - NGND Lê Trí Viễn
1. Ơn thầy từ khi mới bước chân vào giảng đường để “biến quá trình đào tạo thành quá trình tự đào tạo”
Chúng tôi nhập học năm 1973 và kết thúc niên khóa vào năm 1977. Đó là những năm tháng đất nước vừa có chiến tranh vừa có hòa bình và kết thúc bằng Đại thắng mùa Xuân 1975, tiến tới thống nhất Tổ quốc. Bởi thế, dường như chúng tôi có điều kiện để được đào tạo bài bản hơn với một tầm nhìn xa hơn cho sự nghiệp giáo dục mới. Sau này tôi mới biết Thầy cùng Ban Chủ nhiệm khoa và tất nhiên, cả Ban Giám hiệu của Trường đã rất nỗ lực đổi mới phương thức đào tạo với khẩu hiệu: “Biến quá trình đào tạo thành quá trình tự đào tạo”, giúp cho sinh viên không chỉ nâng cao tiềm lực khoa học cơ bản mà còn cả kỹ năng sư phạm và những kiến thức bổ trợ khác. Tôi nhớ nhất những hoạt động sau đây mà Thầy Lê Trí Viễn đã rất tâm huyết tổ chức và chỉ đạo. Đó là lớp năng khiếu Hội họa mà Khoa mở ra cho các SV yêu thích nghệ thuật (nhờ lớp học ấy mà tôi được làm quen và thân thiết với cố thi sỹ tài hoa Trần Hòa Bình....). Thú vị nhất là lớp Hán - Nôm (chúng tôi quen gọi là lớp Cổ văn - do Thầy Đặng Đức Siêu biên soạn giáo trình và chủ nhiệm, dạy suốt 4 năm, cấp chứng chỉ của Trường, giúp cho nhiều anh chị em chúng tôi có chút vốn Hán - Nôm rất cơ bản để thực hành sau này). Suốt khóa học, Thầy và khoa kiên trì thực hiện các buổi ngoại khóa về văn học - nghệ thuật, các buổi trao đổi, hội thảo trong lớp - liên lớp. Tôi còn nhớ, hết năm thứ 3 Thầy và thầy Nguyễn Đình Chú đã chọn và cho phép tôi cùng các anh chị khóa trên sang báo cáo kết quả bài tập niên luận và khóa luận tại Hội nghị khoa học của sinh viên khoa Ngữ văn Trường ĐHTH Hà Nội, nhân dịp Kỷ niệm 20 năm ngày thành lập Trường. Cuối khóa ấy, Thầy cho tổ chức Hội nghị nghiên cứu khoa học của sinh viên trong khoa, chọn những báo cáo rất chất lượng để trình bày. Tôi được chọn báo cáo tóm tắt Luận văn Tốt nghiệp, do thầy Nguyễn Đình Chú hướng dẫn và tặng phẩm là một cuốn sách, qua bao lần thiên di vào Nam ra Bắc nhưng tôi vẫn trân quý giữ gìn.
Cuối năm thứ 4 để chuẩn bị cho các sinh viên được chọn làm Luận văn Tốt nghiệp, Thầy và khoa tổ chức lớp bồi dưỡng chuyên đề về Văn học dân gian do thầy Đỗ Bình Trị phụ trách. Yêu cầu của lớp học này không chỉ cung cấp kiến thức về đặc trưng thể loại, phương pháp phân tích tác phẩm VHGD... mà cơ bản là để rèn luyện, tập dượt phương pháp NCKH. Thầy Đỗ Bình Trị nổi tiếng cẩn trọng, nghiêm khắc đến từng cử chỉ, ngôn từ... nên chắc thầy Lê Trí Viễn đã “chọn mặt gửi vàng”. Nhờ thế, sau này chúng tôi vào đời không mấy bỡ ngỡ và nhiều người “ăn nên làm ra” về học thuật.
