Góc nhìn văn hóa
Tâm lý nhân vật trong tiểu thuyết “Đời mưa gió” của Nhất Linh và Khái Hưng

1.
Với một tôn chỉ mục đích rõ ràng: hướng về cái mới, làm cho người ta biết rằng đạo Khổng không còn hợp thời, đưa phương pháp khoa học thái Tây ứng dụng vào văn chương Việt, Tự lực văn đoàn đã có công lao to lớn trong việc hiện đại hóa nền văn học nước nhà. Các cuốn tiểu thuyết từng làm say lòng thế hệ thanh niên một thuở không chỉ bởi các luận đề xã hội đầy tính cách mạng và tinh thần nhân văn mà còn bởi khả năng đi sâu vào những biến thái tinh vi trong lòng người bằng một văn phong trong sáng, thi vị, một kết cấu trần thuật hiện đại[1]. Đời mưa gió của Nhất Linh, Khái Hưng là một trường hợp như thế. Tác phẩm là một hành trình đi vào thế giới tâm hồn sâu thẳm của con người với những chỗ khuất khúc, quanh co bí mật. Không chỉ dừng ở tầng ý thức, nhà văn còn đưa người đọc tới cõi vô thức tối tăm để cùng khám phá và suy ngẫm. Vì vậy, tiểu thuyết không có nhiều sự kiện éo le, tình tiết li kì nhưng vẫn lôi cuốn, hấp dẫn, để lại ấn tượng khó quên.
Là cuốn sách viết chung của Nhất Linh, Khái Hưng, Đời mưa gió có sự hòa trộn phong cách cả hai người: tính luận đề sâu sắc và tính trữ tình lãng mạn. Chọn tâm điểm là nơi bí ẩn nhất, dễ che giấu mà khó tỏ bày nhất của mỗi cá nhân, Nhất Linh-Nhị Linh đã tái hiện chân thực bức chân dung tinh thần của con người thời đại mình. Tiểu thuyết kể về cuộc gặp gỡ vừa ngẫu nhiên tình cờ vừa như định mệnh xui khiến giữa Chương và Tuyết, để lại một hồi ức đẹp đẽ nhưng đớn đau, phô bày thế giới tinh thần phức tạp mà đầy mâu thuẫn. Nỗi buồn vui, đau khổ, sự loay hoay của họ trong kiếp phù sinh chưa hề mất đi ý nghĩa thời sự, trái lại, vẫn rất gần gũi và khiến ta suy ngẫm. Trong bài viết này, chúng tôi tìm hiểu tác phẩm trên hai phương diện: cấu trúc tâm lí của các nhân vật chính từ góc nhìn phân tâm học và nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật dưới ánh sáng của tự sự học.
2.
2.1. Đời mưa gió - cuộc phiêu lưu vào thế giới nội tâm
Thế kỉ XX, với việc các nhà phân tâm học như S.Freud, K.Jung phát hiện ra thế giới vô thức, con người đã không còn có thể lạc quan vì trí tuệ và vẻ đẹp “sánh ngang cùng thượng đế” (Shakespeare) hay ung dung tôn sùng lí trí “tôi tư duy nghĩa là tôi tồn tại” (Descartes) nữa. Theo Freud, suy nghĩ, hành động của chúng ta không chỉ chịu sự điều khiển của cái tôi (ego) - phần ý thức tỉnh táo mà còn bị chi phối bởi cái siêu tôi (superego) được tiếp nhận một cách vô thức từ bố mẹ trong những năm tháng tuổi thơ và nhất là cái ấy (id) - ham muốn bản năng sôi sục đòi hỏi được thỏa mãn, dù bị ý thức đè nén nhưng luôn tìm cách ngoi lên, dùng đủ mọi mánh khóe để vượt qua sự kiểm duyệt hòng thoát ra ngoài. Sau này, K.Jung, người học trò xuất sắc vượt qua thầy của mình đã đi sâu hơn nữa vào thế giới vô thức với tham vọng phác họa ra một cách chi tiết, tỉ mỉ mọi ngõ ngách trong tâm hồn con người. Theo đó, ông chỉ ra hai phần chính của tâm thần: phần ý thức mà trung tâm là một bản ngã đóng vai trò chủ thể tất cả mọi hành vi ý thức của cá nhân; phần tâm thần nằm ngoài sự kiểm soát của ý thức là vô thức, gồm có vô thức cá nhân cùng vô thức tập thể. Các phát hiện vĩ đại này không chỉ có vai trò giúp cho việc điều trị bệnh nhân tâm thần mà còn là những công cụ quan trọng để giải mã các hình tượng thẩm mĩ được sáng tạo trong tác phẩm nghệ thuật và hơn hết, khiến ta hiểu một cách sâu sắc, chính xác hơn về con người.
Mở đầu câu chuyện, nhà văn kể về Chương - một anh giáo bề ngoài hiền lành, đạo mạo với một cuộc sống điều độ, an nhàn nhưng lại luôn luôn có những hành động, suy nghĩ trái ngược nhau mà chính Chương cũng không giải thích được. Có những lúc Chương nói rồi không hiểu tại sao mình nói, hối hận vì lỡ lời, rồi làm những việc mình không hề định làm. Ý thức không giúp Chương giải đáp mà chỉ viện cớ này cớ nọ để tự trấn an chính nó. Chương không biết được rằng, mình đang chịu sự chi phối của một thế lực ngầm bên dưới tầng ý thức.
Các nghiên cứu về vô thức của các nhà phân tâm học đã chỉ ra, nhân cách con người là sự kết hợp của rất nhiều phần riêng biệt, mỗi phần có năng lượng riêng. Trong quá trình phát triển của bản ngã - ý thức, nó dồn nén, xua đuổi tất cả những gì không phù hợp về cảm xúc, nhận thức vào cõi vô thức. Phần bị dồn nén thường là kết quả của một sang chấn hay tổn thương hoặc là một phẩm chất, nét tâm lí không phù hợp với phong tục, quy ước đạo đức xã hội. Jung gọi chung đó là các phức cảm, các tiểu nhân cách. Trong nhiều công trình của mình, K. Jung phân tích các tiểu nhân cách có nguồn gốc từ các thái độ và định hướng khác nhau thuộc cõi vô thức. Khi chúng ở vào thế xung đột, chúng có khả năng tác động lên bản ngã - ý thức. Trong đó, hai tiểu nhân cách tồn tại phổ biến là bóng âm và cái mặt nạ. Khái niệm bóng âm của Jung có thể đồng nhất với khái niệm cái ấy của Freud. Nó là một thùng chứa những ham muốn sục sôi, những nét tính cách bị ý thức từ chối, nó nằm ngay sau ý thức, không chịu sự kiểm soát của ý thức. Còn mặt nạ là “giao diện về tâm thần giữa cá nhân và xã hội nhằm tạo dựng cá tính hay bản sắc xã hội của một người”[5, 326]. Cái mặt nạ ra đời xuất phát từ yêu cầu của xã hội đối với cương vị của cá nhân và xuất phát từ tham vọng xã hội của chính cá nhân đó. Nó hình thành một cách vô thức như một bản năng bắt chước để ứng đối với thế giới bên ngoài theo cơ chế tự động hóa trong các trường hợp không cần đến sự suy nghĩ của ý thức. Một người có thể có nhiều mặt nạ tùy theo từng môi trường và cái mặt nạ này cũng sẽ có những biến đổi phù hợp khi con người di chuyển từ môi trường này sang môi trường khác. Đây là các khái niệm chìa khóa giúp ta đi tìm câu trả lời cho những mâu thuẫn khó hiểu đang diễn ra trong lòng Chương: thực chất đó là cuộc chiến giữa bóng âm với bản ngã và cái mặt nạ.
