Góc nhìn văn hóa
Ngụ ngôn giữa đời thường: Việt Nam giữa Canada; Ta giữa Tây; Dân tộc giữa nhân loại (Nhân đọc "Cái vú thừa" - tập truyện song ngữ Việt-Anh của McAmmond Nguyen Thi Tu) (phần cuối)
V. Bình điểm một số truyện cụ thể
Tứ tử trình làng! Chúng ta sẽ dùng cách tìm hiểu thực địa (gần giống phương pháp “Case study” trong y khoa) qua 4 trường hợp mà đa số được viết theo lối mới trong hướng sáng tác của tác giả: Lời nguyện nửa khuya; Cái vú thừa; Cuộc đời bắt nạt; và bt.
Điểm chung về hình thức, cấu trúc truyện là không còn theo lối trần thuật chân chỉ; và dung lượng rất ngắn, như một tiểu phẩm, trên dưới 4 trang sách khổ nhỏ.
Yếu tố thi pháp chung ở 4 truyện này là hình thái ngụ ngôn được đông đặc; dường như nhà văn đã thông tỏ châm ngôn để đời của Vua hề Sác-lô/ Charlie Chaplin: "Trò đùa phải chấm dứt khi nó thành công nhất". Văn lệnh như sơn: Ngắn!
LỜI NGUYỆN NỬA KHUYA[1]
• Bút pháp cổ trang (“cổ văn” được tân trang/hiện đại về hiện thực lẫn ngôn ngữ) tỏ ra hết sức nhuần nhụy. Tin là các độc giả ruột của tác giả sẽ ngỡ ngàng với sáng tác đầu tiên phá rào từ bút pháp hiện thực thuần túy (sau Dâng hiến - một truyện chưa hay, có phần nào dễ dãi). Thành công không hẳn đến từ tay nghề. (Xét về dẫn truyện còn có vẻ kém cơ hơn các truyện hay ở bút pháp cũ - Mùi thiên đàng; Kiếp chó). Mà từ “đổi mới tư duy”. Một tư duy khác về nghệ thuật truyện ngắn. Ngay khi đọc lần đầu, Người bình điểm đã kịp chúc tác giả ráng kéo thành vệt “văn cổ trang made by McA NTT”. (Hên, quả nhiên, nhân bảo gần được như thần bảo!)
• Thủ pháp phúng dụ được “xài xể” quá chăng? Tác giả hóa thân? Ưu: truyện lôi cuốn và đau đời mà vẫn nhi nhiên như "C'est la vie!" Mạch chuyện nhuyễn như tương bần chảy ra chỉ trong hơn 6 trang sách. Nhược: với độc giả không rành "nhân thân” tác giả, nhiều chi tiết có vẻ khó hiểu.
• Nội dung tư tưởng không mới song rất lạ và cực hay! Chỉ gỏn gọn trong vuông tay các vấn đề gia đình, giải phóng phụ nữ, hôn nhân, tình ái quyện chặt vào vấn nạn chung của loài người hiện đại, cũng như của một “vương quốc” [[2]] (có thể hiểu đó là Canada).
• Ngôn ngữ pha trộn nhịp nhàng giữa hiện thực, lãng mạn và hài hước. Chất thơ mênh mang.
• Vài chi tiết:
- Rất thành công ở hình tượng yoga, vừa ẩn vừa hiện. Ẩn: Làm cho sinh hoạt chính trong “vương quốc” thêm huyền bí, độc đáo. Hiện: Không phải bạn đọc bình thường nào cũng đoán ra. Vậy lại hóa hay. Nó giảm bớt tính riêng tư của truyện mà những độc giả quen biết tác giả lại thiệt thòi khi không nhận ra cái lung linh của ẩn dụ văn học.
- Trạng huống "ly hôn" là điểm sáng, là tứ truyện; nhưng trong khung cảnh này trở nên thế tục và, thiển ý, khá tầm thường, không tương xứng nhân vật "Ngài" - một đế vương ắt xa lạ với cái sự ly hôn phàm trần. Đau ở chỗ với nhân vật "Em" thì quan trọng, là cả cuộc đời. Gợi ý: Nên chăng nâng vụ "ly hôn" thành vấn đề khác cho lạ, ảo hơn. Tức là thêm chừng hơn một trang nữa, tứ truyện sẽ nở tiếp?
- "Vương quốc của Ngài là giải pháp cho tất cả mọi vấn đề của thế giới”;“duy nhất trên địa cầu là lời giải đáp cho tất cả vấn nạn thể xác và tâm linh.” Phải đấy, Vùng đất hứa - Xứ sở Lá phong của chúng tôi, còn đâu khác được!
- "Ánh sáng xanh”: Ẩn dụ tốt; chắc là rất riêng tư nên hơi khó hiểu. Mà cũng khỏi cần hiểu hết. Truyện ngụ ngôn vốn có chất thơ. Nào ai hiểu thơ là gì?