Điều lạ là, bất kỳ lớp nào, hoạt động nào của Khoa mở ra, Thầy đều có mặt, thăm hỏi, động viên. Ngày khai mạc, Thầy nêu mục đích, ý nghĩa và nói đôi lời tâm nguyện, rồi dặn dò cán bộ và SV những điều tỉ mỉ. Thế tôi mới biết, tất cả những lớp học, những hoạt động để SV trong khoa thành tài, đều có tâm sức của Thầy. Nói ví như câu chuyện này, lần ấy cô Đặng Thanh Lê dạy chúng tôi về Nguyễn Du và “Truyện Kiều”, thầy Lê Trí Viễn tới giảng văn bài “Thúc Sinh từ biệt Thúy Kiều”. Nghe tôi đọc và trả lời nhiều câu hỏi, thầy rất khích lệ. Rồi bỗng một hôm tôi nhận được giấy của Phòng tuyên huấn mời làm cộng tác viên (phát thanh và viết bài, cùng với một bạn nữ khác, trong khối và trong khoa). Sau này mới biết đó là do Thầy giới thiệu. Dường như Thầy không bỏ sót chút khả năng nào của học trò và luôn động viên, tạo điều kiện cho họ có sân chơi để phát huy tận độ năng lực. Khi tôi học năm cuối, Liên Chi đoàn và Giáo vụ khoa tổ chức mấy buổi ngoại khóa, chọn mấy người khối lớp trước, nói chuyện về phương pháp học tập cho khối lớp sau, tôi được yêu cầu nói sâu về việc luyện đọc, đọc hiểu văn bản, ghi chép, sắp xếp các phiếu tư liệu và tập viết những đoạn bình văn. Người gắn bó và phụ trách nhóm chúng tôi (mà tôi nhớ là có Bùi Mạnh Nhị, Trần Hòa Bình...) là thầy Nguyễn Viết Hưng. Lần ấy Thầy Viễn không khai mạc. Nhưng ngay sau buổi thứ nhất vừa tan, tôi thấy Thầy bước ra từ chỗ ngồi của SV, vẫy tay gọi tôi lại. Thầy khen: “Hương nói tốt lắm, có nhiều việc làm cụ thể, thiết thực, hữu ích. Nhưng Thầy góp ý, cần nhấn mạnh thêm về việc xác định nhịp, mạch thơ khi đọc thì mới phát hiện được dòng tâm trạng - cảm xúc của bài thơ. Với lại, khi viết lời bình thì phải đặc biệt chú ý đến ngôn từ - hình ảnh. Ngôn từ là yếu tố thứ nhất của văn học, phải cày tung văn bản lên...” (sau này, nhiều học trò cứ nghĩ chữ “cày tung văn bản lên” là của tôi. Nay xin chú thích lại: đó là chữ của Thầy tôi đấy!). Lời Thầy nhỏ nhẹ, giữa cái ồn ào kết thúc buổi ngoại khóa, nhưng tôi nhớ để đời...
Để rồi sau này, tôi đã học Thầy, đã vận dụng tất cả những gì mà niên khóa của tôi được Thầy, được khoa dẫn dạy trong một môi trường công tác nơi vùng đất xa xôi phương Nam và lớp đàn em, giờ đã trưởng thành!
2. Gặp lại Thầy ở thành phố mang tên Bác và những khích lệ định hướng nghiên cứu cho trò
Khi tôi ba lô, túi xách rời khoa, rời trường đi nhận công tác ở phương Nam thì Thầy còn ở lại đất Bắc. Năm sau, Thầy mới cùng gia đình hồi cư, sống ở Sài Gòn. Tôi ở Đà Lạt rồi chuyển xuống Đồng Tháp tham gia gây dựng Trường CĐSP cho địa phương. Nhờ bạn Bùi Mạnh Nhị mà tôi có vài lần gặp Thầy tại nhà riêng. Lên thăm Thầy, tôi có chút quà quê nhỏ mọn, nhưng lần nào tôi cũng bị Thầy trách: xa xôi nắng gió thế này, “tay xách nách mang” làm gì cho khổ. Rồi thế nào Thầy cũng phải kiếm được thứ gì đó, ấn vào tay cho kì được, bắt mang về.
Có lần Thầy bảo: “Mình quen uống nước lọc, nhưng giờ cũng có thú uống trà. Phải uống loãng thôi không thì cao huyết áp. Uống trà thú lắm! Các bạn cũng nên uống chút, vừa thưởng thức hương vị, vì kích thích trí óc đấy!”. Rồi thầy tự pha trà thật ngon tiếp chúng tôi. Có lần thầy cho chúng tôi cặp vé đi xem đoàn nghệ thuật gì đó của Liên Xô (cũ) sang biểu diễn, có lần là vé xem đoàn kịch ngoài Bắc vào diễn vở gì đó của Lưu Quang Vũ. Nhưng lần nào cũng thế, do bận bịu việc nọ việc kia, chúng tôi đều cảm ơn và xin từ chối. Thầy bảo “Tiếc nhỉ. Mình cũng chẳng đi xem được. Mà vé này thì cũng chẳng phải do chế độ ưu tiên gì của mình đâu. Của những người bạn thân quý, nghĩ đến mình họ đem đến cho đấy! Ở cái nước mình lạ vậy, mình tuy chức danh là GS nhưng “người ta” vốn chỉ có nhãn quan, quan chức thôi. Những người làm khoa học thuần túy thì chẳng mấy khi được tạo điều kiện, đãi ngộ, để toàn tâm toàn ý cho khoa học”. Tâm tư ấy của thầy thời bao cấp là sự thật, có chút ngậm ngùi xót xa...