Cuộc đấu tranh của bóng âm với bản ngã và cái mặt nạ
Trong quá khứ, Chương đã từng gặp một nghịch cảnh khiến chàng đau đớn về tinh thần. Chương yêu Loan - một cô gái con nhà gia thế dịu dàng yểu điệu, yêu đến mức xao nhãng cả học hành. Khi hỏng thi, Chương đến gặp người yêu với mong muốn được an ủi khuyến khích, âu yếm vỗ về, nhưng kết quả là vấp phải thái độ khinh bỉ của cha mẹ Loan và sự lãnh đạm của người yêu. Nỗi đau đớn vì bị phản bội và cú sốc tâm lí khiến ý thức Chương không muốn chấp nhận, chàng dồn nén, tìm cách thủ tiêu nó, đưa nó ra khỏi suy nghĩ của mình, bằng chứng là “mấy tháng sau, hình ảnh Loan, Chương đã xóa hẳn trong tâm tư”[10, 144]. Nhưng thực chất, nỗi đau ấy không mất đi mà chỉ bị vùi chôn vào vô thức. Để tránh cho nó có khả năng trỗi dậy, bản ngã - ý thức của Chương phòng vệ bằng cơ chế phản ứng ngược lại: Chương trở nên một người cứng cỏi, không những thế, còn nổi tiếng về việc ghét phụ nữ. Vô hình trung, nét tâm lí dễ xúc cảm và niềm khao khát tình yêu rực cháy cũng bị chàng xua vào bóng âm. Bản ngã của chàng thấy thoải mái với cái mặt nạ một ông giáo đứng đắn, kiêu ngạo, lạnh lùng khi tiếp xúc với nữ giới. Thế rồi một ngày Chương được Thu - “một cô gái đến thì, mơn mởn như bông hoa xuân đượm hạt móc”[10, 143] để ý đến. Cô gái đã làm cái bóng âm trong Chương cựa quậy, tấn công vào ý thức. Chương cảm nhận được sự hiu quạnh của đời mình. Nhưng cùng lúc niềm khao khát ái ân, khao khát tận hưởng lạc thú tuổi trẻ dâng lên cũng là lúc phức cảm về Loan sống dậy. Sau bao nhiêu năm, kí ức hiện về, nghĩ đến Thu, Chương liên tưởng tới Loan vì hai người có rất nhiều điểm tương đồng, nhất là vẻ xinh tươi e ấp truyền thống. Chương biết rõ Thu không phải là Loan và chưa chắc Thu đã ham mê vật chất, vụ lợi nhưng chàng không sao thoát ra khỏi nỗi ám ảnh ấy. Ý chí, có cái mặt nạ làm đồng minh, lúc này được thể chế nhạo, giày vò chàng. Chương luẩn quẩn trong những xu hướng đối ngược nhau đó, vì vậy, đi dạo trên đường để tìm sự thanh thản “tuy về tiết xuân, trời mát mẻ, chàng vẫn thấy nóng bức, khó chịu” [10, 150]. Là bởi cuộc chiến giữa cái tôi với cái ấy vẫn chưa đến thời ngã ngũ. Nhưng ta đoán được xu thế: cái tôi liên kết với cái mặt nạ và phức cảm về Loan khiến cho bóng âm đầy xúc cảm tình yêu phải lùi bước. Giữa lúc ấy thì Chương gặp Tuyết. Tình yêu của Chương với Tuyết, nhìn bên ngoài có vẻ rất phi lí: một ông giáo đạo đức, lại rất ghét phụ nữ sao có thể say mê một cô gái giang hồ trụy lạc, phóng đãng; thế nhưng điều ấy đã xảy ra. Sự phi lí này chỉ có thể có hạt nhân hợp logic khi được nhìn từ góc độ tâm lí. Tuyết hấp dẫn Chương bởi rất nhiều yếu tố: xinh đẹp, trẻ trung, nhí nhảnh, có cá tính mạnh mẽ, duyên dáng khéo léo thông minh, lại thạo đủ ngón lịch sự phong lưu… nhưng hơn hết, Tuyết đã ngấm ngầm liên kết với phần bóng âm trong Chương chiến thắng những phần ý thức - vô thức còn lại, giải phóng cho cái ham muốn sục sôi bao lâu nay bị Chương kìm giữ như hạt cây bị chôn vùi trong suốt mùa đông giá rét nay gặp được hơi xuân tươi mát đâm thẳng lên trên lớp đất khô cằn, bởi giấu trong vẻ kín đáo mực thước kia là một khu vườn chờ đón nắng xuân về để đơm hoa tình ái, là lò than chỉ chờ có lửa sẽ cháy bùng lên giải phóng khát vọng yêu đương. Tuyết vỗ về, làm phức cảm về Loan dịu xuống vì Tuyết thuộc một tuýp phụ nữ khác hẳn Loan và Thu. Cho nên, Chương không cần phải băn khoăn bên trong dáng vẻ yêu kiều kia là những tính toan gì vì Tuyết không có gì để mất, Tuyết đến với Chương bằng một tấm thân trần trụi, hiến mình một cách rất vô tư để rồi lấy đi của Chương cả phần xác lẫn phần hồn. Vả lại, Tuyết cũng không cho Chương có đủ thời gian để mà băn khoăn nghĩ ngợi, Tuyết đến như một cơn lốc xoáy, quấn lấy Chương, gom tháng ngày sống bên chàng lại thành một bó hồng thuận vi mang màu tươi thắm. Tuyết đôi khi có làm cái mặt nạ của Chương bị tổn thương nhưng có hề gì, nàng vỗ về nó rất nhanh bởi khả năng chiều chuộng, đón bắt ý để làm vừa lòng bạn bè của Chương, không ai có thể ghét được nàng, hơn nữa cái mặt nạ này trước sau gì cũng phải gỡ bỏ do Chương không thể sống cô độc cả đời. Chỉ còn bản ngã - ý thức nhưng chính nó cũng hài lòng tiếp nhận Tuyết, Chương thấy rất rõ bao ưu điểm khó tìm nơi người phụ nữ phong trần ấy: Tuyết biết khéo léo thu vén nhà cửa, nhiều phen còn làm Chương cảm động vì sự chu đáo của nàng. Đến nỗi khi Tuyết ra đi, mỗi một mét vuông trong ngôi nhà Chương đều in hình bóng Tuyết, cảnh Tuyết ngồi khâu áo còn nguyên vẹn trong tâm trí, hồi tưởng lại là chàng rưng rưng xúc động, những món ăn Tuyết làm khiến chàng nhớ đến mà sầu muộn não nề. Ngoại trừ thân phận hiện tại cùng quá khứ ghê gớm của Tuyết mà ý thức đã cho Chương một giải pháp là không cần biết đến, chỉ cần sống đời hiện tại, còn lại Chương rất mãn nguyện. Như con quỷ Metisphisto quyến rũ chàng bác sĩ Faust của Gơt, Tuyết quyến rũ Chương nhưng thực chất là cho Chương được trải nghiệm nửa kia còn ẩn giấu của nhân cách chính mình. Chương đã yêu Tuyết cả thể xác lẫn tinh thần, một tình yêu say mê đắm đuối, tình yêu lúc đầu chàng còn không dám tự thú nhận. Sau này, bạn của Chương lấy làm lạ vì sao chàng “chóng đổi tính thế, trước kia đạo mạo…” và mắng Tuyết là một con đĩ, Chương đã hùng hồn bênh vực: “Vả đĩ, thì ai ai cũng đĩ, chỉ khác có một đằng đĩ với một người và một đằng đĩ với nhiều người”[10, 191]. Chương bênh vực Tuyết cũng chính là bênh vực cho cái phần bóng âm tồn tại trong mình, ai cũng có phần ấy, chỉ có điều họ không dám thừa nhận.
