Góc nhìn văn hóa
Lịch sử như một ngân hàng dữ liệu khổng lồ: Phân tích quá khứ như thế nào để có thể giúp cứu tương lai

Peter Turchin, GS về sinh thái và sinh học môi trường, nhân chủng học và toán học của ĐH Connecticut.
Việc phân tích các mô hình và chu kỳ của quá khứ có thể giúp chúng ta hiểu rõ hơn về lịch sử. Liệu nó cũng có thể giúp chúng ta ngăn chặn một cuộc khủng hoảng trong tương lai không?
Trong số đầu tiên của năm 2010, tạp chí khoa học Nature đã chờ đón một thập kỷ tiến bộ rực rỡ. Vào năm 2020, các thiết bị thí nghiệm được kết nối với internet có thể suy ra các yêu cầu tìm kiếm của chúng ta bằng cách giám sát trực tiếp các tín hiệu của não chúng ta. Cây trồng có thể vượt gấp đôi sinh khối (biomas) của chúng trong ba giờ. Nhân loại trên đường tiến tới chấm dứt sự phụ thuộc vào nhiên liệu hóa thạch.
Vài tuần sau, một lá thư trong cùng một tạp chí đã phủ bóng lên tương lai tươi sáng đó. Nó cảnh báo rằng tất cả những tiến bộ này có thể bị lật nhào bằng sự bất ổn chính trị gia tăng, đạt đỉnh cao ở Mỹ và Tây Âu vào khoảng năm 2020.
Bức thư giải thích rằng: xã hội loài người trải qua các giai đoạn tăng trưởng có thể dự đoán được, trong thời gian đó dân số tăng lên và sự thịnh vượng tăng lên. Sau đó đến các giai đoạn suy giảm, dự đoán một cách tương ứng. Những “chu kỳ muôn thuở” này kéo dài hai hoặc ba thế kỷ và lên đến đỉnh điểm trong tình trạng bất ổn lan rộng -từ việc người lao động nổi dậy dẫn đến cách mạng.
Bức thư viết tiếp: trong những thập kỷ gần đây, một số chỉ số xã hội đáng lo ngại -như bất bình đẳng giàu có và nợ công -đã bắt đầu leo thang ở các quốc gia phương Tây, cho thấy những xã hội này đang tiến đến thời kỳ biến động.
Tác giả bức thư dự đoán rằng sự hỗn loạn ở Mỹ vào năm 2020 sẽ ít nghiêm trọng hơn cuộc nội chiến ở nước này trước đây, nhưng tồi tệ hơn tình trạng bạo lực vào cuối những năm 1960 và đầu thập niên 70, khi tỷ lệ giết người tăng vọt, các cuộc đấu tranh đòi dân quyền và biểu tình chống chiến tranh Việt Nam tăng cao và những kẻ khủng bố trong nước đã thực hiện hàng ngàn vụ đánh bom khắp đất nước.
Tác giả của lời cảnh báo nghiêm khắc này không phải là nhà sử học, mà là một nhà sinh vật học. Trong vài thập kỷ đầu tiên của sự nghiệp, Peter Turchin đã sử dụng các phép toán phức tạp để chỉ ra cách thức tương tác giữa các con thú ăn thịt và con mồi tạo ra dao động trong quần thể động vật hoang dại trong tự nhiên.
Ông đã công bố trên các tạp chí Nature và Science và được coi trọng trong lĩnh vực của ông, nhưng đến cuối những năm 1990, ông đã trả lời tất cả các câu hỏi về sinh thái mà ông quan tâm. Thay vào đó, ông thấy mình bị cuốn hút vào lịch sử: Liệu sự trỗi dậy và sụp đổ của các xã hội loài người cũng có thể được nắm bắt bởi một số biến thể và một số phương trình vi phân không?
Turchin bắt đầu xác định liệu lịch sử, giống như vật lý, có tuân theo các quy luật nhất định không. Năm 2003, ông đã xuất bản một cuốn sách có tên “Những động lực lịch sử”, trong đó ông phát hiện ra các chu kỳ cố hữu ở Pháp và Nga từ khi chúng khởi nguồn đến cuối thế kỷ 18. Cùng năm đó, ông thành lập một lĩnh vực nghiên cứu học thuật mới, được gọi là cliodynamics, tìm cách khám phá những lý do cơ bản của các mô hình lịch sử này và mô hình hóa chúng bằng toán học, cách người ta có thể mô hình hóa sự thay đổi của khí hậu hành tinh. Bảy năm sau, ông bắt đầu lập Tạp chí chính thức đầu tiên của lĩnh vực[1] và đồng sáng lập một cơ sở dữ liệu về thông tin lịch sử và khảo cổ, hiện chứa dữ liệu về hơn 450 xã hội lịch sử.
Cơ sở dữ liệu này có thể được dùng để so sánh các xã hội trong các khoảng thời gian và không gian rộng lớn, cũng như để đưa ra dự đoán về sự bất ổn chính trị sắp tới. Năm 2017, Turchin đã thành lập một nhóm làm việc gồm các nhà sử học, kí hiệu học, vật lý học và một số ngành khác để giúp dự đoán tương lai của xã hội loài người dựa trên bằng chứng lịch sử.
