Góc nhìn văn hóa
Nhớ rét xưa

Mấy chục năm rồi hôm nay tôi mới được thưởng thức cái rét quê nhà vốn đã rất quen thuộc của một thời tuổi trẻ.
Bao năm sinh sống ở đất Tây Nguyên nắng gió, cảm giác rét mướt xứ Bắc dường như không còn nữa trong tôi. Mỗi lần về thăm quê đều trúng mùa nắng nóng, cứ như là sợ, là tránh, là trốn cái rét cắt da cắt thịt.
Bây giờ đã là tháng mười một ta. Ngày đầu tôi về thấy trời nắng ấm, mừng, cao hứng ngâm nga: “Tôi lại về với quê hương/Đông chưa mang lạnh để hường má em”. Vậy mà, sáng tinh mơ hôm sau tỉnh dậy, làm mấy động tác thể dục xong rồi mở cửa bước ra sân, một cảm giác lạ khiến tôi rùng mình. Gió xào xạc. Thì ra Đông mang lạnh đã về.
Tôi nói với mẹ, hình như hôm nay rét rồi, lạnh quá! Cụ nói, này thì đã thấm chi, năm ngoái năm kia những 9, 10 độ. Buốt lắm!
Ừ, hôm nay đài báo đâu 17, 18 độ. Thường thôi. Chỉ kẻ tha phương lâu ngày như tôi, lại ở nơi xứ nóng về nên chưa chi đã cảm thấy rét run.
Trong không khí lạnh buốt ấy, tự nhiên tôi lại nhớ đến những mùa giá rét năm xưa. Lâu. Lâu lắm rồi. Cái thời “đói nghèo trong rơm rạ”, cái thời luôn cháy bỏng giấc mơ “cơm no, áo ấm, chăn lành”.
Đất xứ Nghệ mùa Hè thì nắng cháy da, gió lào rát mặt. Mùa Đông thì giá rét căm căm. Nhưng đối phó với cái nắng dễ hơn cái lạnh. Nắng quá thì ra đồng từ ba bốn giờ sáng hay bốn năm giờ chiều. Rét thì không thể, cứ co ro suốt ngày.
Chống chọi với “nữ thần băng giá” chưa bao giờ là đơn giản đối với người dân quê giữa cái thời ăn không đủ no, mặc không đủ ấm.
Nhà cửa thưng bằng phên nứa, gió mùa Đông Bắc về lùa qua kẽ phên lồng lộng. Quần áo mong manh, vá đụp vá chằng. Áo bông là thứ xa xỉ ít người sắm được. Nhà chỉ có vài cái chăn chiên mỏng tang, dùng lâu còn bị rách te tua. Giường tre, chiếu cói. Gió không chỉ lùa từ ngoài vườn vô nhà. Gió còn lùa từ dưới lớp sạp tre thưa, manh chiếu mỏng khiến lưng người lạnh buốt thâu đêm.
Để chống rét, người dân quê làm đủ mọi cách. Đánh tranh rạ ốp bên ngoài phên nứa để chắn gió. Cũng tranh rạ ấy cắt xén cho vừa trải lên giường làm nệm. Nhà không có giường thì quây ván hay phên, cót, rồi lót rơm hoặc lá chuối khô vào làm ổ. Anh em chúng tôi đã từng được bà nội ủ mình ấm áp trong cái ổ lá chuối khô diệu kỳ ấy.
Nhưng không thể suốt ngày trong ổ rơm, ổ lá chuối được. Lại phải tìm củi sưởi. Nào gốc cây, gốc tre. Không có củi thì đốt rơm rạ, rấm trấu. Cái bao bố khoét lỗ biến thành áo khoác.
Những cách chống rét độc nhất vô nhị ấy hiệu quả ra phết. Cái rét bị đẩy lùi một bước. Nhưng cũng chỉ ở trong nhà thôi.
Người dân quê còn phải ra đồng, ra bãi sản xuất, chăn nuôi, kiếm cái đút vô miệng để mà chống rét. No cơm thì ấm cật, người xưa nói quả có sai. Nỗi khổ lớn nhất của dân mình từ thời bao cấp trở về trước là đói và rét cứ song hành với nhau. Nó hiệp sức hành hạ, tra tấn người dân quê khiến thân hình càng thêm còm cõi vì đói rét. Thế mới biết, tại sao loài gấu ăn thật nhiều hạt dẻ để tích mỡ chống lại cả mùa đông. Ước gì loài người cũng thích nghi được như thế.