Nhìn bề ngoài, Chương có vẻ là một người sống lí trí trong khi Tuyết sống theo bản năng nhưng thực tế có phần ngược lại. Lí trí của Chương dễ thỏa thuận để đi đến một giải pháp, còn Tuyết thì không. Khi đọc tác phẩm, nhiều người cảm nhận Tuyết là một nhân vật rất lạ, rất phức tạp. Đó là bởi vì Tuyết có một cấu trúc tâm lí với nhiều tầng bậc mâu thuẫn nhau và đặc biệt, Tuyết có một bản ngã - ý thức phát triển cực kì mạnh mẽ. Các nhà phân tâm học chủ yếu nghiên cứu về cái vô thức nhưng trước hếtcũng chú ý tới phầnbản ngã - ý thức. Thông thường ở con người, phần nội tâm mà ta dễ tiếp xúc, phát hiện nhất là phần ý thức. Tại trung tâm của ý thức là bản ngã - một cái tôi đóng vai trò như một tấm gương mà tâm thần có thể soi mình để rồi trở nên có ý thức - biết được mình là ai, mình đang nghĩ gì, mình nên làm gì và không nên làm gì. Con người từ khi sinh ra đã có một bản ngã. Sau này, trong quá trình chúng ta sống, bản ngã xung đột với cả môi trường bên ngoài lẫn các phức cảm nội tâm rồi từng bước phát triển. Nó không ngừng hấp thụ những yếu tố văn hóa của môi trường sống để tạo lớp vỏ dày lên theo thời gian, đồng thời cũng chịu ảnh hưởng của tầng vô thức luôn thúc ép, tìm cách áp chế nó. Cũng giống như với Chương, nhà văn miêu tả Tuyết với những xung đột giữa các phức cảm, các tiểu nhân cách và bản ngã ý thức nhưng so với Chương, sự thôi thúc của nhu cầu khẳng định cá tính, đòi hỏi tự do ở Tuyết vô cùng mãnh liệt. Đúng hơn, trong tiểu thuyết, nhà văn đã dựng lại quá trình hình thành, phát triển của bản ngã nơi Tuyết. Trong lòng Chương, tùy từng thời điểm khi yếu tố tâm lí nào thắng thế mà nhân vật có cách hành xử khác biệt. Còn ở Tuyết, ấn tượng bao trùm lấy người đọc vẫn là một cái tôi mãnh liệt đòi được giải phóng dù trong bất kì hoàn cảnh nào. Cái tôi ấy là kết quả của sự va đập giữa ý thức với môi trường xã hội và cũng không ngừng bị chi phối bởi phần sâu thẳm trong tâm hồn.
Hành trình bản ngã đi tìm tự do tuyệt đối
Tuyết xuất thân trong một gia đình quý phái, hẳn là mang nặng những quan điểm cổ hủ về “tam tòng tứ đức”, bằng chứng là cuộc hôn nhân không tình yêu mà gia đình đẩy Tuyết vào. Nhưng cũng nhờ sự giàu có của gia đình, Tuyết đã được tiếp thu nền học vấn mới. Trên lí thuyết, bản ngã có nhiều bước phát triển quan trọng ở giai đoạn đầu thời ấu thơ và cuối thời niên thiếu. Vào đúng thời điểm quan trọng ấy, Tuyết đã được tiếp xúc với những tri thức, quan niệm và nhất là lối sống có nguồn gốc phương Tây. Bản ngã của Tuyết đã nhanh chóng lựa chọn, quyết định con đường đi của nhân cách. Cho nên, khi Tuyết xuất hiện, ta thấy nàng rõ ra là một “gái mới” đối lập hoàn toàn với Thu. Cô gái ấy không chỉ xinh đẹp, biết cách ăn mặc mà còn có học vấn, tri thức Tây học, đặc biệt rất tinh tế trong hưởng thụ đời sống vật chất và tinh thần, rất có óc thẩm mĩ từ cách ăn uống đến trang hoàng nhà cửa. Tuyết như người từ một thế giới khác đến: suy nghĩ khác, hành xử khác, sống khác. Sức hấp dẫn tỏa ra từ Tuyết là sức hấp dẫn của một bản ngã vừa rạo rực nhựa sống bên trong vừa khoác lên mình cái phông văn hóa theo xu thế thời đại. Cô gái ấy yêu thì dám nói là yêu, thậm chí chủ động đấu tranh để giành lấy người mà mình yêu mến. Câu nói cửa miệng của Tuyết: “như thường” phần nào thể hiện bản ngã, sự tự tin của một “gái mới” thản nhiên khẳng định cá tính, bất chấp ai nghĩ gì, nói gì. Tuyết ý thức hết những việc mình làm, những lời mình nói và cách mình đang sống. Tuyết thách thức, thậm chí bất cần. Sự đối lập giữa Tuyết và Thu cùng thái độ của Chương cũng cho thấy thị hiếu thẩm mĩ của thời đại đã thay đổi: trước đây một cô gái như Thu mới là hoàn hảo: vị thế gia đình xứng đáng cho một cuộc hôn nhân môn đăng hộ đối, vẻ yểu điệu xinh tươi lại khép nép giữ gìn rất ra dáng con nhà nề nếp, nhưng như Nhất Linh và Khái Hưng đã chỉ ra: “những cốt cách yểu điệu, mềm mại” rất có thể chỉ chứa “một khối hồn khô khan, vụ danh vụ lợi”, “mỗi cái mỉm cười tươi thắm như đóa hoa xuân hàm tiếu” biết đâu lại giấu bên trong “những tư tưởng vật chất đê hèn”, và “mỗi cái nhìn của cặp mắt trong như nước hồ thu” nhiều khi lại “chỉ là cái bình phong che bao tâm tình thô sơ, trưởng giả”. Đẹp mà giả dối thì chi bằng thẳng thắn như Tuyết. Tuyết sợ cuộc sống nghèo khổ, buồn tẻ, Tuyết muốn hưởng thụ thật đầy đủ lạc thú trần gian. Khi Chương ngỏ ý muốn cùng nàng sống ở một cù lao cách xa nhân loại, Tuyết nói ngay: “Thế thì khổ chết, mình ạ”. Suy cho cùng, đó cũng là những phẩm chất rất người. Vì thế, người phụ nữ không nên chỉ đứng trong cái góc vườn nhà mình mà ngóng chờ hay buồn thơ thẩn, người phụ nữ phải dám bộc lộ mình, dám đi tìm con đường cho mình (tất nhiên tự do thái quá đến như Tuyết lại là chuyện khác). Cho nên, như Tuyết, dù là một cô gái điếm cũng có biết bao người ngưỡng mộ, còn như Thu sẽ chỉ có một cuộc đời tẻ nhạt giống như tính cách của nàng.