Cách tiếp cận lịch sử của Turchin: sử dụng phần mềm để tìm ra các khuôn mẫu trong các dữ liệu lịch sử khổng lồ, gần đây đã trở nên khả thi, nhờ vào sự gia tăng tốc độ xử lý của máy tính và sự phát triển của các bộ dữ liệu lịch sử đồ sộ. Cách tiếp cận “dữ liệu khổng lồ” này hiện đang ngày càng trở nên phổ biến trong các môn học lịch sử. Tim Kohler, một nhà khảo cổ học tại Đại học bang Washington, tin rằng chúng ta đang sống trong những ngày vinh quang của lĩnh vực mình, bởi vì các nhà nghiên cứu có thể tổng hợp các kết quả nghiên cứu của họ một cách dễ dàng chưa từng thấy và từ đó rút ra những kiến thức tin cậy. Turchin tin rằng, trong tương lai, các lý thuyết lịch sử sẽ được kiểm tra với các cơ sở dữ liệu đồ sộ và những lý thuyết không phù hợp -phần lớn trong số chúng được nảy nở từ lâu -sẽ bị loại bỏ. Sự hiểu biết của chúng ta về quá khứ sẽ đồng quy về một cái gì đó gần với một sự thật khách quan.
Ngày nay đối với một số người, dự đoán mà Turchin đưa ra[2] trong tạp chí Nature năm 2010 có vẻ đáng chú ý. Ngoại trừ những sự bất ngờ vào phút cuối, công cụ tìm kiếm giải mã sóng não của bạn không thể có vào năm 2020. Cây trồng cũng sẽ không tăng gấp đôi sinh khối trong ba giờ, hoặc ngân sách năng lượng chủ yếu được cung cấp bởi năng lượng tái tạo. Nhưng một biến động sắp xảy ra trong trật tự chính trị của Hoa Kỳ hoặc Vương quốc Anh dường như ngày càng có lý. Bảng Chỉ số các quốc gia mong manh[3], được tính bởi tổ chức phi lợi nhuận Hoa Kỳ, Quỹ vì hòa bình, cho thấy xu hướng ngày càng tồi tệ đối với sự bất ổn ở hai quốc gia này, trái ngược với sự cải thiện ổn định ở nơi khác của thế giới.
“Chúng ta đang ở trong một thời đại tương đối hỗn loạn, chỉ phù hợp với thời đại tuyệt vời của các cuộc cách mạng Đại Tây Dương”, George Lawson, nhà nghiên cứu xung đột chính trị tại Trường Kinh tế Luân Đôn (LSE), nói, và ông ám chỉ thời kỳ từ những năm 1770 đến những năm 1870, khi bạo lực nổi dậy lật đổ chế độ quân chủ từ Pháp đến Tân thế giới.
Turchin coi dự đoán của mình cho năm 2020 không chỉ là một thử nghiệm của một lý thuyết gây tranh cãi. Nó cũng có thể là một hương vị của những điều sắp tới: một thế giới trong đó các nhà khoa học phát hiện ra sự tương đương giữa những cảnh báo thời tiết khắc nghiệt cho các điều kiện xã hội và chính trị trong tương lai -cùng với lời khuyên làm thế nào tồn tại với chúng.
Đối với hầu hết các học giả nghiên cứu về quá khứ, việc giải thích tại sao điều gì đó đã từng xảy ra rất khác với việc dự đoán bao giờ nó sẽ xảy ra và xảy ra như thế nào một lần nữa. “Chúng ta không thể tạo ra các quy luật”, Timur Kuran -nhà kinh tế và nhà khoa học chính trị tại Đại học Duke -nói.
Không phải ngẫu nhiên mà quan điểm này đang bị thách thức bởi các nhà toán học và nhà sinh học như Turchin. Các chuyên ngành của họ có điểm chung là khoa học về sự tích hợp. Nó dạy rằng một hệ thống chỉ bao gồm một vài bộ phận chuyển động có thể tạo ra các mô hình ứng xử phức hợp bởi vì những cách khác nhau, trong đó các bộ phận đó tương tác. Chẳng hạn, mặt trời, bề mặt Trái đất và bầu khí quyển Trái đất tương tác để tạo ra thời tiết. Những tương tác đó có thể được nắm bắt bằng toán học, theo hệ phương trình hoặc định luật, dự đoán hành vi của hệ thống trong các điều kiện khác nhau. Đây thực chất là những gì dự báo thời tiết làm.
Khoa học tích hợp bắt nguồn từ vật lý, trong nghiên cứu về hành vi của các hạt cơ bản, nhưng trong suốt thế kỷ qua, nó dần dần lan sang các ngành khác. Cuối thập niên 1950, một số nhà sinh học tế bào đã thừa nhận rằng sự phân chia tế bào có thể được mô tả bằng toán học và họ cho rằng đó là ngẫu nhiên.
Bây giờ họ coi thực tế đó là điều hiển nhiên, và các mô hình toán học về phân chia tế bào của họ đã dẫn đến các phương pháp điều trị ung thư tốt hơn. Trong sinh thái cũng vậy, người ta chấp nhận rằng các mẫu tồn tại trong tự nhiên có thể được mô tả bằng toán học. Loài chuột Leming không tuyệt chủng hàng loạt, như Walt Disney đã thuyết phục chúng ta[4], mà chúng đã trải qua chu kỳ bùng nổ kéo dài bốn năm có thể dự đoán được do sự tương tác của chúng với những kẻ săn mồi, và có thể cả với nguồn cung cấp thực phẩm cho chúng.
Năm 2008, nhà vật lý từng đoạt giải Nobel, Murray Gell-Mann, tuyên bố đây chỉ là vấn đề thời gian trước khi quy luật lịch sử cũng được tìm thấy. Tuy nhiên, điều đó sẽ không xảy ra cho đến khi tất cả những người nghiên cứu về quá khứ -nhà sử học, nhà nhân khẩu học, nhà kinh tế và những người khác -nhận ra rằng làm việc trong các cơ sở chuyên biệt cần thiết của họ là không đủ. “Chúng ta đã bỏ qua nguyên tắc bổ sung quan trọng là nhìn tổng thể một cách trần trụi,” Gell-Mann nói.