Mỗi sáng ra đồng, người nông dân thật vất vả, cực nhọc. Bụng đói cật rét, áo quần mong manh, chân tay trần lội ruộng. Rét như cắt, buốt như kim châm nhưng các chị, các mẹ, các em vẫn phải dầm mình trong mưa phùn gió bấc dưới ruộng bùn cấy lúa. Tay chân tê dại. Áo tơi quàng mình chỉ che bớt gió nhưng không cản được giá buốt. Bữa sáng trước khi ra đồng của người dân quê thời đó là khoai lang lót dạ, thậm chí nhiều nhà còn phải nhịn đói.
Bọn trẻ chúng tôi không đến nỗi cực nhọc như người lớn nhưng chăn trâu, cắt cỏ mùa rét cũng chẳng sung sướng gì bởi rét mướt không chừa một ai. Ấy vậy mà cũng có trò vui ra phết. Để chống rét, chúng tôi chuẩn bị sẵn con cúi bện bằng rơm. Cái “lò sưởi di động” thời 1.0 ấy thế mà rất hiệu quả trong việc sưởi ấm. Rồi thì rủ nhau tìm củi, lá khô đốt lửa sưởi; nướng khoai, nướng đậu ve; bắt cả châu chấu, cào cào để nướng.
Có một kỷ niệm không bao giờ phai. Ngày ấy nhà tôi cũng như bao gia đình khác, đều có nhà ngang hai gian kết nối với nhà chính theo hình chữ L. Một gian dùng làm bếp, một gian làm chuồng bò. Đấy là kiểu cấu trúc rất phổ biến ở vùng quê ngày ấy, vẫn tồn tại cho đến ngày nay, chỉ khác là chuồng bò đã được tách riêng ra.
Trên gian chuồng bò ấy là cái gác chất đầy rơm. Khi mùa Đông đến, lượng rơm vơi bớt, anh em chúng tôi trèo lên đấy chơi trò vây rơm làm ổ, làm hang. Chui vào những cái hang ổ bằng rơm như thế ấm lắm, ngủ quên lúc nào không biết.
Mùa Đông đi liền với mưa phùn, gió bấc. Đường làng nhớp nháp, trơn trượt, lầy lội. Khổ nhất là việc đi học. Chân không dày không dép, bọn trẻ nhiều đứa ngã oành oạch. Quần áo mỏng manh lấm bùn, thấm nước, lạnh thấu xương.
Giá rét để lại “di chứng” trên cơ thể. Da dẻ xù lên, chân tay nứt nẻ, gót chân tứa máu. Nó không buông tha cả khuôn mặt người. Đôi má chỉ hồng lên khi vừa chớm rét. Rồi nó sẽ sạm lại, khô ráp, nứt nẻ đến tội nghiệp một khi cái rét kéo dài. Cặp môi son không còn nhận ra được nữa bởi đã bị phể (nứt nẻ) như ruộng hạn mùa đông. Nghĩ mà thương chị em phụ nữ ngày ấy.
Bây giờ thì, vẫn rét thật đấy. Cũng tám chín độ, có nơi còn âm, băng giá. Nhưng con người đã bớt khổ sở vì rét.
Chuyện ăn mặc không còn là nỗi lo mỗi khi mùa đông đến, dù vẫn còn đó, ở những nơi xa xôi, hẻo lánh, có những phận người đang vất vả chống chọi với mùa Đông trong đói cơm rách áo. Đời như một tấm chăn tuy rộng nhưng không phủ hết mọi phận người.
Quê Xuân Lâm, Nam Đàn tháng 12-2019
tin tức liên quan
Videos
Ông nghè Ngô Đức Kế và cô Kiều
Những kỷ vật của Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Bảo tàng Xô viết Nghệ Tĩnh
Huyện Quế Phong, tỉnh Nghệ An: Kỷ niệm 60 năm thành lập huyện và đón nhận bằng xếp hạng di tích lịch sử cấp Quốc gia đền Chín Gian
Quản trị quốc gia: Nên học Nhật Bản
Ngành Văn hóa và Thể thao Nghệ An: 03 tập thể và 02 cá nhân nhận giải thưởng sáng tác, quảng bá tác phẩm văn học nghệ thuật về chủ đề học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh
Thống kê truy cập
114576520

218

2306

21833

223577

130677

114576520