Bằng học vấn, sự thông minh, trái tim đa cảm và một cá tính mạnh mẽ, cuộc đời Tuyết rất có thể đã khác, dẫu không được vẻ vang như đời cô Tuyết Nương mà Phạm Quỳnh tiên sinh vẽ ra trong tưởng tượng[2] nhưng chắc chắn là không bế tắc, bi đát đến thế nếu nàng không gặp một cú sốc, một sự kiện đã khiến bản ngã phải đứng trước lựa chọn khó khăn: cuộc hôn nhân không mong muốn với một người chồng ngu dốt trong một gia đình trưởng giả, cổ lỗ. Thực tế ấy, môi trường sống ấy xung đột gay gắt với định hướng sống, khát vọng sống vốn tràn trề mạnh mẽ của bản ngã ý thức. Và cái tôi đã phản ứng bằng nổi loạn, nổi loạn một cách cực đoan: Tuyết bỏ nhà đi theo người tình, kể từ đó sống đời mưa gió. Trong cuộc xung đột giữa môi trường sống - bản ngã ý thức - dục vọng sôi sục, bản ngã ý thức đã chọn đồng minh là thế giới dục vọng bên trong mình, từ chối mọi yêu cầu bên ngoài. Đây không phải là phức cảm tình dục trỗi dậy lấn át phần ý thức và buộc cái mặt nạ phải thay đổi giống như trường hợp của Chương mà là một sự lựa chọn hoàn toàn có ý thức: bản ngã của Tuyết với năng lượng quá mạnh bất mãn trước thực tại và quyết định quay lưng, để rồi chỉ nghe theo những gì bản năng mách bảo. Nhưng cùng lúc đó, Tuyết cũng dồn nén tình cảm chân thành, tâm hồn dễ xúc cảm của mình xuống tầng vô thức, vùi chôn hết quá khứ. Cái với nhiều người là mặt nạ thì với Tuyết giờ đây là bóng âm. Trong kho dự trữ của vô thức là cả một chuỗi ngày xanh tràn đầy nhiệt huyết, mơ mộng về ái tình chân thật, sạch trong của thời thiếu nữ, lẫn một gia đình trưởng giả danh giá, lẫn những ngày làm vợ, làm mẹ, làm dâu tủi cực, tù túng, không ánh sáng, không niềm vui. Chúng trở thành phức cảm và trong những hoàn cảnh nhất định, gặp tác nhân kích thích, chúng xâm lấn vào ý thức, khiến Tuyết hoang mang rối loạn. Chôn quá khứ, bản ngã của Tuyết mất đi cái mặt nạ vì cô không để ý đến yêu cầu của xã hội, cũng không hề có tham vọng cá nhân, nó chỉ còn dựa vào bản năng nhục dục câu kết với ý thức hưởng thụ. Lấy cái tôi cá thể, lấy bản ngã ý thức làm trung tâm tuyệt đối trong đời sống tâm lí, Tuyết nói với Chương: “Em đã thề với em rằng bao giờ em cũng sẽ là của em, từ thể phách cho chí tâm hồn. Em không sao làm vợ, nghĩa là làm vật sở hữu của ai được” [10, 210]. Chôn mọi mơ mộng, ái tình chân thật, Tuyết “khắc sâu vào tim, vào trái tim sắt đá của nàng một câu châm ngôn ghê gớm: “Không tình, không cảm, chỉ coi lạc thú ở đời như một vị thuốc trường sinh”[10, 177]. Chôn quá khứ, Tuyết chỉ sống với đời hiện tại, chỉ nghĩ đến tương lai khi nào ý niệm về tuổi già (cũng lại là một biểu hiện tâm lí của bản ngã - ý thức) đến. Cái tôi của Tuyết lúc đó mạnh đến mức nó chống đỡ được cả sự thúc ép của môi trường lẫn áp lực từ vô thức. Tuyết sợ sự ràng buộc vì sợ vô thức trỗi dậy. Tuyết sống một cuộc đời buông thả, phớt lờ mọi ánh mắt dè bỉu mình. Đặt mình ra ngoài vòng luân lí, đạo đức, Tuyết cũng có phản ứng ngược lại như Chương: ghét những hạng người tự khoác cho mình cái áo đạo đức để che giấu bản chất thật bên trong. Tuyết xem tình yêu như một trò đuổi bắt; chinh phục như một cách khẳng định bản ngã. Tài hoa thiên phú lại hấp thụ văn hóa phương Tây hiện đại, lịch duyệt cộng với dung nhan xinh đẹp đã tạo cho Tuyết một phong cách khó lẫn, đó là kết quả của sự phát triển đến đỉnh điểm cái tôi cá nhân. Nhưng điều Tuyết không muốn đã xảy ra. Tuyết gặp, yêu, ràng buộc để rồi bao phức cảm tưởng đã bị chôn vùi vào vô thức sống dậy.
Lúc đầu, Tuyết đến nhà Chương để cảm ơn vì hành động hào hiệp của chàng. Nhưng khi tiếp xúc với Chương, cái bản ngã vốn rất kiêu ngạo, bất cần của Tuyết thực sự bị thách thức: với vẻ ngoài xinh đẹp, quyến rũ và sự tài hoa, ứng xử khéo léo, Tuyết chưa từng thất bại trong trò đuổi bắt ái tình. Thế mà lần này là lần thứ nhất Tuyết thấy một người đàn ông cư xử khiếm nhã đến thế với một phụ nữ đẹp. Hơn nữa, thấy Chương lúng túng trước Thu, lòng tự ái trong Tuyết trỗi dậy: Chương đặt người phụ nữ kia lên trên mình chỉ vì cô gái ấy “có đồng bạc với lại cái đời tử tế”. Cuộc đời nhàm tẻ, chứa đựng rất nhiều giả dối, cay đắng ấy Tuyết đã từng nếm trải rồi, và nàng đã quyết tâm đoạn tuyệt với nó để sống một cuộc đời phiêu lưu phóng túng. Tuyết đấu trí với Chương, thản nhiên trước sự chống đỡ yếu ớt của chàng và đã thắng rất nhanh nhờ sự từng trải trên tình trường cộng với việc được phần bóng âm trong chàng đồng lõa. Thế rồi, sau một tuần mê đắm, Tuyết bỏ Chương ra đi không một lời từ biệt, đi tìm một người tình nhân cũ mà nàng vụt cảm thấy nàng yêu. Hành động của Tuyết mới nhìn thật giống với cái “như thường” trong câu nói của nàng. Tuy vậy, xét cho kĩ, nó bị chi phối bởi rất nhiều yếu tố tâm lí. Đến lúc này, Tuyết vẫn chưa chắc là Tuyết yêu Chương, nàng chỉ chắc chắn một điều là Chương yêu nàng. Tấm tình ngây thơ chân thành, bẽn lẽn, trong sạch của Chương lúc đầu khiến Tuyết thấy ngộ nghĩnh, vì xưa nay nàng chỉ quan hệ với những người đàn ông cùng tôn thờ một chủ nghĩa khoái lạc như nàng. Sau một tuần ân ái, cái cảm giác mới lạ ban đầu đã bắt đầu nhường chỗ cho sự nhàm chán và rồi như thường lệ Tuyết lại ra đi. Nhưng cái chính là vì Tuyết lờ mờ nhận ra tình cảm Chương dành cho nàng khác với cái tình nhục dục vui đùa của bao người đàn ông khác và nàng cũng dần dần nảy sinh tình cảm với chàng. Lại thêm một ngày nhìn thấy Thu “đứng trong hàng giậu nhìn ra đường nét mặt bơ phờ buồn bã”[10, 182], hình ảnh ấy làm thức dậy trong Tuyết cô thiếu nữ ngây thơ trong trắng thuở nào, cô thiếu nữ đã bị quan niệm hôn nhân cổ hủ “cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy” chà đạp, để rồi Tuyết phải ngậm ngùi xem nó như một dĩ vãng nàng không muốn nhớ lại. Tuyết nhận ra phần vì hoàn cảnh, nhưng một phần chính là do nàng, nàng đã tự đặt mình vào một thế giới tách biệt hẳn thế giới Chương và Thu đang sống. Cho nên, khi Tuyết cười giễu Chương: “Anh (…) gàn lắm (…)Yêu thì cứ yêu, bao giờ chán thì thôi. Việc gì mà chờ đợi, mong mỏi, sầu não như một cô vị hôn thê?” [10, 186] thì chính là Tuyết đang cười giễu cái quá khứ của mình. Tuyết ra đi để trả Chương lại cho Thu, và cũng để dứt khoát cắt đứt sợi dây ràng buộc đang bắt đầu giăng mắc quanh nàng, đe dọa cái triết lí tự do của nàng. Thế nhưng, khi trở lại nhà Chương, đọc nhật kí của Chương và chứng kiến tận mắt những dấu hiệu cho thấy một tình yêu chân thành say đắm, Tuyết ngỡ ngàng cảm động, bản ngã cứng cỏi trong nàng bỗng trở nên ủy mị, “lần đầu, trí nàng ngờ vực cái lí chính đáng của đời khoái lạc”[10, 178]. Nàng bắt đầu lung lay, sâu trong thâm tâm, nàng vẫn khao khát một tình yêu chân thành và Chương đã khiến nàng suy nghĩ. Tình yêu của Chương như ngọn lửa sưởi ấm cho một tâm hồn băng giá, đánh thức niềm tin vào tình cảm tốt đẹp, chân thật của con người. Thế rồi cuộc đuổi bắt đã quay ngược hướng. Giờ Tuyết muốn rời xa Chương cũng không nỡ rời. Tình yêu giữ chân nàng ở lại với Chương thêm hơn bốn tháng, cho đến khi gặp Văn, người tình cũ của nàng ở bãi biển Đồ Sơn. Tuyết đã có một cái cớ để vùng vẫy thoát ra khỏi cái vòng yêu thương đang trói buộc không cho nàng quay trở lại đời mưa gió. Vùng vẫy mà không thoát được, Tuyết lại tự nguyện quay về, thú nhận với Chương: “Trừ anh ra, từ nay em không thể yêu ai được nữa”[212].