Nhiều nhà sử học coi cách tiếp cận toán học này đối với lịch sử là có vấn đề. Họ tin rằng các bài học có thể được rút ra từ quá khứ, nhưng chỉ ở một mức độ rất hạn chế -ví dụ, lịch sử của Những Rắc rối ở Bắc Ireland có thể làm sáng tỏ những căng thẳng hiện tại ở đó. Ngày nay, rất ít nhà sử học tìm kiếm các quy luật chung áp dụng trong nhiều thế kỷ và xã hội, hoặc có thể được sử dụng để dự đoán tương lai theo bất kỳ cách có nghĩa nào. Đó là mục tiêu của các nhà sử học ở thế kỷ 19, nhiều người trong số họ được truyền cảm hứng bởi chủ nghĩa Darwin về xã hội, và đó là một cách tiếp cận được coi là thiếu sót nghiêm trọng, cũng như liên quan đến các câu chuyện về đế chế.
“Là một tập thể các nhà khoa học xã hội hiện đại, chúng tôi đã dành 60 năm nỗ lực phối hợp để loại bỏ chủ nghĩa phân biệt chủng tộc, phân biệt giới tính và chủ nghĩa Dĩ Âu có trong các câu chuyện đó,” nhà sử học Jo Guldi của Đại học Methodist Nam Texas nhấn mạnh và nói thêm rằng các nhà sử học lo ngại các phương pháp toán học sẽ kéo chúng đi ngược lại. Cũng có sự ngờ vực cũ giữa khoa học và nhân văn. Khi nhà sử học Guldi và Harvard David Armitage kêu gọi môn đệ của họ nắm lấy dữ liệu lớn và có cái nhìn dài hơn về quá khứ, trong cuốn sách The History Manifesto của mình năm 2014, họ đã bị chỉ trích kịch liệt trong Tạp chí Lịch sử Hoa Kỳ -tạp chí hàng đầu của Hoa Kỳ về lịch sử.
“Có lẽ đó là một trong những cuộc công kích gay gắt nhất trong 30 năm qua”, Guldi nói. Có một cảm giác âm ỉ, không chỉ trong số các nhà sử học mà còn giữa nhiều người bình thường, rằng con người không thể bị đưa về các con số dữ liệu và phương trình. Làm thế nào một phương trình có thể dự đoán Joan of Arc[1], hay Oliver Cromwell[2]? “Lịch sử không phải là một môn khoa học,” Diarmaid MacCulloch, một nhà sử học tại Đại học Oxford, tóm tắt quan điểm đó. “Cuối cùng của nó (lịch sử) là hành vi của con người, và đó là điều không thể đoán trước.”
“Lập luận này hoàn toàn sai,” Turchin, người từ đầu những năm 1990 đã là giáo sư khoa sinh thái học và sinh học tiến hóa[5] tại Đại học Connecticut, hiện cũng liên kết với Trung tâm khoa học tích hợp ở Vienna[6], phản bác lại. “Bởi vì các hệ thống xã hội rất phức tạp nên chúng ta cần các mô hình toán học.” Quan trọng hơn, các luật kết quả là xác suất, không xác định, có nghĩa là chúng phù hợp với yếu tố may rủi. Nhưng điều này không có nghĩa là chúng rỗng: nếu dự báo thời tiết cho bạn biết có khả năng mưa là 80%, bạn hãy mang theo mình chiếc ô. Peter J Richerson, một học giả hàng đầu về tiến hóa văn hóa tại Đại học California ở Davis, nói rằng các mô hình lịch sử như chu kỳ cố hữu tồn tại, và Turchin đã có “báo cáo nguyên nhân nhạy cảm duy nhất” về chúng. (Điều đó Richeson cũng nêu ra, tài khoản duy nhất như vậy hiện nay; một lĩnh vực còn non trẻ và các lý thuyết khác nhau có thể kế thừa.)
Các nhà sử học khác tin rằng công việc của Turchin, không chỉ kết hợp lịch sử và toán học, mà còn có nghiên cứu của các nhà kinh tế, các nhà khoa học xã hội khác và cả nhà khoa học môi trường -cung cấp một sự điều chỉnh rất cần thiết cho hàng thập kỷ chuyên biệt hóa trong các ngành này. “Trong các lĩnh vực khoa học lịch sử và xã hội chúng ta rất cần sự bao quát, hợp tác, so sánh kiểu này,” Gary Feinman, một nhà khảo cổ học tại Bảo tàng Lịch sử Tự nhiên ở Chicago, đã viết sau một hội thảo với Turchin và các đồng nghiệp vào năm 2016.
Hơn nữa, những người khác rất hào hứng với những hiểu biết mới có thể xuất hiện từ việc nghiên cứu xã hội loài người giống như các hệ thống sinh học phức hợp. Một số giám đốc điều hành tại Thung lũng Silicon cũng rất quan tâm đến dự báo của Turchin. “Họ nhận được nó,” Turchin nói. “Nhưng sau đó họ có hai câu hỏi. Làm thế nào họ có thể kiếm tiền từ tình huống này? Và khi nào họ nên mua lô đất của họ ở New Zealand?”[7]
Khi Turchin bắt đầu tìm kiếm các diễn giải toán học về lịch sử vào cuối những năm 1990, ông phát hiện ra một nhà nghiên cứu khác đã đặt nhiều nền tảng cho ông từ hai thập kỷ trước đó. Đó là Jack Goldstone, một nhà toán học đã trở thành nhà sử học khi còn là sinh viên Harvard, đã từng sử dụng toán học để mã hóa các ý tưởng của Alexis de Tocqueville.