Biết tôi được cử làm quản lý khoa, Thầy đùa bảo: “Thế là bằng Thầy ngày xưa rồi đấy!” Thầy trò nhìn nhau cả cười. Rồi Thầy căn dặn: “Có hai điều Thầy nhắc: Khoa em chắc là có một số giáo viên cấp 3 ngoài Bắc vào và giáo sinh trẻ mới ra trường. Vậy, việc trước hết là làm sao cho hài hòa giữa những người sống theo chủ nghĩa kinh nghiệm với những người trẻ hay nóng vội. Nhưng họ đều thiếu kinh nghiệm đào tạo ở môi trường sư phạm (lạ thay, làm sao thầy biết hết mọi việc nhỉ). Sau nữa là phải tập trung bồi dưỡng cho được lòng say mê và phương pháp NCKH. Tưởng là to tát, nhưng thực ra phải bắt đầu từ những việc rất nhỏ, cụ thể mà Hương và Nhị đã làm, đã truyền đạt như hồi còn là SV ấy (Thầy còn nhớ!) Nó là thế này... thế này... Thầy trò say mê trò chuyện cả buổi. Đó là ân huệ Thầy thương quý dành cho tôi. Sau này, PGS. TS. NGƯT Nguyễn Thị Ly Kha và nhiều bạn nữa hay nhắc lời tri ân về chút hướng dẫn buổi đầu lập nghiệp để các em bớt bỡ ngỡ và có định hướng đưa các em tới thành công... Không! Tôi không dám nhận là của mình đâu! Là của Thầy chúng ta nhờ anh chỉ dẫn đấy.
Từ những lần gặp ấy, Thầy đã định hướng nghiên cứu cho tôi. Thầy nói đại ý: Nam Bộ là vùng đất mới, còn nhiều lĩnh vực để khám phá lắm. Nội từ cuối thế kỷ XIX đến giờ thôi, đã có biết bao đề tài mở hướng nghiên cứu rồi. Mà giai đoạn này thì “Hương là trò của Thầy Nguyễn Đình Chú, chuyên gia đầu ngành rồi còn gì! Lợi thế ấy cần phát huy”. Thầy còn chỉ ra cụ thể: Các vị lãnh tụ nghĩa quân chống Pháp ở Đồng Tháp, phong trào Đông du ảnh hưởng đến đâu nơi vùng đất Tây Nam Bộ, cụ Nguyễn Sinh Sắc sống và làm việc những ngày cuối đời dưới đó thế nào, VHGD vùng đất mới khai phá ấy có phong phú và có những đặc sắc gì... “Em là người sở tại, phải tự làm và làm như thế mới kỹ lưỡng được. Chứ bây giờ, thời buổi đi lại khó khăn, người nơi khác đến, khó tránh khỏi “cưỡi ngựa xem hoa”... Trời ơi, tôi ngồi nghe, mắt sáng lên, như uống lấy mỗi lời Thầy!
Sau đó suốt hơn 7 năm trời gắn bó với đất Sen hồng, tôi đã chăm chỉ khai khẩn, khám phá và như người tìm được vỉa quặng, tưởng có thể khai thác mãi khôn cùng. Đó là nhờ công lao định hướng và khai mở của Thầy - một trí tuệ mẫn tiệp, “Trí Viễn” và bao quát đủ điều.