Dù vậy, sự trở về ấy chẳng lâu bền, bởi đây không phải là câu chuyện về một cô gái lầm lỡ được một chàng trai hào hiệp đem tình yêu chân thành ra cứu vớt, đây là câu chuyện về một con người cá nhân trong cuộc tiếp xúc, cọ xát với những thế lực có khả năng kiềm tỏa nó: luân lí, lễ giáo, gia đình, hôn nhân, kể cả tình yêu, tình mẫu tử. Vì tình yêu với Chương,Tuyết đã biến mình thành một con người khác hẳn với bản ngã của nàng: người phụ nữ của gia đình, vun vén, đoan chính, cam chịu. Nhưng đó không phải là bản ngã mà Tuyết lựa chọn. Khi cố khuôn mình theo nếp sống của Chương, Tuyết thấy đời mình ngày càng trở nên trống rỗng, vì mình không còn được là mình. Những phút ngồi tư lự, nàng lại hồi tưởng đến những tháng ngày sống đời mưa gió. Cuộc đời ấy, dẫu tủi cực, không tương lai, không được xã hội dung thứ song với Tuyết, nó được phủ lên ánh hào quang, nó cho nàng phút sung sướng thể hiện bản ngã, thoát ra khỏi cuộc đời tầm thường tẻ nhạt. Nhưng cắt đứt với Chương thì nàng không đủ can đảm, nàng sợ lại bị tình yêu lôi kéo quay trở lại thì không còn mặt mũi nào nhìn Chương. Quá khứ Tuyết đã chôn vùi, chỉ là một mớ hỗn độn làm nàng bất mãn, nuối tiếc, hoài nghi, hiện tại thì nhàm tẻ, còn tương lai rất mờ mịt, không có gì sáng sủa. Để thoát ra khỏi cái vòng luẩn quẩn ấy của tâm trí, Tuyết lại lao vào ăn chơi trụy lạc rồi lừa dối Chương, tư tình với Giang. Có lúc Tuyết thực sự muốn thú tội để cùng Chương xây dựng một cuộc sống êm ấm nhưng Chương lại đem những thứ lí thuyết suông giảng cho Tuyết, và đặc biệt là cái ấy - cái khát khao vật dục, khao khát hưởng thụ lại trỗi dậy - khiến Tuyết từ bỏ ý định. Và nàng lại nghe thấy “tiếng gọi huyền bí ở chốn xa xăm”. Rồi một ngày Tuyết lại ra đi, liều thân với đời mưa gió. Cảnh ăn chơi cuối tác phẩm cho thấy nỗi đau khổ chán nản và sự trác táng không giới hạn của Tuyết, Tuyết đã thực sự rơi xuống vực thẳm sa đọa không thể cứu vớt.
Khác với các tiểu thuyết luận đề miêu tả cuộc đấu tranh cũ - mới trên bình diện xã hội với những con người đại diện cho tiếng nói của các thế hệ mang tư tưởng trái ngược[3], tác phẩm đi sâu vào cuộc tranh chấp giữa các xu hướng nội tâm[4]. Các xu hướng này, suy cho cùng cũng là kết quả của cuộc tương tác giữa cá nhân và cộng đồng. Tâm hồn Tuyết thể hiện rõ sự giằng xé, giao tranh ấy tuy xu thế hướng về cái mới là rất rõ ràng: cái cũ đã đành lỗi thời, lạc hậu nhưng cái mới chỉ đang manh nha và cũng thật mờ mịt. Trong Tuyết, ta luôn thấy có hai con người: một con người vô luân phớt lờ mọi quy ước đạo đức xã hội ép mình vào khuôn phép; và một con người luôn mặc cảm về đạo đức. Tuyết ghét nhất là hạng đạo đức giả, vì chính bản thân Tuyết là người phán xét mình nghiêm khắc nhất về mặt đạo đức. Nhưng phán xét là một chuyện, còn hành động lại là một chuyện khác. Đạo đức mà xã hội quy ước mâu thuẫn gay gắt với nhận thức của Tuyết về quyền sống của con người, nên Tuyết phủ nhận nó, Tuyết đứng lên trên nó mà cười nhạo. Tuy nhiên, khi đã sống như ý mình, Tuyết lại đầy mặc cảm, mặc cảm của một kẻ lạc loài, một khúc gỗ bị dòng thác khoái lạc lôi đi không biết đâu là bến bờ. Tâm hồn Tuyết không còn là một khối thống nhất liên kết mà chỉ là những mảnh vụn, Tuyết nhận thức được điều ấy, Tuyết thấy nó như “tấm ván nát trôi sông”, như “chiếc lá úa lìa cành”, nó có lúc bám víu vào tình yêu, nhưng tình yêu không vĩnh cửu, tình yêu chỉ là những khoảnh khắc mong manh chóng tàn, nó bám víu vào khoái lạc, nhưng khoái lạc chỉ dẫn con người ta tới chỗ sa đọa. Nhân vật Tuyết, hơn mọi lời hô hào thuyết giáo hùng hồn, chính là một ví dụ cực kì sinh động, tiêu biểu cho tư tưởng của Nhất Linh, Khái Hưng nói riêng, các nhà văn Tự lực văn đoàn nói chung về việc đả phá Nho phong, cổ vũ cho sự giải phóng con người cá nhân theo nếp sống Âu hóa: con người phải được tháo bỏ mọi xích xiềng. Nhưng khi đã tháo bỏ hết thì sao? Con người còn lại gì? Tuyết chọn cách không thỏa hiệp, Tuyết quyết tâm dứt bỏ cuộc đời của người phụ nữ theo kiểu cũ, vùng vẫy để thoát ra cảnh đời giống như bác Na với đàn con nheo nhóc, nhưng cuộc đời mới như thế nào Tuyết cũng không hình dung ra được, không biết phải sống tiếp ra sao. Tuyết bứt tung mọi sợi dây ràng buộc để đi theo tiếng gọi của tự do cá nhân, nhưng lại luôn luôn hoảng sợ cuộc đời mưa gió[5]. Khi con người cá nhân phát triển đến tận cùng cũng là lúc nó nhận ra sự cô đơn, chênh vênh, chới với không điểm tựa, rồi rơi vào khủng hoảng. Nhưng con người thỏa hiệp, tìm cách thích nghi thì sẽ sống một đời tẻ nhạt, lặng lẽ dù bình yên như Chương. Con người phá phách nổi loạn không phương hướng thì lại rơi vào hố sâu trụy lạc như Tuyết. Không thể có con người cá nhân nằm ngoài xã hội, không thể có bi kịch cá nhân trong đó xã hội vô can. Tiếng nói tố cáo trong tác phẩm, dù kín đáo song cũng thật có chiều sâu.