“Tôi đã cố gắng tạo ra đối số De Tocqueville, như một bộ phương trình,” ông ấy nói với tôi gần đây. “Tôi đã không giành được điểm cao.” Goldstone đã trở thành người đầu tiên áp dụng khoa học tổng hợp vào lịch sử loài người và kết luận rằng sự bất ổn chính trị là theo chu kỳ. Kết quả là một mô tả toán học về cách mạng -một nửa mô hình thay đổi xã hội mà Turchin đã tiếp tục hoàn thành.
Khi Goldstone bắt đầu nghiên cứu, vào giữa những năm 70, quan điểm phổ biến về cách mạng được hiểu rõ nhất là một hình thức của xung đột giai cấp. Nhưng Goldstone đã có hai nhận xét không phù hợp với quan điểm đó. Thứ nhất là, các cá nhân từ cùng một tầng lớp, hoặc thậm chí cùng một gia đình, thường kết thúc cuộc chiến ở hai phía đối nghịch. Và thứ hai, các cuộc cách mạng đã tích tụ lại trong các giai đoạn lịch sử nhất định -thế kỷ 14 và 17, cuối thế kỷ 18 đến đầu thế kỷ 19 -nhưng không có lý do rõ ràng nào lý giải vì sao căng thẳng giai cấp đã sôi sục trong những thời kỳ đó chứ không phải ở những thời kỳ khác. Anh ta nghi ngờ có những lực nằm sâu hơn, và anh muốn biết chúng là gì.
May mắn tình cờ và vì thiếu tiền, cuối cùng Goldstone làm trợ lý giảng dạy cho một nhà nhân khẩu học ở Harvard, tên là George Masnick, người đã cho anh ta thấy tác động sâu sắc của kinh tế, chính trị và xã hội đối với sự bùng nổ trẻ em ở Mỹ, sau chiến tranh thế giới thứ hai. Sự tăng lên của giới trẻ đi kèm với những căng thẳng mới trong xã hội, bao gồm áp lực lên thị trường lao động và khát khao những ý thức hệ cấp tiến. Goldstone băn khoăn liệu những sự bùng nổ như thế này có tác động vào các thời kỳ biến động của các xã hội khác hay không. Và trong thập niên 80, ông bắt đầu nghiên cứu các tài liệu lưu trữ để có thông tin về sự gia tăng dân số trong những thập kỷ trước các cuộc cách mạng châu Âu.
Vài ba năm trước, thông tin chi tiết anh ta cần không sẵn có. Nhưng Nhóm Cambridge về Lịch sử Dân số và Cấu trúc Xã hội ở Anh, cùng với các nhóm tương tự trên khắp châu Âu, đã bắt đầu xây dựng lại lịch sử dân số dựa trên các nguồn, như hồ sơ giáo xứ. Goldstone cũng được khuyến khích bởi ấn phẩm năm 1978, Atlas of World Population History (Tập Bản đồ Lịch sử Dân số Thế giới) của Colin McEvedy và Richard Jones, trong đó họ nhấn mạnh một “sự đồng bộ đáng kinh ngạc” trong sự bùng nổ và sụt giảm dân số trên khắp Âu Á qua hàng thiên niên kỷ. Sau vài tháng nghiền ngẫm các con số anh ta đã sung sướng reo lên: “Thật đáng kinh ngạc: thực sự đã có một sự gia tăng dân số ba thế hệ trước mỗi cuộc cách mạng lớn hoặc cuộc nổi loạn trong lịch sử.”
Vào thế kỷ 18, Rev Thomas Malthus lập luận rằng một dân số cuối cùng vượt quá nguồn lực của nó, nổ tung trong một đám mây độc hại của xung đột và bệnh tật cho đến khi, giảm một lần nữa xuống tỷ lệ có thể kiểm soát được, nó bước vào giai đoạn tăng trưởng mới. Lý thuyết Goldstone tiếp tục xây dựng mượn từ Malthus, nhưng quan trọng là, nó đã loại bỏ tính tất yếu ảm đạm của chu kỳ đó. Nó khẳng định rằng sự gia tăng dân số gây áp lực lên các xã hội, và chúng hướng theo những cách phức tạp và đặc trưng. Điều tương tự anh biện luận là một trận động đất. Các lực địa chấn tích tụ bên dưới một cao nguyên cho đến khi nó bắt đầu rung chuyển, nhưng các tòa nhà trên cao nguyên đứng yên, sụp đổ hay duy trì một mức độ thiệt hại tương đối tùy thuộc vào cách chúng được xây dựng. Đó là lý do tại sao các cuộc cách mạng dồn lại trong lịch sử, nhưng trong một thời kỳ hỗn loạn nhất định, chứ không phải tất cả các xã hội đều sụp đổ.
Goldstone nhận thấy rằng các thành phần khác nhau của một xã hội -nhà nước, giới thượng lưu, quần chúng -sẽ phản ứng khác nhau với sự căng thẳng, nhưng họ cũng sẽ tương tác. Nói cách khác, anh ta đang đối phó với một hệ thống phức tạp mà cách xử lý tốt nhất là dựa vào toán học. Mô hình của ông về lý do các cuộc cách mạng xảy ra gồm một tập hợp các phương trình, được mô tả bằng lời nói một cách thô thiển là: dân số phát triển sẽ dẫn đến một hệ quả là nguồn tài nguyên không đáp ứng được. Mức sống của quần chúng giảm xuống, làm tăng tiềm năng huy động bạo lực của họ. Nhà nước cố gắng chống lại điều này -ví dụ, bằng cách giới hạn thuê -nhưng các biện pháp đó làm tha hóa giới thượng lưu có lợi ích tài chính khiến họ bị tổn thương. Vì tầng lớp thượng lưu cũng đang mở rộng và cạnh tranh khốc liệt hơn bao giờ hết đối với một nhóm công việc và địa vị cao hữu hạn, nên toàn bộ số đông ít sẵn sàng chấp nhận thua thiệt hơn nữa. Vì vậy, nhà nước phải mở hầu bao của mình để dẹp yên quần chúng, đẩy nợ quốc gia lên cao. Càng mắc nợ nhiều, nó càng kém linh hoạt để đáp ứng với các căng thẳng tiếp theo. Cuối cùng, các thành viên bên lề của phe ưu tú cùng với quần chúng chống lại nhà nước, bạo lực nổ ra và chính phủ quá yếu để kiềm chế nó.