- Lặp lại 2 lần cụm câu"Em đứng trên đầu. Em đứng [...] trở thành một thây ma.”: Đẹp mượt mà và nhịp nhàng. Như chính các động tác yoga.
- Đưa vụ con gián vào kỹ vậy (dù khá vui và đau!) liệu làm chia trí độc giả không ta? Sở trường “bồi bổ tri thức” của tác giả với truyện cô đọng có thể thành sở đoản đó à nha...
Đây là một truyện-ngắn-khó. Được dùng làm mở cho tập truyện mới, bạn đọc hiểu “ý trung nhân” chứ ạ?
CÁI VÚ THỪA[3]
Ở các phần trên đã gióng đôi ba lời về vai trò và ý nghĩa của thiên truyện quan trọng nhất này. Xin tiếp tục...
• Viết về “cái vú”, bao nhiêu cũng là thừa. Đã có vô vàn tác phẩm văn học Việt và quốc tế từng chọn bộ phận nữ tính quan yếu nhất nhì của người nữ, người mẹ làm chủ đề. Và hẳn không tác giả nào không động đến tính chất “nguồn nuôi” loài người của nó. Người bình điểm vững tin chưa có truyện nào sâu (thẳm) và độc (đáo) như truyện của nữ văn sĩ McA NTT. Dám nghĩ, nếu có một tuyển truyện viết về “cái vú” của văn chương ở nhiều ngôn ngữ, Cái vú thừa tiếng Việt - ắt là trúng tuyển rồi! - sẽ có cơ được trong danh sách chọn làm tên sách!
• Tên của truyện ngắn, kinh điển và hút hồn! Không thể khác hơn. Nữ nhà văn tỏ ra sành đặt tên những đứa con của mình, và Cái vú thừa đắt nhất. (Đắt nhì, đố bạn truyện gì? Chưa đoán ra, vài phút nữa sẽ biết!)
• Gói trong 1271 từ là một tạng truyện ngắn mà suốt đời viết của một tác giả chỉ được vài ba cái. (Chúa không thể hào phóng!) Như chén máu và nước mắt cô lại. Không là người nặng khổ đau nhiều dằn vặt, khó “bịa” ra nổi “truyện bịa hạng nhất” (L. Fisk) này.
• Tay bút nữ viết về nhân vật “Tôi” nam giới thì đầy nhóc làng văn, và chính McA NTT cũng nhiều lần “giả giai” ngon lành. Lần này, giai đẹp Số 1!
• Ngôn ngữ và lối kể: “Một lần đi đường tôi sơ ý đánh rớt tên mình.” Câu mở đầu đạt mức “bậc thày”. Cùng với tên truyện, nó nhẹ nhàng áp tải bạn đọc nhập vào phong cách ảo dị. Hơi tiếc, vấp ngay tới một đoạn diễn lại ngụ ngôn, khá khô và hơi dài, xa lạ với truyện hư cấu. Phần thân truyện trong gần 700 từ đi suốt cả chục biến cố vùi dập đời người, đời trai, đời làm con làm chồng làm cha… mà vẫn liền lạc tư duy truyện ngắn. Nhờ cách kể trôi chảy, bình dị nhưng mang nỗi đau ngàn cân.
Cốt lõi truyện là các hư cấu phản biện Kinh thánh: "Sáng Thế Ký viết sai. Ta không tạo Ađam trước. Ta tạo Eva, để cai quản muôn loài. Được mấy ngày thì Eva than phiền phần ngực nặng, đi lại thấy vướng. Lúc đó Eva có ba vú. [...] Ta xẻo cái vú ở giữa vứt vào bụi cây gần đó. [...] Ta bèn nhớ ra cái vú vô dụng vứt vào bụi rậm bữa nọ. Ta lôi ra, thổi vào nó một linh hồn, thành Ađam.” Một tái sáng tạo lớn lao và kinh dị! Của nữ văn sĩ McA NTT. Nội vụ này đủ mọi yếu tố làm nên tất cả, cho một truyện ngắn độc đáo.