3. Thầy - Cây cao bóng cả cho học trò ở cõi trời Nam
Sau thành công ban đầu được gói ghém lại trong cuốn “Ca dao Đồng Tháp Mười”, do một nhóm anh chị em trong Khoa và Trường CĐSP Đồng Tháp biên soạn, chúng tôi có nguyện vọng đẩy tới, nâng lên thành công trình “Sưu tầm và nghiên cứu thơ văn Đồng Tháp”. Khi ấy, Bộ Giáo dục đang có chủ trương đưa một số tác phẩm văn chương địa phương vào giảng dạy ở các nhà trường phổ thông. Chúng tôi nghĩ đến Thầy và Khoa Ngữ văn Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh. Được tỉnh Đồng Tháp chấp thuận, tạo điều kiện và qua “quân sư” Bùi Mạnh Nhị, chúng tôi đến thỉnh Thầy. Trời ơi, Thầy vui vẻ nhận lời đầy hào hứng và phác thảo ngay một kế hoạch hợp tác, tuyển chọn cán bộ và lịch làm việc, cứ như nó đã có từ lâu trong tâm thức của Thầy. Thầy nhận làm Chủ nhiệm đề tài và chỉ đạo gần 30 CBGD của 2 Khoa, 2 Trường bắt tay vào việc, nhịp nhàng và hiệu quả. Từ đó, Thầy có nhiều chuyến về Đồng Tháp với chúng tôi. Mỗi lần về, chúng tôi đều “khai thác” Thầy bằng những buổi tọa đàm, nói chuyện cho cán bộ và sinh viên. Những lần ấy Thầy đều ghé xuống tận các phòng khu tập thể có học trò cũ, xem chúng ăn ở thế nào, mừng cho cặp đôi nào đã có con và dặn dò đủ chuyện. Khi ấy, vợ chồng tôi và vợ chồng anh Đỗ Như Trác đã có cháu gái. Tới thăm lần nào, Ông cũng đều có quà cho hai nhóc, bế, hôn, cưng nựng chúng, rồi mới quày quả rảo bước về nơi làm việc. Giờ nhắm mắt lại, tôi vẫn mường tượng ra vóc dáng nhỏ thó mà nhanh nhẹn của Thầy, bước thoăn thoắt dọc cái bờ ao, từ khu tập thể GV về khu hiệu bộ.
Lần ấy biết tôi có chút tâm tư bởi cách xử sự thiếu công bằng của mấy Lãnh đạo Trường, khi tôi vì gánh nặng gia đình mà có nguyện vọng hồi hương về Bắc, Thầy chủ động gặp và tâm tình. Thầy khuyên: từ nay đến lúc em đi, mọi việc cứ lên làm thật tốt. “Công việc Thư ký đề tài (phụ trách điền dã, khảo cứu, tập hợp tư liệu) em đã làm rất tốt, giúp Thầy được nhiều lắm. Những gì em đã viết, đã công bố đều có ích cả. Có gì viết tiếp được thì hoàn thiện rồi gửi in riêng đi. Thầy và các anh chị, các bạn sẽ tiếp nối phần việc còn lại và tiếp thu kết quả từ em. Mọi người sẽ không quên em đâu!” Chao ôi tôi muốn khóc vì những lời dặn dò ân cần, ấm áp, rộng lượng và đầy khích lệ của Thầy.
Tôi làm theo lời Thầy rồi ra Bắc, trở thành một Thầy giáo THPT. Đến khi nhận được 2 tập “Thơ văn Đồng Tháp” (Nxb Tổng hợp Đồng Tháp - 1986), tôi mừng rỡ khi thấy tên mình trong nhóm những người thực hiện. Tập nào Thầy cũng có từ 40-60 trang giới thiệu và khảo luận. Cùng với đó còn có các tập sách tuyển chọn và hướng dẫn giảng dạy Văn học ở địa phương Đồng Tháp. Cho đến nay, tôi vẫn cho đây là công trình đầy đặn, công phu, đảm bảo cả tính khoa học cơ bản và nghiệp vụ sư phạm của Văn học một địa phương. Đó là một trong những tài liệu “gối đầu giường” của tôi về Văn học Đồng Tháp nói riêng và Tây Nam Bộ nói chung.
*
* *
Hôm nay mừng Thầy ở tuổi 100, nhưng bóng Hạc đã khuất rồi! Ngồi viết mấy dòng này tôi không có ao ước gì hơn: chốn Tuyền đài Thầy nhận được nơi con lòng tri ân chân thành nhất! Thầy trong trái tim con là một cây đại thụ rợp bóng sum suê, là một Con Người với đủ Tâm - Tầm và Tài.
tin tức liên quan
Videos
Kỷ niệm trọng thể 120 năm ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh
Giáo sư Phan Đại Doãn và làng Việt Nam
Nhà thơ Xuân Tửu [1925 - 1995]
Lần đầu tiên Festival Dân ca Ví, Giặm Nghệ Tĩnh được tổ chức tại thành phố Vinh, Nghệ An
Ban Văn hóa - Xã hội, HĐND tỉnh giám sát công tác xây dựng, quản lý và sử dụng các thiết chế văn hóa - thể thao trên địa bàn tỉnh
Thống kê truy cập
114577526

257

2333

2725

224583

130677

114577526