Goldstone đã đề xuất các cách đo lường khả năng huy động quần chúng, cạnh tranh giới tinh hoa và khả năng có thể trả nợ của nhà nước và định nghĩa một thứ mà ông gọi là chỉ số căng thẳng chính trị (psi hoặc Ψ), là sản phẩm của cả ba. Ông đã chỉ ra rằng Ψ đã tăng vọt trước Cách mạng Pháp, nội chiến Anh và hai cuộc xung đột lớn khác vào thế kỷ 17 -cuộc khủng hoảng Ottoman ở Tiểu Á và quá trình chuyển đổi Ming-Qing ở Trung Quốc. Tuy nhiên, trong mỗi trường hợp, có một yếu tố nữa trong sự hỗn nhập: cơ hội. Một số vỡ vụn -một vụ thất bại, chẳng hạn, hoặc một sự xâm lược của nước ngoài -trong các trường hợp khác có thể được hấp thụ một cách dễ dàng, chống lại tình trạng gia tăng Ψ khiến xung đột bùng nổ. Mặc dù bạn không thể dự đoán được ngòi nổ -nghĩa là bạn không thể biết chính xác khi nào khủng hoảng xảy ra -bạn có thể đo lường áp lực cấu trúc hay nguy cơ của một cuộc khủng hoảng như vậy.
Đó là một mô hình đơn giản và Goldstone thừa nhận là nhiều. Mặc dù ông ta có thể chỉ ra rằng chỉ số Ψ cao dự báo các cuộc cách mạng lịch sử, song không có cách nào để dự đoán những gì sẽ xảy ra tiếp theo. Điều đó phụ thuộc vào sự kết hợp chính xác của ba thành phần của Ψ và cách chúng tương tác với một tổ chức xã hội nhất định. Các mô hình cũng như những nỗ lực của ông chưa hoàn thành, đã khiến ông nhìn thấy cách mạng trong một ánh sáng mới đáng buồn: không phải là một sự điều chỉnh dân chủ đối với một chế độ cũ không linh hoạt và tham nhũng, mà như một phản ứng với một cuộc khủng hoảng sinh thái – sự bất lực của một xã hội để hấp thụ sự gia tăng dân số nhanh chóng – hiếm khi giải quyết được cuộc khủng hoảng đó.
Cũng không phải những mô hình đó bị giới hạn trong quá khứ. Khi Goldstone đang hoàn thiện những tác phẩm tuyệt vời của mình, Cách mạng và Khởi nghĩa vào đầu Thế giới Hiện đại (đầu thế kỷ XX-ND), Liên bang Xô Viết đã minh chứng. Ông chỉ ra rằng Ψ đã tăng lên đáng kể trên toàn khối Xô Viết trong hai thập kỷ trước năm 1989. Ông cũng viết rằng: “Một điều đáng kinh ngạc là ở mức độ mà Hoa Kỳ đang có ngày nay, về mặt tài chính nhà nước và thái độ của giới ưu tú của họ, tiếp theo con đường dẫn đến khủng hoảng của các quốc gia hiện đại.”
Khi cuốn sách của Goldstone xuất bản vào năm 1991, các nhà sử học đã phát cuồng. Nhà sử học người Anh, Lawrence Stone, viết trong Tạp chí The New York Review of Book, rằng tác phẩm của Goldstone “quá xa vời và mơ hồ trong việc xây dựng một thứ gọi là chỉ số căng thẳng chính trị, chỉ số giống như một con kỳ lân.” Goldstone thừa nhận cuốn sách không có tác động như anh hy vọng. “Cả cuốn sách và tôi rơi tõm xuống giữa những kẽ nứt,” anh nhớ lại. Sau đó, vào năm 1997, một hôm anh nhận được một cuộc gọi từ Peter Turchin.
Khi đó, Turchin đang trải qua điều mà ông nói đùa là “cuộc khủng hoảng giữa đời” của ông ấy -khi ở tuổi 40, ông ấy đã từ bỏ sinh học và theo đuổi lịch sử. Một phần của những gì thu hút ông đến với câu hỏi tại sao xã hội bùng nổ là một lần bản thân ông ta đã chứng kiến sự tự sụp đổ. Turchin sinh ra ở Nga, nhưng gia đình ông đã trốn sang Mỹ năm 1978 và từ đó đến năm 1992 ông ấy đã không về Moscow. “Đó là năm mọi thứ sụp đổ hoàn toàn,” ông ấy nhớ lại. Đó là tháng 12 -“Tối tăm, kinh khủng. Người say xỉn nằm khắp nơi.” Ông và vợ đã vượt qua một chiếc xe hơi nổ tung trên đường đến chợ và nhìn thấy mafia chấn lột tiền từ những người bán hàng một cách trắng trọn trong khi cảnh sát chứng kiến. Đây là những hình ảnh đọng lại với ông ấy.