•Góp ý quan trọng: Trong một dung lượng quá eo hẹp đã dồn nén 3 biểu tượng, cái nào cũng từ nhớn đến khủng: Cá nhân bị vô danh tính - “mất tên”; Quả báo cha con với sợi dây con trói cha; Nguồn gốc giới tính nam-nữ với Eva có ba vú. Hai biểu tượng đầu và cuối đủ thành tứ truyện quá ngon rùi. Ngu ý của kẻ bình điểm: rút ngắn vụ “sợi dây” hoặc có thể... cắt béng đi! Về nội dung, quan hệ phụ tử khá xa với tư tưởng truyện. Vụ này lại an tọa ngay ở đoạn thứ nhì và “tốn” đến 150 từ. Hơi dài so với dung lượng toàn truyện, cũng như với đoạn Eva ba vú. Về mặt tự sự, đoạn “sợi dây” hệt như trích từ nguồn ngụ ngôn quen thuộc, thay vì ít dòng người đọc cũng đủ hình dung. Làm giảm văn phong hư cấu đang rất bất ngờ với các dòng đầu tiên và sau đó. Vì sao? Vì truyện “bằng bàn tay” mà ôm những giai thoại khổng lồ thì tính văn chương của toàn truyện sẽ giảm, dẫn đến cái dở là chất ngụ ngôn đậm quá. Trong khi ở Lời nguyện nửa khuya dù độ phúng dụ cao, chỉ khiến hơi khó hiểu chứ không làm nặng mức độ giáo huấn. “Đại sư phụ” Franz Kafka đã nêu nhiều tấm gương cô đọng các ý tưởng kinh dị (người biến thành con côn trùng, hay cái vô hạn của thời gian đi sang làng bên) giúp cho chất hư cấu được làm chủ toàn bộ truyện ngắn. Nếu còn ham tiếc “sợi dây”, nên chăng mở rộng không gian câu chuyện sao cho giữ được ý đồ chính của tình huống: từ việc bị mất tên dẫn đến biết được nguồn gốc đàn ông là từ cái vú dư của phụ nữ.
•Tóm, Cái vú thừa là truyện "bất bình thường", về thi pháp cũng như nội dung, tư tưởng, không chỉ với văn chương McA NTT mà cả trên nền truyện ngắn đương đại. Tiếp sau Lời nguyện nửa khuya, nó xác quyết một hướng viết mới cho tác giả. Vượt xa hiện thực kể chuyện thuần túy; chiếm lĩnh nghệ thuật kỳ ảo và phi thực.
CUỘC ĐỜI BẮT NẠT[4]
• Trong lối viết trần thuật hiện thực, so với chính tác giả, cái mới nhất ở đây là cấu tứ truyện theo kiểu phân mảnh/đồng bộ/bình đẳng. Một chiêu mà khá nhiều tác giả khác đã dùng và mỗi vị thường chỉ xài một đôi lần. Cũng có thể gọi là motif “tham quan". Qua 7 chân dung phụ cùng một chân dung chính là “Gã”, ta có 8 nhân vật cùng làm nên nhân vật chung là Cuộc đời. Nó giải thích chính xác cho vài phần trong tên bài khảo luận: Ngụ ngôn giữa đời thường Canada. Nghệ thuật tạo truyện ở Cuộc đời bắt nạt là minh họa cho một ý đồ lộ tỏ (biến tướng nhẹ hều của truyện định đề), nên nếu không cao thủ thì chỉ sau vài nhân vật, độc giả sẽ dễ thấy nhàm, nhảy cóc xuống đoạn kết cho thỏa tò mò. Một số kỹ thuật điện ảnh (lắp ghép, chuyển đoạn), kịch thoại được sử dụng tài tình.
• Bút pháp tung tẩy về chi tiết thường nhật, tung hoành về mảng miếng đời sống, xã hội Bắc Mỹ vốn là át chủ bài của nữ văn sĩ. Dàn dựng chắc lẳn về dung lượng, với 2883 từ vừa đủ đọc một hơi. Câu mở “Tòa nhà có hai tầng, mỗi tầng có bốn căn hộ. Gã ở căn xoàng nhất tầng dưới. Một buổi tối gã đi gõ cửa từng căn”, dẫn bạn đến mỗi nhân vật và phải tới đoạn cuối mới túm cái rụp được "sợi chỉ hồng" của tác phẩm: đủ thấy tay nghề kiến trúc truyện ngắn cao dường nào! “Mọi người trong các căn hộ không để ý đến việc gã gõ cửa đòi tiền nhà.” Thoạt tiên“bà họa sĩ độc thân tuổi tứ tuần” rồi“Viên thượng úy cảnh sát”, tới“Cặp vợ chồng Nhân Chứng Giê-hô-va”, qua những là “chàng nghệ sĩ guitar tài ba chửa gặp thời”, “cô gái làm nghề pha rượu cho một quán bar”, “cô du học sinh” (“đầu đen”, vẻ như con cháu Bà Trưng Bà Triệu Vua Hùng phe ta?),cuối chót là cả“Ngài chánh án sống trong căn hộ rộng và sang trọng”. Tất cả đồng thanh nhất trí “xù đểu” một món tiền sinh sống tối thiểu. Cả xã hội quay lưng phá hủy khế ước sống bình thường với một kẻ cô đơn và ấm ớ.
• Thêm một lần tít truyện được thăng hoa. Sau 2 chữ "cuộc đời" nhàm như... cuộc đời, là 2 chữ "bắt nạt" rất tầm phào, nhưng Cuộc đời bắt nạt thì thành văn rồi!
