Góc nhìn văn hóa
Cần trân trọng, giữ gìn và tự hào văn hóa Tết cổ truyền!

Du Xuân
Trước hết, cần phải khẳng định rằng: Cộng đồng Bách Việt là cộng đồng đông đảo nhất và quan trọng nhất và là chủ nhân của nền văn hóa Trung Hoa, như ngày nay chúng ta biết. Từ thời thượng cổ, cộng đồng Bách Việt đã là chủ nhân cụ thể nhất, rõ ràng nhất và nổi trội nhất của lãnh thổ rộng lớn bao gồm cả Trung Quốc và Việt Nam ngày nay...
Do sự biến động của lịch sử, và do sự thôn tính nhau của các tộc người chưa văn minh... cộng đồng Bách Việt ("câu ngạn ngữ "tránh voi chẳng xấu mặt nào" của người Việt) buộc phải vượt về phía Nam để tồn tại. Đại diện ưu tú nhất là hai bộ tộc Âu Việt và Lạc Việt tức người Việt Nam chúng ta ngày nay...
Trải qua hàng chục ngàn năm khai khẩn, kiến tạo, cư trú, tồn tại và sáng tạo, cùng với các tộc người khác trên lãnh thổ Trung Hoa ngày nay, cộng đồng Bách Việt đã góp phần cực kỳ quan trọng làm nên nền văn minh rực rỡ như chúng ta đã biết... Dấu ấn đặc biệt nhất của người Việt đó là nền văn minh lúa nước.
Để canh tác lúa nước thuần thục - người Việt đã sáng tạo nên lịch mặt trăng tức âm lịch. Cùng với lịch mặt trăng người Việt đã sáng tạo ra Kinh dịch, Tử vi-Ngũ hành, Chiêm tinh - bói toán... Đây là những ngành khoa học mà lâu ngày bị "tam sao thất bản" (Lạc Thư là sách của người Lạc Việt, Hà Đồ là hình vẽ trên mai rùa của người Lạc Việt...)
Kinh là sách, Kinh cũng là từ để chỉ người Kinh tức người Việt. Kinh Dịch là toán học của người Kinh tộc - sách toán của người Kinh - người Việt. Đó là phương pháp tính toán để biết về sự biến đổi, biến động của vũ trụ và trong toán học...
Ngay cả chữ tượng hình mà ngày nay cái gọi là..."chữ Hán"(?!!) cũng do cộng đồng Bách Việt sáng tạo trước đó hàng ngàn năm khi thiên hạ chưa ai tưởng tượng được nhà Hán là cái gì...
Nhờ có lịch mặt trăng mà người Việt canh tác lúa nước một cách nhuần nhuyễn, đạt đến trình độ văn minh rực rỡ:
"Tháng Chạp là tháng trồng khoai
Tháng Giêng trồng đỗ, tháng Hai trồng cà
Tháng Ba cày vỡ ruộng ra
Tháng Tư gieo mạ thuận hòa mọi nơi
Tháng Năm gặt hái xong rồi
Trời đổ mưa xuống nước trôi đầy đồng...”
Những câu ca dao lục bát triết lý về nông nghiệp này, chỉ có duy nhất người Việt mà thôi!
"Tháng Giêng trồng đỗ tháng hai trồng cà..." Chứ không phải là tháng Giêng là tháng ăn chơi - như một "dị bản" tếu táo trong dân gian đâu...!
Việc chọn tháng Giêng (Kiến Dần) để ấn định ngày Tết là một triết lý cực kỳ cao siêu và thâm thúy của tổ tiên người Việt. Tết được phát âm "chại" theo từ Tiết - Chỉ theo mùa: Xuân, Hạ, Thu, Đông...Tiết mùa Xuân được ấn định làm ngày Tết.
Bởi lẽ, một năm khởi đầu bằng mùa Xuân. Để khởi đầu may mắn và thành công nên tổ tiên ta đã dạy: "Tháng giêng trồng đỗ” (mong cho thành công, đỗ đạt).
Văn hóa đỉnh cao và rực rỡ của Tết người Việt không phải một sớm một chiều mà chúng ta có thể nghiên cứu và trình bày hết được. Tuy nhiên, hãy "ngẫm ngợi" trong ba ngày Tết để thấy rõ các cụ “cao siêu”, tinh tế biết dường nào.
Sau 12 tháng lao động, dành ra ba ngày Tết để tái tạo lại sức lao động, có đáng để chúng ta ngẫm ngợi và tự hào về sự văn minh của tổ tiên không?
Cuộc sống luôn luôn vận động trong từng cá nhân gia đình, họ mạc, làng xóm và cả đất nước - có ai đó không bị va chạm không?
Đương nhiên là phải có.
Mà đã có thì bị sứt mẻ, rạn vỡ, mất lòng mất bề... Ba ngày Tết cũng là thời điểm để "hòa giải yêu thương" trong cuộc sống! Đề rồi bước vào một năm mới tiếp tục lao động cống hiến cho gia đình và xã hội - ý nghĩa biết nhường nào!
Chơi đu ngày Tết. Ảnh Trang Đoan
Trò chơi ném Pao của thanh niên Mông trong ngày Xuân. Ảnh: Ngọc Mai
Các trò chơi trong dịp Tết: đánh cờ, đánh đu, kéo co, hội lồng tồng... hát giao duyên, hát đối trong ngày xuân - đó có phải là cách tái tạo lại sức lao động, tái tạo lại trí lực, thể lực và sự giao hòa của người với người trong cộng đồng hay không?