Khi Turchin bắt gặp cuốn sách của Goldstone, ông thấy nó “rất đáng chú ý”, ông nói. Nhưng mô hình chưa hoàn thiện: “Ông ấy đã mô tả cách các xã hội rơi vào khủng hoảng, chứ không phải làm thế nào thoát khỏi nó.” Vì vậy, Turchin quyết định hoàn thiện mô hình, và tìm hiểu xem liệu nó có áp dụng cho xã hội loài người trong một khoảng thời gian và không gian rộng lớn hơn không.
Goldstone đã tập trung vào thời kỳ đầu hiện đại -gần bốn thế kỷ từ 1500; Turchin đẩy cuộc khảo sát trở về trước gần 8.000 năm, đến thời kỳ đồ đá mới. Điều đó có nghĩa là thu thập một số lượng lớn dữ liệu, và trong trường hợp này, ông đã may mắn: sự thay đổi định tính lịch sử, bắt đầu với sự cướp bóc của những sổ sách giáo xứ trong những năm 1970, chỉ tăng tốc trong những thập kỷ kể từ đó. Mặc dù hồ sơ lịch sử vẫn còn bị phân mảnh và chắp vá, nhưng giờ đây có thể nói những điều mới lạ về con người tuyệt chủng đã sống như thế nào ngay cả khi không có dấu vết bằng văn tự về họ -và tốt hơn, theo quan điểm của nhà toán học, để đưa các con số lên chúng. Chẳng hạn, các lõi băng từ Greenland hóa ra là một ủy nhiệm tinh tế cho hoạt động kinh tế ở châu Âu, vì lớp băng vĩnh cửu bẫy ô nhiễm và theo dõi sự biến động của nó qua nhiều thế kỷ.
Quy mô và việc xây dựng các biệt thự của giới quý tộc nói lên sự cạnh tranh giàu có, và đồng xu lo lắng về xung đột lờ mờ, trong khi dị tật xương cho thấy suy dinh dưỡng -một đại diện cho mức sống. Giá trị thông tin của các đại diện này đã được công nhận từ lâu, nhưng bây giờ có dữ liệu định lượng về chúng kéo dài hàng thập kỷ và đôi khi hàng thế kỷ, có nghĩa là bạn có thể nhận ra xu hướng theo thời gian. Bạn càng có nhiều đại diện cho một biến nhất định, bạn có thể vẽ bức tranh về quá khứ càng chính xác.
Trong “Các Động lực Lịch sử,” năm 2003, Turchin đã chứng minh một mô hình các chu kỳ cố hữu trong các xã hội phát triển thành Pháp và Nga hiện đại từ thiên niên kỷ thứ nhất trước Công nguyên cho đến khoảng năm 1800. Ông cũng cho thấy có những dao động ngắn hơn trong sự ổn định của các xã hội này, kéo dài khoảng 50 năm, mà ông gọi là “những chu kỳ cha và con”: nhận thấy một sự bất công xã hội, một thế hệ bắt đầu khắc phục nó một cách dữ dội, thế hệ tiếp theo bị thu hẹp lại sau bạo lực, thế hệ thứ ba lại bắt đầu.
Nhiều nhà khoa học đã hoài nghi về lý thuyết của Turchin như họ đã từng nghi ngờ Goldstone một chục năm trước. Joseph Joseph Tainter, một nhà sử học và nhà nhân chủng học tại Đại học bang Utah, đã viết trong Nature, rằng “các lý thuyết theo chu kỳ nằm lâu trong sự bất đồng.”
Nhưng Turchin chỉ mới bắt đầu. Ông đã dồn công sức của mình vào việc thu thập dữ liệu, và vào năm 2010 -như một cách tổ chức tốt hơn các dữ liệu đó để hỗ trợ so sánh giữa các xã hội -ông và hai nhà nhân chủng học tại Đại học Oxford đã lập nên Seshat[8], một ngân hàng dữ liệu về khảo cổ và lịch sử được đặt theo tên của nữ thần thông thái, kiến thức và văn tự của người Ai Cập cổ đại.
Seshat đã bị chỉ trích là ngân hàng hướng vào dữ liệu lớn nói chung. Chỉ vì có rất nhiều, các nhà phê bình nói, không có nghĩa là dữ liệu đáng tin cậy hơn. Ngược lại, một cơ sở dữ liệu như vậy có nguy cơ khuếch đại các thành kiến diễn giải của những người ban đầu ghi lại thông tin, trong khi tước bỏ bối cảnh của nó. Những người sáng lập Seshat phản công lại rằng thành kiến là một vấn đề trong lịch sử nói chung và chỉ có việc phân tích một lượng lớn dữ liệu mới đem đến một tín hiệu -thứ gì đó tiếp cận sự thật -để tách ra khỏi tiếng xì xào đó.
Cho đến nay, những người sáng lập Seshat và khoảng 90 chuyên gia cộng tác viên -bao gồm các nhà sử học, nhà khảo cổ và nhà nhân chủng học nổi tiếng -đã thu thập dữ liệu về các xã hội từ vùng đất thấp Andes đến lưu vực Campuchia và Iceland đến Thượng Ai Cập. Phân tích dự liệu này, Turchin chỉ ra hai chu kỳ tương tác giống nhau -cố hữu và cha và con -phù hợp với mô hình bất ổn trên khắp châu Âu và châu Á lui về tận những người nông dân đầu tiên. Họ đã hiện diện ở Ai Cập cổ đại, Trung Quốc và Rome -trong mọi xã hội tiền công nghiệp mà ông quan sát.