• Toàn truyện được chăm sóc tốt bởi phong vị hài hước, nên không thể dài như một truyện bình thường. Sở trường humor trong bất kỳ sáng tác nào cũng phảng phất nay được thỏa chí tang bồng. Cũng vậy với các thủ thuật phóng đại, thậm xưng. "Thảo nào George Bernard Shaw khẳng định chỉ có hai phần trăm loài người tư duy, ba phần trăm nghĩ rằng họ tư duy, và chín mươi lăm phần trăm thà chết còn hơn tư duy." Hóm đến thế là cùng!
• Lời thoại đan xen và thoại gián tiếp đều bất ngờ, linh hoạt. Còn có chỗ chưa kỹ về diễn ngôn, như đoạn cuối phần “Ngài chánh án” không khá hơn một góc báo bình thường là bao.
• Một tiểu cẩm nang náo hoạt về đời sống Canada! Trong bút lực điêu luyện, trường vốn về thông tin xã hội, kiến thức về nước sở tại của nhà văn được phất vun vút. Mỗi ý nghĩ, chi tiết, câu nói tung ra như những lưỡi dao bọc đường. Độc giả nào ở các xứ khác đang chờ di dân sẽ nắm bắt nhanh và chuẩn về hồn vía cuộc sống các xứ Canada, Hoa Kỳ được hài hước hóa chỉ trong truyện-ngắn-bàn-tay. Riêng với Người bình điểm, thú thiệt, cũng vơ thêm mớ ba mớ bảy cách ứng xử của dân chính hiệu Ca Na Điên, ít nhất trong vụ tiền nhà. Hi hi...
bt[5]
Cần nói ngay, btkhông viết hoa và không chữ in, khác cách trình bày cho 3 tên truyện “bình thường” ở trên. bt, “em” phải được hiện diện như nguyên bản của chị McA NTT, nhé? [[6]].
Nhiều ý lời đáng kể đã được thưa từ các phần trên. Giờ minh họa tiếp:
• Giữa nền văn học Việt đương đại, đây là sáng tác có thể nói rất đặc biệt về đề tài - nội dung hậu chiến, xuất sắc về hình tượng nghệ thuật thể hiện, sang chấn về triết lý hiện sinh, và sáng chói về nhân văn - nhân tính. Một cây bút phải được/bị những gì để có thể “đẻ” nổi tác phẩm vẹn toàn đến vậy? Nếu “bị” thì đời ơi, sao nhẫn tâm hành hạ để chữ nghĩa phải thét lên đến thế? Giá như bt ra đời từ thời hậu Đổi mới, sẽ có cơ trở thành một “con dấu” của dòng văn chương hậu chiến tranh, nhánh “văn chương chấn thương". (Chứ thời Đổi mới 1986 - 1992 ắt hẳn không chịu loại truyện này đâu).
• Trên con đường văn học của tác giả hơn 30 năm qua, bt là thành tựu nhất về mọi mặt (nội dung, hình thức, thi pháp; và hơn cả là ý nghĩa “máu thịt” của nó). Chịu thai nghén 40 năm, thiên truyện ngắn vỏn vẹn 1415 từ mà ôm vẹn nỗi đau đớn của giống người, đại diện qua người phụ nữ Việt như một địa chỉ bị giằng xé bởi chiến tranh tương tàn Việt Nam giữa hai ý thức hệ chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội trên toàn thế giới trong thế kỷ 20.
• Chúng tôi đọc đi đọc lại, kể như không gặp hạt sạn nào về kỹ xảo hành văn. Mỗi từ, câu, đoạn như dán như đóng vào trang viết. Tuyệt vời thay tên truyện:bt!Tưởng trong đại hải từ vựng Việt và nhân loại không còn lựa chọn nào khác. Hai con chữ b và t vốn bình-thường, thế rồi trong ghép đôi bởi “bàn tay phù thủy” McA NTT, từ nay các “con” đã hóa nên một mà nhuốm trong máu thịt Mẹ loài người. Đã được sống như những thành phần của văn học.
• Hai bông hồng dành cho nghệ thuật tạo truyện:
a. Nữ nhà văn của bạn đã dùng tối đa và tài ba quan niệm "viết bằng cơ phận" của lý thuyết văn học nữ: Chủ đề “thấy tháng” và hệ quả nhi nhiên của nó đương nhiên được “thấy” vô cùng là thường xuyên trong văn chương. Nói thẳng tưng mà hồn nhiên như Thế Uyên: “Dĩ nhiên kinh nguyệt không còn là vấn đề kín của các cô các bà xì xào với nhau trong một góc phòng nữa, và trong văn chương nữ giới, kinh nguyệt xuất hiện một cách tự nhiên như trời xanh mây trắng.” (Tình dục và các nhà văn nữ di dân Việt Nam, Hợp Lưu số 81, 2005; Lê Thị Thấm Vân nhìn từ Thế Uyên,vanviet.info 8/7/2019). Nhưng vụ này thường chỉ làm chi tiết, mạnh chút nữa trở thành tình huống truyện. Ở bt nỗi đau ngàn đời đó không chỉ được nâng lên làm đề tài mà về thi pháp, nó trở thành hình tượng phúng dụ, thành tứ truyện, thành hệ thống nhân vật. Nhân vật “Tôi” là âm đạo, cũng từng có trong nhiều, rất nhiều tác phẩm "viết bằng thân thể", “viết về thân xác” theo nghĩa đen (phô diễn khoái lạc dục vọng) lẫn nghĩa bóng (dùng cơ quan sinh dục như đối tượng nghệ thuật). Với văn học Việt, ở hải ngoại 15-20 năm trước từng thành cao trào, còn ở trong nước hơn thập niên nay cũng là… chuyện nhỏ [[7]]. Nhưng nhập vai, theo nghĩa bóng, một cách đau đớn, uất hận mà tự nhiên nhi nhiên nhưbt chắc chỉ có bt?Với bt, khuynh hướng "viết bằng cơ phận"/bằng hệ sinh dục đang có thêm một mẫu mực dưới sự chỉ đạo đồng thời của 2 quan niệm kinh điển "viết bằng đầu” và “viết bằng trái tim”.