Tuy vậy, suy cho cùng, sự gặp gỡ của Chương với Tuyết là sự gặp gỡ của hai con người tiếp thu hai hệ giá trị với những thước đo đạo đức khác nhau. Chương dù có kiến thức Tây học song chàng tiếp thu chủ yếu ở góc độ học vấn. Về bản chất, chàng vẫn là con người cũ có khả năng thích nghi cực cao với mọi tình huống trong cuộc sống. Còn Tuyết, dẫu còn chút hơi hướng truyền thống mà Tuyết chôn sâu trong lòng, song về cơ bản, nàng đã “Tây hóa” cả phần xác lẫn phần hồn. Sự va chạm giữa hai con người này, theo cách nói của Ruth Benedict, là sự va chạm của văn hóa “xấu hổ” và văn hóa “tội lỗi”[6]. Anh chàng phương Đông cổ hủ đã bị cô nàng phương Tây hớp hồn, có lúc họ thâm nhập vào nhau, chịu ảnh hưởng của nhau[7] nhưng vì họ thuộc về hai thế giới khác hẳn nên bất lực trong khả năng chung sống. Tuy nhiên, giống như sản phẩm để lại là thơ mới và văn chương lãng mạn: nó là một hồi ức đẹp không thể phai mờ[8]. Những ngày sống với Tuyết là những ngày không thể quên trong cuộc đời Chương, và khi đã một lần sống với Tuyết, Chương không thể quay lại với Thu, nghĩa là không thể cứ sống êm đềm bình tĩnh và giữ mãi thị hiếu thẩm mĩ như cũ.
2.2. Đời mưa gió - sự kết hợp hài hòa của các yếu tố trần thuật
Với mong muốn dựng lên những gương mặt tinh thần của con người thời đại mình, nhà văn đã phát huy tối đa ưu thế của các yếu tố nghệ thuật trần thuật trong miêu tả tâm lí. Tác phẩm gồm hai phần chính và một phần kết chia thành hai mươi tư mục nhỏ rất cân đối. Thoạt nhìn, đây là một cách bố cục qquen thuộc theo trật tự thời gian: tác giả kể chuyện từ lúc Tuyết gặp Chương cho đến khi vĩnh biệt chàng, chuyện gì xảy ra trước thì kể trước, chuyện xảy ra sau thì kể sau. Tuy nhiên, sự kiện không phải yếu tố đóng vai trò chính mà tâm lí mới là sợi chỉ xuyên suốt tiểu thuyết. Nhà văn dù có miêu tả sự kiện gì cũng là để làm nổi bật tâm lí và tâm lí chính là yếu tố dẫn dắt toàn bộ mạch kể. Nhà văn thường bắt đầu bằng một sự kiện mà nhân vật gặp trong hiện tại, sự kiện ấy tác động đến nội tâm để rồi, mâu thuẫn, xung đột được mở ra. Mở đầu là hình ảnh Chương trong đêm khuya sau khi ở nhà bà phủ về với những mối bận tâm dai dẳng về Thu, rồi dần dần, Chương hồi tưởng lại quãng đời quá khứ và cứ thế, nhà văn dẫn dắt ta đi hết từ miền này đến miền kia của tâm thức. Tác giả tả Tuyết cũng theo cách thức như vậy: Tuyết đi lại, nói năng, ca hát, nhưng nhiều nhất vẫn là Tuyết suy nghĩ. Nếu chỉ muốn lần theo dòng sự kiện, ta sẽ thấy đây là một câu truyện rất tẻ nhạt. Nhưng sở dĩ nó hấp dẫn là bởi người đọc luôn luôn vấp phải bao điều khó hiểu diễn ra bên trong những gương mặt tưởng chừng vô tư lự kia. Nó kích thích, làm họ phải thắc mắc không ngừng, phải dõi theo để tìm câu trả lời. Điểm nhìn gần, xuất phát từ bên trong cũng phát huy tác dụng của nó. Để miêu tả được chân thực, sâu sắc thế giới nội tâm phức tạp của con người, người kể chuyện hiển nhiên là không thể đứng quá xa. Anh ta vừa là người dựng cảnh, vừa là người thuyết minh, chỉ dẫn, hoặc gợi ý. Về cơ bản đây là cách kể theo lối truyền thống, nhưng đối với một cõi huyền bí, lạ lẫm là tâm lí con người, không phải ai cũng có thể tự mình khám phá nên sự xuất hiện của người kể chuyện này là cần thiết. Tuy nhiên, đã như vậy, người ta sẽ đòi hỏi rất cao sự thông thái, tinh tế của người dẫn đường: đừng quá phô bày khả năng “biết tuốt”, tranh hết phần tự do sáng tạo làm độc giả nhàm chán nhưng cũng đừng quá lơ là hay úp mở đến mức để lại nhiều câu hỏi không lời đáp khiến họ nản lòng. Nhất Linh, Khái Hưng đã đảm nhiệm xuất sắc vai trò này. Người thuyết minh ấy rất hóm hỉnh và am tường, đôi khi chỉ nhận xét rồi nở một nụ cười kín đáo, đôi khi ngậm ngùi, xót xa, đôi khi lại đưa ra thật nhiều giả thiết để người đọc tự lựa chọn. Độc giả có cảm nhận họ vừa được xem một màn kịch, vừa luôn có người ở bên cạnh theo sát khiến họ vỡ lẽ ra rất nhiều điều thú vị. Bởi vậy, ta có thể đồng tình hay phản đối quan niệm sống, cách hành xử của Chương hay Tuyết nhưng ấn tượng về sự chân thật, sống động của những tâm hồn khiến ta yêu mến nhiều hơn ghét bỏ, thương xót nhiều hơn trách hờn.
Tuy nhiên, yếu tố quan trọng nhất làm nên thành công trong việc phác họa tâm lí nhân vật chính là ngôn ngữ. Ngôn ngữ tả, kể chính xác và cực kì tinh tế, chỉ ra được cái hồn của sự vật kết hợp với ngôn ngữ đối thoại dí dỏm, sinh động lôi cuốn người đọc hết trang này sang trang khác. Người nghệ sĩ rất khéo trong việc dùng thiên nhiên để làm nổi bật tâm trạng. Có những đoạn ta cảm nhận, thiên nhiên hay chính là một mảnh tâm hồn đang trải ra, rung lên thánh thót như những sợi tơ đàn, như đoạn văn tả khung cảnh nơi Chương ở hay đoạn miêu tả buổi sáng khi Chương thức dậy, trong đó cảnh vật và con người có sự hòa điệu, cùng soi chiếu bổ sung cho nhau. Thiên nhiên sinh động, đầy màu sắc, âm thanh được miêu tả bằng một ngôn ngữ giàu nhạc tính, đậm đà chất thơ khiến cho người đọc hưởng cái khoái cảm thưởng thức vẻ đẹp của ngôn từ trước khi thẩm thấu phần ý nghĩa. Câu văn thoát hẳn khỏi lối văn biền ngẫu, ước lệ, nhiều sáo ngữ mà vẫn nhịp nhàng, trôi chảy. Ngôn ngữ hoàn toàn hiện đại trong sáng, không những cách các tiểu thuyết vừa viết trước đó như Tố Tâm hay Thầy Lazaro Phiền một khoảng khá xa mà so với các tiểu thuyết sau này, cũng nhiều tác phẩm khó sánh kịp. Cái tài của nhà văn là ở chỗ đã dùng hình ảnh ẩn dụ của thiên nhiên để làm hiển hiện trước mắt người đọc thế giới vô thức vốn nằm ở tầng sâu của nội tâm, điều mà trong trường hợp này, chính ý thức của nhân vật cũng mơ hồ khi lí giải. Những đoạn đối thoại giữa Tuyết và Chương cũng là những đoạn văn xuất sắc cho thấy khả năng của ngôn ngữ lột tả tâm trạng nhân vật. Bên cạnh các lời văn một giọng hướng trực tiếp vào đối tượng trò chuyện và người trước mặt, trong tác phẩm đã có nhiều câu mang hơi hướng lời hai giọng, tuy chưa đạt đến mức độ đa thanh song không thể được hiểu một cách đơn giản, ví dụ như đoạn Tuyết và Chương trò chuyện bên cây sung mặt nước ao tù khi Chương đưa Tuyết về ấp Khương Thượng để giúp nàng thoát ra khỏi nỗi buồn chán. Tuyết tâm sự với Chương: “Trong một gia đình trong sạch, đầy cao quý, em chỉ là một con hủi bẩn thỉu xấu xa.”