Câu hỏi tiếp theo rất rõ ràng: những chu kỳ này cũng có tác dụng trong các xã hội công nghiệp hiện đại không? Turchin cập nhật Ψ để phản ánh các yếu tố định hình một thị trường lao động hiện đại, và chọn các đại diện mới phù hợp với một thế giới công nghiệp hóa. Chúng bao gồm tiền lương thực sự cho tiềm năng huy động của quần chúng; tỷ lệ cản trở tại Thượng viện và giá học phí tại Yale về sự cạnh tranh tinh hoa; và lãi suất cho khả năng thanh toán của nhà nước. Sau đó, ông tính Ψ ở Mỹ từ năm 1780 cho đến hiện nay. Nó thấp trong cái gọi là Kỷ nguyên Cảm giác Tốt vào khoảng năm 1820, cao vào những năm 1860 -xung quanh cuộc nội chiến ở Mỹ -và lại thấp trong những năm sau chiến tranh thế giới thứ hai. Từ năm 1970 nó đã tăng đều đặn. Điều này không có nghĩa là chúng ta đã cam chịu khủng hoảng. Nhiều xã hội đã tránh được thảm họa -và Turchin đang xây dựng một mô hình để tìm ra cách họ đã thực hiện nó.
Vào cuối những năm 1980, Turchin đã đi đến các khu rừng ở Louisiana, nơi ngành công nghiệp gỗ đã tài trợ cho nghiên cứu của ông về sự phá hoại định kỳ và thiệt hại của một loài gọi là bọ cánh cứng phía Nam. Vào thời gian đó, cách thông thường để kiểm soát bọ cánh cứng là phun thuốc trừ sâu tại nơi xảy ra sự phá hoại. Turchin chỉ ra rằng điều đó chỉ kéo dài một cuộc tấn công, bởi vì nó đã giết chết một con bọ cánh cứng khác là loài ăn loài vật gây hại này. Một chiến lược tốt hơn là chặt và loại bỏ những cây bị ảnh hưởng. Rộng hơn, ông đã chỉ ra rằng có thể can thiệp vào một hệ sinh thái phức hợp để làm cho các cuộc khủng hoảng của nó bớt nghiêm trọng hơn và tối đa hóa cơ hội phục hồi.
Turchin hy vọng khám phá các chiến lược tương tự để giảm bớt khủng hoảng trong xã hội loài người. Nếu cách tiếp cận mà ông và Goldstone áp dụng cho mô hình lịch sử là đúng, điều đó có nghĩa là họ có thể hỏi một cách có ý nghĩa không chỉ năm 2020 chúng ta có gì, mà cả tương lai sẽ có gì kéo dài trong nhiều thế kỷ. Chúng ta không nên mong đợi bất kỳ lời tiên tri nào từ khoa học lịch sử mới này, nhưng nó có thể giúp chúng ta xác định các mối đe dọa cấu trúc đối với sự ổn định của xã hội chúng ta và hành động để giảm thiểu chúng.
Trong khi các xã hội có xu hướng bước vào khủng hoảng thông qua con đường mà Goldstone đã vạch ra, Turchin đã phát hiện ra rằng họ rời bỏ nó thông qua một loạt các quỹ đạo có thể, từ sự phục hồi nhanh chóng đến sự sụp đổ hoàn toàn. Bởi vì khủng hoảng làm cho một xã hội nhạy cảm với sự nhiễu loạn bên ngoài. Nếu không có điều gì gây bất ổn khác xảy ra, nó có thể phục hồi -như nước Anh đã làm sau cuộc Cách mạng Vinh quang gần như không đổ máu năm 1688. Nhưng một cú sốc nhỏ nữa có thể đẩy nó đến một kết quả tồi tệ hơn, thậm chí sụp đổ. Liên Xô đã suy tàn trước thảm họa hạt nhân Chernobyl năm 1986, nhưng Mikhail Gorbachev có thể không hoàn toàn sai khi ông đổ lỗi sự sụp đổ của nó cho sự kiện đó.
Để hiểu về giai đoạn này của chu kỳ rõ hơn, Turchin và những người khác lên kế hoạch xây dựng xã hội mô phỏng trên máy tính gồm hàng ngàn hoặc hàng triệu cá nhân -được gọi là mô hình dựa trên tác nhân -và lập trình cho họ hành xử theo luật pháp mà họ đã suy luận từ các xã hội thực. Họ có thể khiến những xã hội mô phỏng bị căng thẳng, ví dụ như bằng cách cấy một khối phồng thanh niên ảo, và quan sát các tác động xuôi dòng đối với nhà nước, giới thượng lưu và quần chúng. Khi đã đạt đến mức cao nguy hiểm, họ có thể gây sốc -dưới hình thức xâm lược nước ngoài, hoặc tăng khả năng phục hồi bằng cách củng cố cơ sở hạ tầng xã hội, và xem nó phản ứng như thế nào. Họ có thể hỏi những câu hỏi như: cần gì để thúc đẩy một xã hội đang gặp khủng hoảng đối với sự sụp đổ hoàn toàn? Những can thiệp nào sẽ dẫn nó đến một kết quả ít đẫm máu hơn? Tại sao một số xã hội kiên cường hơn những xã hội khác?
Dĩ nhiên, trải nghiệm của chúng ta với cuộc khủng hoảng khí hậu cho thấy rằng ngay cả khi chúng ta có thể dự đoán tương lai theo cách chúng ta có thể dự báo thời tiết và đưa ra một loạt các biện pháp phòng ngừa để ngăn chặn sự sụp đổ xã hội, không có nghĩa là chúng ta sẽ có thể tập trung ý chí chính trị để hành động theo khuyến nghị như vậy. Nhưng trong khi sự thật là xã hội loài người nói chung đã tái thiết tốt hơn sau thảm họa hơn là ngăn chặn chúng ngay từ đầu, vẫn có những trường hợp ngoại lệ. Turchin chỉ ra Thỏa thuận mới của Hoa Kỳ những năm 1930, mà ông coi là thời điểm mà giới tinh hoa Mỹ đồng ý chia sẻ sự giàu có ngày càng công bằng của họ, để đáp lại thỏa thuận ngầm rằng “những điều cơ bản của hệ thống kinh tế chính trị sẽ không bị thách thức.” Thỏa thuận này, Turchin lập luận, giúp xã hội Mỹ thoát khỏi một tình huống có khả năng xảy ra cách mạng.