b. Đây vẫn là một tác phẩm văn chương bằng tiếng Việt hay và độc đáo, song sẽ chưa đẹp (tức là chưa hoàn hảo với cặp đôi nội dung tư tưởng - ý nghĩa nghệ thuật), nếu như tác giả để đôi ba câu chữ về địa danh, danh tính nhân vật, sự kiện, thời điểm mà qua đó “tiết lộ” hiện thực lịch sử (dù đã hư cấu hóa). Nó sẽ chưa hoàn hảo, hoặc là bởi tầm đón nhận của độc giả Việt vốn quen chính trị hóa, cụ thể hóa mọi vấn đề, chi tiết; hoặc tại vì các thực tế đời thường (tỷ như: thành phố Kimmonton đông lạnh 43 độ âm ngày 9/9/2018; Vốn người gốc Trung Hoa tướng Lucas ham đánh chiếm biển đảo; Bác sĩ tim mạch Trần Huấn Tú Chi hoa khôi Sài Thành, v.v… và v.v…) sẽ không ngang cơ về diễn ngôn nghệ thuật với thế giới ẩn dụ, phiếm chỉ của nhân vật “Tôi”. Càng nhiều yếu tố phiếm chỉ,bt sẽ càng được thăng hoa thành câu chuyệntrần đời từ các chuyện của một cá nhân, của một đất nước, của một dân tộc, gọi chung là của một thời cuộc - nó, cái thời cuộc vốn là hậu quả tức tưởi từ cuộc chiến tranh dai dẳng và tàn khốc hàng đầu trong lịch sử nước Nam ta mà vấn đề người-Việt-hải-ngoại trong 44 năm qua vẫn đang là đứa con đầu lòng và khốn khổ khốn nạn nhất của Mẹ Việt Nam! Cũng vào một mùa Xuân, như khi những dòng chữ đây đang tìm đến nơi lòng bạn đọc...
Chúng ta thử lọc ra các đối tượng chính được mô tả (từ khóa), nhờ đó có thông tin về “thực tế” trong thiên truyện ảo dị pha hiện thực. Và nếu chỉ theo các chữ nghĩa độc lập sau đây, các bạn đọc khách quan sẽ không dễ đoán ra truyện xảy ra ở đâu (quốc gia, vùng miền) và sự kiện gì liên quan - tức là bt ẩn dụ tuyệt đối về không gian nghệ thuật và thời gian nghệ thuật. Theo thứ tự từ đầu đến cuối truyện: “mảnh kính vỡ”, “hạt Mân Côi”, “trường dòng”, “nàng”, "bác sĩ", “thẩm phán”, “giọt máu”, “mười ba tuổi”, “bốn mươi năm”, “kinh nguyệt”, “đại học”, "kẻ ngoại lai, “dân nhập cư”, “vùng miền xa lạ", "nhóm sinh viên cùng lãnh thổ”, "đi đạo", "cave", “cha cố”, "gái vùng tạm chiếm", "lính ngoại bang”, "lãnh đạo nhóm", "ký túc xá", "phòng y tế", "vệ binh", "dây thừng trâu"; “mẹ”, “ba”, "tay sai"; "bọn ngoại xâm”, “chiếc kẹp mỏ vịt”, “bếp mai-xo” “sổ khám bệnh”, “tiếng khóc”, “ly hôn”, “kẻ ngoại nhóm”; cuối cùng và quan trọng là“tấm gương”.
