Góc nhìn văn hóa

Lưu Quang Vũ với sân khấu Xứ Nghệ quê tôi (Nhân kỷ niệm ngày mất của ông 29-8-1988)

Lưu Quang Vũ và vợ - Nhà thơ Xuân Quỳnh

Tôi có may mắn được làm việc với nhiều tác giả biên kịch, đạo diễn, biên đạo múa... Hầu hết trong số họ là những nghệ sĩ có đẳng cấp cao trong giới sân khấu cả nước. Mỗi người tuy có những nét riêng về cá tính, về phong cách, nhưng đều toát lên những phẩm chất nghệ sĩ rất đáng trân trọng. Song ở đây tôi muốn nói tới một người mà cuộc đời và sự nghiệp của anh tuy ngắn ngủi, nhưng đã sớm bộc lộ tài năng siêu việt của mình, để lại trong lòng công chúng sự ngưỡng mộ và niềm tiếc thương vô hạn. Đó là cố tác giả biên kịch Lưu Quang Vũ.

Có lẽ nhiều người biết Lưu Quang Vũ làm thơ khá sớm, 20 tuổi anh đã có thơ in. Còn viết kịch thì hơi muộn, đến tuổi “tam thập” anh mới trình làng kịch bản đầu tay, đó là vở “Sống mãi tuổi 17”. Và rồi chẳng bao lâu sau đó anh đã trở nên nổi tiếng trên kịch trường, với trên 50 kịch bản trong vòng 10 năm (1978-1988). Kịch của anh viết ra, dù là bi kịch, hài kịch hay chính kịch - anh hùng ca; dù đề tài là truyền thuyết, cổ tích, dã sử, chính sử, hay đương đại; dù là kịch nói hay kịch hát dân tộc (Tuồng - Chèo - Cải lương - Dân ca kịch) cũng đều toát lên tính nhân văn nhân bản và tính hiện thực sâu sắc, qua tác phẩm ta thấy anh biểu lộ thái độ khen - chê (biểu dương hay phê phán) rất rõ ràng. Hầu hết kịch bản của anh đã được các đoàn văn công chuyên nghiệp dàn dựng biểu diễn, thậm chí có những vở được nhiều đoàn cùng dựng trong một thời điểm, và không ít vở được tặng giải cao tại các hội diễn sân khấu chuyên nghiệp. Có thể nói, vào thập kỷ 80 (thế kỷ XX), kịch Lưu Quang Vũ ít khi vắng bóng trên sàn diễn cả nước. Bởi thế, các nhà nghiên cứu lý luận lúc bấy giờ đã gọi Lưu Quang Vũ là một hiện tượng của sân khấu đương đại Việt Nam