[10, 229]. Khi nói câu này, Tuyết đang tự đánh giá mình dưới ý thức của một kẻ khác. Tuyết biết người ta đang phán xét mình từ quan điểm nào. Câu văn trở thành lời hai giọng. Mới nghe, nó có vẻ như một câu thú tội nhưng thực chất là một câu mỉa mai, một lời xót xa tự thương mình, một câu mang xu hướng đối thoại với người mang tư tưởng trái ngược vì đó không hẳn là điều Tuyết thực sự nghĩ. Tuyết chỉ đang nhại lại giọng người khác. Tuyết ý thức rất rõ sự khác biệt của mình trong gia đình tự nhận là “trong sạch, cao quý” ấy nhưng như thế không có nghĩa là nàng xấu xa. Đó chỉ là cái mũ người ta chụp lên đầu những kẻ khác mình. Đúng là có lúc, nàng mặc cảm vì sự trụy lạc của bản thân, nhưng Tuyết thậm chí còn khinh thường bao kẻ đạo đức giả trong xã hội. Đoán biết được ý của người yêu, Chương nửa muốn vỗ về, nửa muốn giễu Tuyết, nên mới đùa “Đối với anh, em đẹp như một nàng tiên nga giáng thế”. Thực ra Chương đang nói bằng chính giọng của Tuyết, vì chính nàng đã có lần tự ví mình như hoa thủy tiên! Chương yêu Tuyết thật lòng, thế nhưng Chương cũng biết rõ con người Tuyết, có lúc chàng nghĩ đến việc Tuyết đã từng nằm trong vòng tay bao gã đàn ông khác mà ghê tởm, khi Tuyết trở về lần thứ hai, chàng tuy tha thứ cho nàng mà trong thâm tâm đã biết rằng việc đưa Tuyết quay trở lại con đường ngay thẳng là bất khả. Tâm lí nhân vật còn hiện lên trực tiếp bằng những trang độc thoại nội tâm, những đoạn văn cho thấy khả năng sử dụng ngôn ngữ đạt đến mức độ tinh lọc, có thể sánh với bất kì một tác phẩm hiện thực nào, vì ta không thể hiểu chữ hiện thực theo nghĩa máy móc là phản ánh thực trạng xã hội, hiện thực trong tâm hồn con người cũng chân thật, rất cần được phơi bày. Nhà văn đã dám nhìn sâu vào tận tâm can để nói hết mọi toan tính, trung thực với từng xúc cảm của con người. Tuyết không phải là một ánh hào quang chỉ cho thấy sự “vui vẻ trẻ trung”, Tuyết rất đời theo cái nghĩa vừa phi thường vừa phàm tục, vừa ngọt ngào vừa vô chừng cay đắng của chữ ấy. Các đoạn độc thoại của tác giả cho thấy nhân vật rất gần với chúng ta. Đó là lí do vì sao Tuyết đầy lầm lỗi nhưng đọc tác phẩm, ta khó mà ghét được nàng. Bằng rất nhiều thiên kiến, đã có thời người ta kết án Tuyết mang mầm sống trụy lạc đầu độc thế hệ thanh niên, đồng thời kết án luôn tác giả với cái nhìn lệch lạc, méo mó về đời sống. Nhưng nếu ta đã không dùng thước đo đạo đức để quy chụp Genji[9] vì ở thời của chàng, khả năng xúc động trước sự mong manh vô thường của cái đẹp như cánh hoa anh đào bung nở rồi tả tơi rơi rụng trong gió xuân được xem là một tiêu chí đánh giá con người thì ta cũng không nên phán xét Tuyết từ cái nhìn luân lí vì ở thời của Tuyết, tự do là một khát khao nhân bản, có sức quyến rũ vô song nên những quằn quại đớn đau dù vô vọng và lầm lạc để vươn đến tự do đủ khiến ta trân trọng một con người. Tuyết không trong ngần trinh bạch như Lan trong Hồn bướm mơ tiên, không thanh cao đức hạnh như Mai trong Nửa chừng xuân, nhưng sự sinh động, vui tươi và nhất là niềm mong ước được sống thật với chất người đa đoan giữa dòng đời cám dỗ của Tuyết như một luồng gió lạ thổi vào cái ao đời bằng phẳng khiến ta không ít khi phải bâng khuâng xao xuyến.
3.
Như vậy, bên cạnh các tiểu thuyết luận đề, tiểu thuyết phong tục, Đời mưa gió là một bước đóng góp cho việc hoàn chỉnh thể loại tiểu thuyết tâm lí. Với Tự lực văn đoàn, chúng ta đã có được một cách khá hoàn chỉnh những mô hình của tiểu thuyết phương Tây mà trong hồn cốt còn đầy tính cách An Nam: Chương yêu thương, trân trọng Tuyết khi nàng mơn mởn xinh tươi là điều dễ hiểu nhưng sự tha thứ, hành động dang tay cứu vớt của Chương với Tuyết khi nàng đã héo hon tàn tạ thì thật đáng cảm phục. Nó gợi ta nhớ đến cách ứng xử đẹp của người Việt từ xa xưa: “Ra đường nhặt cánh hoa rơi/Hai tay nâng lấy cũ người mới ta” (Ca dao). Còn Tuyết, dù liều lĩnh, trụy lạc nhưng cử chỉ “lấy hết các ảnh của mình trên tường xé vứt vào lò sưởi rồi từ biệt” ở cuối tác phẩm không khỏi làm ta liên tưởng tới thái độ của Kiều khi từ chối việc tái hợp cùng Kim Trọng: “Người yêu ta xấu với người/ Yêu nhau thì lại bằng mười phụ nhau”. Tuyết cũng như Kiều, muốn giữ trong tim người mình yêu thương những hình ảnh đẹp đẽ, tươi sáng nhất. Nếu không thể được như vậy, nàng thà một mình đối mặt với sự ê chề của kiếp sống còn hơn gắn kết chỉ với một chút nghĩa cũ càng và một trái tim tan nát.
Những người nghệ sĩ xứ Việt, cách đây gần một thế kỉ, đứng trước luồng gió xoáy của văn hóa, văn minh phương Tây làm nghiêng đổ bao thành trì tín điều một thời kiên cố, đã từ giã ngôi nhà xưa uy nghi cũ kĩ để dấn thân. Và bằng sự dũng cảm, sự bồng bột của họ, chúng ta đã có cả “một thời đại trong thi ca” (Hoài Thanh) lẫn trong văn xuôi tự sự. Những thử nghiệm táo bạo và đầy giá trị của họ nhằm đưa văn học Việt Nam hòa nhập vào dòng chảy của văn học thế giới thật đáng để ta trân trọng.
[1]Chữ “hiện đại” ở đây nên được hiểu từ cái nhìn lịch sử: đóng góp của tác phẩm tại thời điểm nó ra đời và trong thế tương quan với các sáng tác cùng thời.
[2]Chi tiết xin xem Phạm Quỳnh - “Về sự giáo dục phụ nữ”, Phụ nữ tân văn số 7 ngày 13-6-1929 trích trong Thanh Lãng – “Mười ba năm tranh luận văn học”, trang 279.
[3] Như Mai, Huy, Lộc với bà án trong Nửa chừng xuân; như Loan, trạng sư với Thân, bà phán Lợi trong Đoạn tuyệt…
[4] Cuộc tranh đấu thực sự diễn ra trong lòng người: Tuyết có thể phớt lờ mọi con mắt dè bỉu, có thể táo bạo đánh tan lòng ghét bỏ, thành kiến của người khác với mình, nhưng tự mình lại không thể tha thứ cho mình, chấp nhận được mình nên mới rơi vào bế tắc.