Goldstone tiếp tục truyền bá thông điệp rằng các hiệp ước như vậy có thể hoạt động trở lại. Hiện là giáo sư chính sách công tại Đại học George Mason ở Virginia, ông cố vấn cho Hội đồng Tình báo Quốc gia -cơ quan tình báo Hoa Kỳ chịu trách nhiệm về chiến lược dài hạn -nhưng cho biết ý tưởng của ông có rất ít tác động. Tại một hội thảo về sự sụp đổ xã hội tại Đại học Princeton vào tháng 4 năm ngoái, có người đã hỏi ông tại sao các xã hội lịch sử thường không hành động, ngay cả khi các dấu hiệu của một cuộc khủng hoảng hiện ra là không thể bỏ qua. Ông cho rằng đó là bởi vì giới thượng lưu tiếp tục sống cuộc sống thượng lưu trong một thời gian sau khi mọi thứ bắt đầu sụp đổ.
Turchin tin rằng các nhà sử học sẽ sớm nắm lấy khoa học phức tạp, giống như các nhà sinh học đã làm cách đây nửa thế kỷ. Họ sẽ tiến tới nhận ra rằng nó cho phép họ nhìn sâu hơn và xa hơn, để phân biệt các hình mẫu mà mắt người không nhìn thấy được. Trong thực tế, nó đã xảy ra. Trong vài năm gần đây, một số tổ chức đã ra đời, chẳng hạn như Trung tâm Nghiên cứu Rủi ro Hiện hữu[9] tại Đại học Cambridge, với mục tiêu là khuyến khích các nhà hoạch định chính sách suy nghĩ về các bài học dài hạn của lịch sử. Cuộc họp tại Princeton có sự tham gia của một nhà phân tích rủi ro do Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển Kỹ sư Quân đội Hoa Kỳ, người nghĩ về cách làm cho Hoa Kỳ kiên cường hơn trước các mối đe dọa trong tương lai bằng cách tham khảo quá khứ.
Với Turchin, đây là những phát triển đáng khích lệ, nhưng năm 2020 đã gần kề với chúng ta và các tổ chức lập pháp ở cả Hoa Kỳ và Vương quốc Anh hiện đang bị chia rẽ theo các khuynh hướng tư tưởng mà họ hầu như không thể hoạt động. Ở cả hai quốc gia, các thành viên bất mãn của giới thượng lưu đã nắm quyền lực nhân dân, trong khi không giải quyết được các nguyên nhân cơ bản của sự bất ổn: mở rộng bất bình đẳng, giới thượng lưu phình lên, nhà nước lung lay.
Goldstone cung cấp điều an ủi anh ta có thể. “Vào thập niên 1930 không ai có thể tưởng tượng châu Âu sẽ giàu có như thế nào vào những năm 1960, hoặc toàn bộ lục địa sẽ trở nên thống nhất,” ông nói. “Mọi thứ có thể trở nên xấu trong một hoặc hai thập kỷ, chúng có khả năng tốt hơn nhiều khi bạn vượt qua khủng hoảng.” Điều đó nói lên sự an ủi vốn có trong một cái nhìn theo chu kỳ của lịch sử: rằng bên cạnh mỗi sự sụp đổ có một sự trỗi dậy khác, cũng như vượt qua mọi sự trỗi dậy lại có một sự sụp đổ khác. Mọi thứ sẽ lại tốt đẹp cho những người trong chúng ta vẫn còn ở đó để chứng kiến.
Lê Lam dịch từ tiếng Anh.
[1] Jeanne d’Arc (tiếng Pháp): nữ anh hùng người Pháp trong cuộc Chiến tranh giữa Pháp và Anh từ 1337-1453. Bà được Tòa thánh La Mã phong thánh. năm 1920.
[2] Oliver Cromwell: nhà lãnh đạo chính trị và quân sự người Anh, người đóng vai trò quan trọng trong việc thành lập nền cộng hòa ở Anh và sau đó là Huân tước bảo hộ của Anh, Scotland và Ireland.
[1]https://escholarship.org/uc/irows_cliodynamics
[2]https://www.nature.com/articles/463608a
[3]https://fragilestatesindex.org/
[4]https://www.youtube.com/watch?v=xMZlr5Gf9yY
[5]https://eeb.uconn.edu/faculty/#
[6]https://www.csh.ac.at/
[7]https://www.theguardian.com/news/2018/feb/15/why-silicon-valley-billionaires-are-prepping-for-the-apocalypse-in-new-zealand
[8]http://seshatdatabank.info/
[9]https://www.cser.ac.uk/
tin tức liên quan
Videos
Quảng trường Hồ Chí Minh: trưng bày chuyên đề: “Bác Hồ với mùa Xuân”
Tỉnh Nghệ An: phát động hưởng ứng Ngày Sách và Văn hóa đọc năm 2023
“Đừng nói mà xui” nhìn dưới góc độ ngôn ngữ học và tâm lý học
Những kỷ vật của Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Bảo tàng Xô viết Nghệ Tĩnh
Ông nghè Ngô Đức Kế và cô Kiều
Thống kê truy cập
114576335

2139

2332

21648

223392

130677

114576335