Kịch Lưu Quang Vũ xuất hiện trên sân khấu Nghệ Tĩnh hơi muộn. Tuy vậy, chỉ trong khoảng mấy năm cuối thập kỷ 80, các đoàn văn công trong tỉnh cũng đã liên tiếp dàn dựng một loạt kịch bản của anh như: Thủ phạm là ai, Ông không phải là bố tôi, Đôi dòng sữa mẹ, Nếu anh không đốt lửa, Nữ ký giả (Kịch nói); Ông Vua hóa Hổ, Hai ngàn ngày oan trái, Lời thề thứ 9, Linh hồn của đá, Quyền được hạnh phúc (Dân ca kịch)... Ở một địa phương như Nghệ Tĩnh, chỉ trong dăm năm mà đã có tới 10 vở diễn của một tác giả quả là một hiện tượng xưa nay hiếm. Trong khi có bao nhiêu người viết kịch, suốt một đời chỉ mong sao các đoàn văn công dựng cho một vài vở cũng thỏa lắm rồi. Đàng này, kịch Lưu Quang Vũ còn rải ra khắp sân khấu cả ba miền Bắc - Trung - Nam cho dăm chục đoàn văn công chuyên nghiệp, thật là một kỷ lục chưa từng thấy. Bởi vì hồi ấy vào những năm bao cấp, để dựng được một vở mới thật không đơn giản. Thông thường mỗi năm các đoàn được phân bổ chỉ tiêu dàn dựng từ 1 đến 2 vở (phần lớn chỉ lập kế hoạch 1 vở, vì liên quan đến kinh phí và thời gian luyện tập). Do đó, đoàn nào cũng phải tính toán, cân nhắc rất kỹ mỗi khi chọn vở, để đưa vào kế hoạch. Những vở ấy lại còn phải được Hội đồng nghệ thuật (của Bộ hoặc của Tỉnh) thông qua trước và sau khi dàn dựng. Mà trước đây, Hội đồng duyệt vở ở các tỉnh thường là rất “khó tính”, rất khắt khe, theo một quy chế nghiêm ngặt, chứ không cởi mở thông thoáng như bây giờ. Đã có những trường hợp dàn dựng xong, Hội đồng duyệt đi duyệt lại mà vẫn không chấp nhận vì có  “vấn đề”. Vậy là vở phải xếp xó, tốn kém bao nhiêu công sức tiền của, mà tiền mất tật mang. Nói vậy để thấy rằng kịch của Lưu Quang Vũ lọt qua được “cửa ải” này không phải nhờ có phép thần nào cả, cũng không phải kịch của anh hiền lành “phải đạo” hay vô thưởng vô phạt, trái lại rất sắc sảo, các tuyến kịch xung khắc dữ dội giữa cái thiện cái ác, cái đúng cái sai, cái tốt cái xấu, cái cao cả cái thấp hèn, cái quân tử cái tiểu nhân,... Đấy là những trận đấu quyết liệt diễn ra trên sân khấu. Nhiều người đã ví kịch Lưu Quang Vũ là những toa thuốc kháng sinh liều cao, ai mà yếu bóng vía rất dễ bị “sốc”, có tật hay giật mình mà. Hồi đó, một số bạn nghề trong Nam ngoài Bắc mỗi khi gặp nhau ở Hà Nội, nghe chúng tôi kể về việc dựng và diễn kịch Lưu Quang Vũ như vậy, họ tỏ ra ngạc nhiên lắm, bởi họ nghĩ rằng xưa nay Nghệ Tĩnh được mệnh danh là lô cốt của sự bảo thủ cứng nhắc, hay xét nét bắt bẻ một cách giáo điều máy móc, khắt khe đối với văn nghệ lắm., thế mà nay chấp nhận cho văn công tỉnh được dựng diễn một loạt vở của Lưu Quang Vũ như thế quả là “chuyện lạ có thật”. Tôi nói lại với các bạn rằng nay Nghệ Tĩnh cũng như cả nước đang quyết tâm đổi mới mở cửa và hội nhập. Thời thế đã đổi thay, ai dại gì mà hẹp hòi bế quan tỏa cảng, cũng chẳng còn ai ngây ngô buộc văn nghệ phục vụ chính trị theo kiểu thông tin cổ động đâu. Nói vậy thôi, chứ thực ra đổi mới tư duy cũ cũng phải có quá trình... Ngay như các vở: Hai ngàn ngày oan trái, Lời thề thứ 9, Quyền được hạnh phúc... khi đưa ra công diễn, đại bộ phận công chúng hết sức mến mộ, cổ vũ nhiệt thành, có người xem đi xem lại hai ba lần. Song có một số quan chức thuộc vào loại nhân vật bị phê phán ở trong kịch thì tỏ ra hậm hực tức tối, thiếu thiện cảm với vở diễn, tìm cách gây khó dễ cho đoàn. Suy cho cùng thì đó cũng là hiện tượng đáng mừng, vì những thông điệp của vở diễn đã được công chúng tiếp nhận, nghệ thuật đã thực sự đi vào lòng người, đi vào cuộc sống. Đó là thành công của vở và là niềm hạnh phúc cua người nghệ sĩ sân khấu.

Có điều mãi tới nay tôi vẫn còn day dứt và tiếc nuối, ấy là vào năm 1983, để có vở tham dự Hội diễn sân khấu năm 1985, tôi đã trực tiếp gặp Lưu Quang Vũ đặt vấn đề nhờ anh viết cho Đoàn Kịch hát Nghệ Tĩnh một vở mới, anh đã vui vẻ nhận lời. Sau đó vài tháng, anh chuyển cho Đoàn một kịch bản về đề tài Thương binh Liệt sĩ. Tiếc thay, do còn lấn cấn một số chi tiết trong kịch bản có tính nhạy cảm, nên Hội đồng nghệ thuật chưa thông qua. Sau đó, Đoàn đã dựng vở Mai Thúc Loan thay thế.

Đến năm 1988, lại chuẩn bị vở cho hội diễn sân khấu 1990, chúng tôi lại đến đặt vấn đề với anh, anh lại nhận lời viết cho Đoàn một vở khác về chủ đề Bác Hồ với quê hương. Kịch bản đang viết dở dang thì đột ngột xẩy ra sự cố bi thảm đau lòng - Một tai nạn giao thông đã cướp đi sinh mạng của anh và vợ con anh (nhà thơ Xuân Quỳnh và cháu Quỳnh Thơ ngày 29-8-1988). Sự mất mát không thể bù đắp được, anh từ dã cõi đời ở tuổi 40 - tuổi của sự chín chắn trong tư duy và tràn trề sức sáng tạo. Thiếu vắng anh là một khoảng trống lớn đối với nền sân khấu đương đại Việt Nam. /.

 

*Nhạc sĩ  Thanh Lưu - Nguyên Trưởng đoàn Kịch hát dân ca Nghệ Tĩnh    

tin tức liên quan

Thống kê truy cập

114600856

Hôm nay

259

Hôm qua

2394

Tuần này

21457

Tháng này

227473

Tháng qua

131357

Tất cả

114600856