[5]Tuyết giấu kín quá khứ, không để ai vì mình mà khinh thường gia đình của mình, chứng tỏ trong Tuyết, quá khứ vẫn có một giá trị, một ý nghĩa lớn lao. Không giống như Chương có thể tự thỏa thuận với mình, Tuyết bị vướng mãi trong cái vòng luẩn quẩn. Cắt đứt với Chương, Tuyết sợ đời nay đây mai đó rồi lại bị tình yêu lôi kéo quay trở lại thì không còn mặt mũi nào, nhưng tiếp tục sống với Chương, Tuyết phải khép nép, ép mình, Tuyết không được giải phóng cái tôi cá thể, Tuyết không thể đi tìm khoái lạc như con quỷ cứ réo gào đòi thỏa mãn trong Tuyết.
[6]Theo Murray Stein, “những tác phẩm của Ruth Benedict về các nền văn hóa coi trọng “xấu hổ” và “tội lỗi” đã chỉ ra rằng các quốc gia phương Tây được đặc trưng bởi văn hóa coi trọng “tội lỗi” còn các quốc gia phương Đông đặc trưng bởi văn hóa coi trọng “xấu hổ”. Các nền văn hóa xấu hổ coi trọng cái mặt nạ hơn văn hóa tội lỗi, tức là nếu một người bị “mất mặt”, người đó có thể sẽ chết. Mất mặt là một sự khủng hoảng cực lớn. Tình huống này hoàn toàn khác ở các nền văn hóa coi trọng tội lỗi ở đó lỗi lầm có thể được làm dịu bớt hay sửa chữa: một người có lỗi có thể phải trả giá và sau đó được phục hồi lại trong cộng đồng. Tội lỗi hướng về một hành động riêng lẻ trong khi xấu hổ loại bỏ toàn bộ cảm nhận về giá trị bản thân”[5, 184]. Trong cách suy nghĩ, ứng xử của Tuyết và Chương, ta thấy rõ sự khác biệt này. Chương luôn hành động để không phải “xấu hổ”, còn Tuyết, nếu xấu hổ chắc chắn không thể ba lần bỏ Chương ra đi rồi lại ngang nhiên quay về. Tuyết quan niệm đó là một “tội lỗi” , nàng tìm cách bù đắp cho Chương để sửa lỗi và chỉ có vậy. Cuối cùng, Tuyết bỏ đi cũng không phải vì xấu hổ với Chương, nàng chỉ hối hận vì đã để Chương thấy dung mạo xấu xí, tàn tạ của mình, hối hận vì đã tự làm mất đi hình ảnh đẹp của bản thân và vì thế, đánh mất tình yêu say đắm của Chương, nàng không thể sống bằng sự thương hại của người khác.
[7]theo nghĩa trực tiếp là có lúc Tuyết chịu ảnh hưởng lối nói năng quê mùa của Chương, luôn miệng “quý hóa quá”, Tuyết chịu sống lối sống cần kiệm mực thước và từng mường tượng ra một cảnh êm đềm bình dị: chồng đọc sách, vợ ngồi may áo; ngược lại, từ khi quen Tuyết, Chương cũng hưởng thụ sang trọng như nàng, cũng uống rượu, nghiện cà phê, đi du lịch và chỉ cần sống vui với cái đời hiện tại.
[8] Sự xuất hiện của Tuyết, quá trình chinh phục tâm hồn Chương của nàng rất giống với sự xuất hiện của các nhà thơ mới trên thi đàn. Khi các nhà thơ mới xuất hiện, có nhiều người cảm thấy lạ lẫm trước lối dùng từ, đặt câu quá Tây của họ, vì sự phá vỡ những khuôn khổ thể loại của thơ luật Đường, thậm chí có người còn dè bỉu do họ không đủ tài năng, hiểu biết nên mới không làm được thơ cũ đầy đủ niêm luật chặt chẽ. Song sự thực không phải như vậy, họ thừa sức làm và làm rất hay thứ thơ được đưa thành khuôn mẫu trong khoa cử nhưng họ chán thứ văn cầu kì sáo rỗng, đầy tính ước lệ, không còn hợp thời, không thích hợp cho việc giải phóng cá tính sáng tạo. Có những thi sĩ mới cũng đi ra từ hồn cốt thơ Đường như Hàn Mặc Tử, Huy Cận nhưng đã đem đến cho nó một dáng vẻ khác hẳn. Và rồi từng bước một, những người nghệ sĩ lãng mạn đã khẳng định được vị trí của mình trong lòng độc giả để mang đến những món ăn tinh thần thực sự có giá trị. Cũng như cô Tuyết, với năng lực, sự thông minh khéo léo mà cô có, cô thừa sức làm một người vợ hiền đảm đang mực thước, nhưng cô chán cuộc sống gò bó, giả dối, không một chút thi vị, cô quay lưng và sống như cô muốn, đem đến sự náo động cho những nơi cô xuất hiện. Chương, từ chỗ ngạc nhiên, lạ lẫm đã dần phát hiện ra biết bao phẩm chất đáng quý của Tuyết, cũng giống như đa số độc giả đương thời dần tìm thấy sự hòa điệu của tâm hồn với các thi sĩ có hình thức phương xa ấy, để rồi mê đắm, bởi họ đã được cùng nhau trải nghiệm cảm giác “Sống toàn tâm toàn trí toàn hồn, sống toàn thân và thức nhọn giác quan”(Xuân Diệu). Chương và Tuyết cùng một xuất phát điểm, nhưng Tuyết đi xa hơn để rồi quay trở lại chia sẻ với Chương phần mới mẻ mà nàng hấp thu được. Sự tương đồng này chỉ có thể được giải thích từ dấu ấn thời đại.
[9]Nhân vật trong cuốn tiểu thuyết nổi tiếng Truyện Genji của nữ sĩ Nhật Bản Murasaki Shikibu.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Bakhtin (1993), Những vấn đề thi pháp Đôxtôiepxki, NXB GD.
- Đặng Anh Đào (2007), Việt Nam và phương Tây tiếp nhận và giao thoa trong văn học, NXB GD.
- Hoàng Ngọc Hiến (2006), Triết lí văn hóa và triết luận văn chương, NXB GD.
- Thanh Lãng (1995), Mười ba năm tranh luận văn học (3 tập), NXB Văn học.
- Murray Stein (2011), Bản đồ tâm hồn con người của Jung, NXB Tri thức.
- Nhiều tác giả (2005), Văn học Việt Nam 1900 – 1945, NXB GD.
- Sigmund Freud (2002), Phân tâm học nhập môn, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.
- Trần Đình Sử (chủ biên), (2004), Tự sự học, NXB Đại học Sư phạm Hà Nội.
- Hoài Thanh, Hoài Chân (2002), Thi nhân Việt Nam, Nxb Văn học.
- Phan Trọng Thưởng, Nguyễn Cừ tuyển chọn và giới thiệu (2006), Văn chương Tự lực văn toàn (tập 3), NXB GD.
- Phan Trọng Thưởng, Nguyễn Cừ tuyển chọn và giới thiệu (1999), Văn chương Tự lực văn toàn (tập 2), NXB GD.
- Ngô Văn Thư (2006), Bàn về tiểu thuyết của Khái Hưng, NXB Thế giới.
tin tức liên quan
Videos
Khai hội “Phúc lục ngoạt” đền Yên Lương, thị xã Cửa Lò
Tư tưởng Hồ Chí Minh về tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật cho Nhân dân
Đêm cảm xúc từ “Mạch nguồn Ví, Giặm”
Tính cách người các tỉnh tại Trung Quốc
Lần đầu tiên Festival Dân ca Ví, Giặm Nghệ Tĩnh được tổ chức tại thành phố Vinh, Nghệ An
Thống kê truy cập
114576881

280

2299

280

223938

130677

114576881