Tính nhân văn cao cả (có phần nhẫn nhịn) nơi người phụ nữ Việt đã khiến nữ tác giả kìm bút nén nỗi đau thân thể của cá nhân (nhân vật “Tôi” và “Nàng”) chìm trong bất hạnh chính trị của dân tộc. Công lao đó là nhờ toàn bộ 1415 con chữ được bảo bọc bằng ẩn dụ cực kỳ tế vi mà không kém phần dữ dằn. Nữ tính, nghệ thuật và nhân văn. Yếu tính nhân văn có thể thấy ở toàn truyện. Rõ nhất, nhân văn (mà không nhân nhượng) ở đoạn kết với 2 câu: “Nàng cứ kể với tôi về những giấc mơ có lại tấm gương lành lặn.”,và “Nàng vẫn ngày ngày ra sức chứng minh mình với họ, những con người luôn xem nàng là kẻ ngoại nhóm.” Nhưng - chữ Nhưng làm nên tất cả - thứ tự đảo lại: Câu đầu vừa trích dẫn mới là câu kết của toàn truyện. Dạ vâng, cuối cùng thì người nữ, sau nửa thế kỷ đớn đau và oan uất vẫn không thể quên phận “kẻ ngoại nhóm”. Tất nhiên! Nhưng nhớ không để oán hận mà để thủ thỉ cùng “em bé” của mình hướng tới một tương lai tốt lành cho cả hai, dù biết là không thể nào hết còn bị đau nỗi-đau-hàng-tháng.
• bt là một thiên truyện rất khác thường về thẩm mỹ văn chương, có phần dị thường về nghệ thuật dựng truyện, và phải nói là “phi thường” về nỗi đau thời cuộc - chính trị. Nếu chỉ có thế, nó sẽ thuộc loại được nâng cấp của văn chương chống chiến tranh, văn chương phản kháng các xung đột hệ tư tưởng. Không, với đức độ nhân bản của mình, bt đã là một văn phẩm hay một cách đau thương và đẹp một cách bình thản. Tự nhiên nhi nhiên như nỗi đau khi dai dẳng lúc xé toang mà Tạo hóa dành Người nữ - nguồn sinh nhân loại.
“Nàng nằm tênh hênh. [...] Mẹ ơi… Ba ơi… Nàng gào lên, đôi chân trơ trụi cố giãy giụa trong vô vọng. Hình ảnh ba nàng trước lúc bị xử bắn giữa một sân trường tiểu học. [...] Hai tay bị trói quặt vào cái cọc đằng sau. Cũng dây thừng trâu. Mẹ nàng ngã quỵ xuống cạnh chân nàng… [...] Hai đùi nàng bất ngờ bị giạng toác ra. [...] Lần đầu tiên trong đời, tôi bị phơi bày lộ liễu. [...] Nàng rú lên như con lợn bị thọc tiết. Chiếc mỏ vịt thô bạo và các thứ kìm kéo hành hung tôi. [...] Tôi không còn nghe tiếng kêu la của nàng. Nàng hình như đã chết.” [[8]]
TẠM KẾT
1.
Chúng ta đã đi một vòng trên mặt-phẳng-văn-chương McAmmond Nguyen Thi Tu trong hơn thập niên qua, mà độ sung mãn vào các năm 2006 - 2010 ở phong cách trần thuật truyền thống, để rồi mới hơn một năm nay 2018 - 2019 khi chuyển hẳn sang lối viết phúng dụ ảo dị. Cả 2 lối viết đều có thể xem như 2 diễn ngôn khác nhau của hình thức ngụ ngôn - ngụ ngôn gián tiếp từ chuyện cuộc đời, mưu sinh và ngụ ngôn trực tiếp qua bản thể, nhân sinh.
Còn một số chủ đề cần thiết và thú vị qua chúng sẽ có thể nói thêm nhiều về đặc trưng nghệ thuật văn xuôi của nhà viết truyện mà chúng tôi chưa đủ thời gian và tư liệu. Đó là: Dụng công cho mở đầu và kết thúc truyện; Quan hệ về điểm nhìn giữa nhân vật Tôi với các nhân vật khác; Sự kết hợp giữa chất ảo dị với hình thức phúng dụ cổ điển; Súc vật, thú (chó, mèo, sói) trong tư cách nhân vật văn học và ý nghĩa nhân sinh; Một vài yếu tố tiểu thuyết (giọng điệu, tình tiết, không-thời gian) trong truyện ngắn; Và, quan trọng, về các sáng tác ở giai đoạn đầu, tại Việt Nam (1985 - 1991) cho đến khi trở thành nhà văn di dân.
2.
Ngay từ đầu thế kỷ 19, thiên tài J.W. Goethe từng nhận ra manh nha của hiện thực trong 2 thế kỷ kế tiếp: “Ngày nay văn chương quốc gia không còn có thể nói lên điều gì quan trọng nữa, thời đại của văn chương thế giới đã đến, và mỗi người bây giờ phải hành động để đạt tới tiến trình ấy” [[9]].
Các trào lưu di dân đã góp phần lớn cho sự hình thành, thúc đẩy một nền văn-chương-thế-giới. Nhưng văn-chương-di-dân chưa thể thành văn-chương-thế-giới khi mà nó thường chỉ thành công ở 2 yếu tố quan trọng nhưng khá dễ dàng, đó là ý nghĩa đề tài và nội dung tư tưởng. Cần có thêm hình thức sáng tạo và thẩm mỹ văn học tương xứng - tức là hội đủ 4 tiêu chí của sáng tạo nghệ thuật thông thường. Nếu như ở cả 4 tiêu chí vẫn chưa hiện diện không-gian-nghệ-thuật của toàn cầu thì nó, cái văn chương di dân ấy bước đầu chỉ là văn-chương-quốc-gia nối dài; tất nhiên về mặt này điểm kia đã được tăng trưởng cả về phẩm lẫn chất (đáng kể là với những dòng văn học đến từ các quốc gia đang phát triển).
Để kết thúc, hãy trở lại tiêu điểm của khảo luận. Truyện ngắn McAmmond Nguyen Thi Tu, cũng như đa số các sáng tác tương tự của văn học Việt hải ngoại mang nội dung cuộc sống di dân, trên căn bản là văn-chương-di-dân mà yếu tố quốc gia xuất xứ là Việt Nam và tinh thần dân tộc Việt còn bị nhiều ràng buộc từ duyên đến nợ, từ nghiệp đến phận. Nói chung, các liên đới về tinh thần và địa lý, chính trị và văn hóa, trách nhiệm con dân Việt và ý thức công dân bản địa... đã ảnh hưởng “âm” đến tài năng tự thân nơi mỗi tác giả [[10]].
Đến đây có thể kết luận: Sau một thời gian dài tuân thủ thành công thi pháp trần thuật chuẩn mực, truyện ngắn McAmmond Nguyen Thi Tu đang đạt đến độ kết tụ về thể thức ngụ ngôn và thăng hoa về hiện thực đời thường trong 3 đề tài lưu xứ, bản ngã và giới tính, được thể hiện qua người Việt di cư tại Canada. Đó là nhờ sự độc đáo ở phong cách phúng dụ và ảo dị trong một vài sáng tác xuất sắc như bt, Cái vú thừa, Lời nguyện nửa khuya…
Hướng tới đích lý tưởng văn-chương-thế-giới, từ đấy, nữ văn sĩ dễ có cơ hội tạo ra không-gian-văn-chương của riêng mình made by McAmmond Nguyen Thi Tu.
Vancouver, xuân 2018 - 2019 (hoàn thành 1/4/2019 - tu chỉnh 3/11/2019)
Đỗ Quyên
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Rushdie, Salman; “Ảnh hưởng”, Nguyễn Quốc Trụ chuyển ngữ, trangngaunhien.wordpress.com 5/3/2019.
2. Đỗ Quyên;“Văn học Việt ở ngoài nước trong các năm 2005-2010”, vanchuongviet.org 5/7/2010.
3. Khánh Phương; “Văn chương Việt hết năm 2010, một thập kỷ vẫn... “chờ” thành tựu”, chungta.com 15/2/2011.
4. Thành Nam; “Hòa hợp dân tộc và sự phát triển văn học”, nhandan.com.vn 29/6/2016.
5. Lê Tú Anh; “Con người dấn thân trong văn xuôi đề tài tha hương đầu thế kỉ XXI”, vannghequandoi.com.vn 10/8/2019.
6. Lê Tú Anh; “Con thuyền của Nam Lê giữa hai bờ dân tộc và nhân loại”, vannghequandoi.com.vn 31/1/2019.
7. “Quan niệm về truyện ngắn của các nhà văn, nhà nghiên cứu, phê bình văn học”, thcsvanlang.pgdviettri.edu.vn 8/11/2013.
8. Bùi Việt Thắng; “Tin vào truyện ngắn”, vanhien.vn 14/2/2019.
9. ”Phê bình Văn học nữ quyền”, tiasang.com.vn 5/3/2009.
10. Nguyễn Đăng Điệp; “Vấn đề phái tính và âm hưởng nữ quyền trong văn học Việt Nam đương đại”, phebinhvanhoc.com.vn 20/4/2013.
11. Liễu Trương; “Viết với thân xác như Túy Hồng”, lieutruongvietvadoc.wordpress.com 31/5/2017.
12.Hà Văn Lưỡng; “Điểm nhìn và giọng điệu trần thuật trong truyện ngắn của Haruki Murakami - từ góc nhìn tự sự học”, tapchisonghuong.com.vn 22/5/2015.
13. Đỗ Quyên; “Rất nhiều điều về Tiểu-thuyết-Đặng-Thân”, vanhoanghean.com.vn 12/1/2012.
14. Rusakova, O.F.; “Các lý thuyết diễn ngôn hiện đại: Kinh nghiệm phân loại” - 2006, Lã Nguyên dịch từ nguyên bản tiếng Nga, khoavanhue.husc.edu.vn - 2017.
15. Huỳnh Trọng Khang; “Thân phận người ly hương trong tác phẩm của những nhà văn châu Á”, nld.com.vn 15/6/2019.
16. Trần Hữu Thục; “Đi tìm vài góc khuất trong văn chương Trần Thị NgH”, damau.org 19/7/2019.
CHÚ THÍCH
[1] X. Cái vú thừa; Sđd, Tr.7-13. Cũng có thể coi trên các mạng trangngaunhien.wordpress.com 12/12/2018, Giai phẩm Xuân 2018diendan.org; và tại yogainfo.cacó tam ngữ Việt, Anh, Tây Ban Nha.
[2] Ở Phần V này, những câu chữ in nghiêng và trong ngoặc kép là trích từ mỗi truyện ngắn đang được bình.
[3] X. Cái vú thừa; Sđd; Tr.77-80. Có thể coi trên các trang mạng baovannghe.com.vn 17/10/2018, damau.org 17/4/2018, trangngaunhien.wordpress.com 24/1/2019.
[4] X. Cái vú thừa; Sđd, Tr.209-216. Có thể coi trên các trang mạng: trangngaunhien.wordpress.com 17/12/2018, Giai phẩm Xuân 2018 diendan.org.
[5] X. các Chú thích 11, 31.
[6] Người viết vô tình nhận ra 2 ấn bản trên mạng (Ct 11) cũng trình bày như vậy!
[7] Xem thêm:Đỗ Quyên; “Đẻ Sách – Chương 5: Độc giả ăn tác giả - Thư của độc giả Do Ngoc gửi tác giả Đẻ Sách”, vanviet.info 9/7/2019; trích tiểu thuyết Đẻ Sách, Nxb Người Việt Books 2018, Tr.262-265.
[8] Riêng với bt, tính cả những đoạn bàn luận lẻ ở các phần trước, Người bình điểm đã cố gắng dùng số lượng chữ “ngang cơ” với chính truyện.
[9 ]X.Ct 26.
[10 ]Chúng ta đang xét phạm vi văn học của người Việt, trước hết bằng tiếng Việt, ở ngoài đất nước Việt Nam, song có thể nói rõ thêm:
a) Thành tựu lớn hay nhỏ trong văn học - nghệ thuật cũng gần như với khoa học xã hội - nhân văn nói chung, khác với các lãnh vực khoa học tự nhiên - kỹ thuật, thường chịu ảnh hưởng nhất định dù không hề bị quyết định bởi môi trường xã hội - chính trị sinh sống, làm việc; đặc biệt về việc vị trí bàn viết và tư thế nhà văn ở ngoài hay trong đất nước và hệ thống chính trị. Thậm chí, thiển nghĩ, với các tác giả văn nghệ Việt Nam, khi “ở xa Tổ quốc” trong mọi lý do khác nhau, thì ít người thành đạt hơn khi còn ở trong nước; với những người bắt đầu viết sau khi ra đi có thể còn khó so sánh hơn, song cũng hiếm thấy văn-thi sĩ người Việt nào như thế xuất hiện như là tác giả lớn trên trường quốc tế;
b) Bên cạnh năng lực cá nhân, nhờ thuận lợi về ngôn ngữ, văn hóa, và cả vị thế quốc gia, những tác giả di dân đến từ các “cường quốc” rõ ràng là dễ thành đạt hơn.
c) Vì thế, dễ hiểu là các tác giả lớn, chỉ sống và viết ở trong Tổ quốc của mình đã dự phần làm nên nền văn học dân tộc bằng chính các tác phẩm “văn chương quốc gia” đạt tầm văn-chương-thế-giới. Cổ kim Đông Tây, không ngoại lệ! Cả nghĩ, ở các nước đang phát triển trong mỗi thời kỳ văn học 20-30 năm, bù đi sớt lại, mỗi thế hệ văn thi sĩ “quốc gia” chỉ có chừng đôi ba tác giả mang “kích thước trái đất” (chữ của ký giả Nga I. Zisman từng nói về họa sĩ Chóe), và cả nền văn học dân tộc có thêm chừng năm bảy tác phẩm văn-chương-thế-giới.
Đây là một chủ đề sâu rộng, kết hợp 3 yếu tố không dễ tách rời: văn chương quốc gia, văn chương di dân, và văn chương thế giới. Chúng tôi sẽ trở lại khi có dịp...
tin tức liên quan
Videos
Ông nghè Ngô Đức Kế và cô Kiều
Những kỷ vật của Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Bảo tàng Xô viết Nghệ Tĩnh
Huyện Quế Phong, tỉnh Nghệ An: Kỷ niệm 60 năm thành lập huyện và đón nhận bằng xếp hạng di tích lịch sử cấp Quốc gia đền Chín Gian
Quản trị quốc gia: Nên học Nhật Bản
Ngành Văn hóa và Thể thao Nghệ An: 03 tập thể và 02 cá nhân nhận giải thưởng sáng tác, quảng bá tác phẩm văn học nghệ thuật về chủ đề học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh
Thống kê truy cập
114576515

213

2306

21828

223572

130677

114576515