"Đói quanh năm no ba ngày Tết", đây là một nét nhân văn đặc biệt của văn hóa Việt Nam. Trong dịp Tết, cộng đồng Việt không có người bị đói. Đó là truyền thống từ ngàn đời nay, kể cả người đi hành khất cũng được cộng đồng chia sẻ thức ăn trong ba ngày Tết để được no.
Hơn 2.500 năm trước, khi đạo Phật chưa du nhập vào Việt Nam để cho những người hành khất được "nương nhờ cửa Phật" thì những người chưa may mắn này vẫn được no ba ngày Tết cơ mà!?
Đó là truyền thống và là đạo lý "thương người như thể thương thân" của người Việt. Theo cố triết gia, giáo sư Lương Kim Định thì ngay từ thời thượng cổ, người Việt đã có thiết chế dân chủ rất cao. Cộng đồng người Việt đã đặt ra chế độ "công sản" (đất công) để hỗ trợ giúp đỡ những người đi làm ăn xa hoặc những người cơ nhỡ không có công cụ sản xuất...
Còn theo cố giáo sư Trần Quốc Vượng thì "cây đa bến nước sân đình" là biểu tượng dân chủ và là cơ chế mở và hòa đồng riêng có của người Việt không lẫn với bất kỳ dân tộc nào!
Chỉ từ khi Khổng giáo du nhập vào Việt Nam thì mới có tệ phân biệt nam nữ!
Còn truyền thống của người Việt là Mẫu hệ. Chỉ có người Việt mới có Đạo Mẫu: "Nuôi Cái cùng con...", quý con gái đến mức gọi con gái là "con gái rượu".
Vợ chồng ăn ở với nhau thì "thuận vợ thuận chồng tát bể đông cũng cạn”. "Chồng ta áo rách ta thương/chồng người áo gấm xông hương mặc người"; "Râu tôm nấu với ruột bầu, chồng chan vợ húp gật đầu khen ngon...".
Ngày Tết, ngày đầu Xuân, trong gia đình họ mạc, làng xóm… đều truyền tụng cho nhau thuần phong mỹ tục cổ truyền của gia đình, họ mạc, làng xóm cộng đồng...
Con cháu học hành, làm ăn tấn tới thì được coi là "phương trưởng". Khi đi xa thì chúc cho "chân cứng đá mềm"...
Hàng xóm láng giềng với nhau thì "giúp nhau khi tối lửa tắt đèn".
Khuyên con cháu thì "chị ngã em nâng", "anh khi này - mày khi khác", "bố nó lú có chú nó khôn"..."sảy cha còn chú, sảy mẹ bú dì"...
Cách dạy con thì cực kỳ nghiêm khắc và tế nhị: "cá không ưa muối cá uơn/con cãi cha mẹ trăm đường con hư..." (xa lạ hoàn toàn với nước tương và xì dầu của Trung Quốc...). Vì mắm và nước mắm là đặc trưng của một quốc gia biển Việt Nam..!
Tôn giáo của người Việt là "tu đâu cho bằng tu nhà/thờ Cha kính Mẹ mới là chân tu"...
Trên đây là đôi nét "chấm phá" phong tục tập quán và thuần phong mỹ tục ba ngày Tết của người Việt. Có lẽ phải viết rất nhiều tập sách mới mô tả hết. Còn trong thời khắc này (23 tháng Chạp) người viết xin nói đôi điều mong mọi người, mọi nhà và cộng đồng người Việt Nam chúng ta quan tâm đến "tài nguyên văn hóa" mà Tổ tiên ta để lại. Cần coi đó như là một "hệ sinh thái" riêng có của người Việt để chúng ta tiếp tục Trường Tồn, tiếp tục cống hiến cho nhân loại những giá trị văn minh mà ông cha chúng ta đã để lại...
Điều cuối cùng là: mong mọi người hãy đừng đánh đồng sự giống nhau Tết Nguyên đán của Việt Nam và Trung Quốc mà coi đó là Tết của Trung Quốc.
Không! Tổ tiên cộng đồng Bách Việt đã sáng tạo và cống hiến liên tục hàng chục ngàn năm mới có nền văn minh này (ngay cả các nhà nghiên cứu sử học và văn hóa dân gian của Trung Quốc cũng phải thừa nhận những cống hiến cực kỳ quan trọng của cộng đồng Bách Việt.
Tại sao chúng ta lại cứ khăng khăng cho đó là văn hóa của Trung Quốc?
Đau đớn thay!
Mong rằng: các nhà Khoa học, các nhà Nghiên cứu Văn hóa, Di truyền học, Nhân chủng học, Sử học... và toàn thể cộng đồng người Việt trong và ngoài nước cần tiếp tục chung tay nghiên cứu để sáng tỏ thêm...
Lịch sử vốn không có chữ "nếu". Song, người viết những dòng này chợt nhớ tới câu nói cực kỳ ấn tượng của Thiền sư Lê Mạnh Thát: "để thỏa mãn "não trạng" tham lam bành trướng của các thế lực phong kiến Trung Hoa. họ đã "đoạt khống" lịch sử Việt Nam”... trong loạt bài phóng sự: "Thiền sư Lê Mạnh Thát và những phát hiện chấn động Lịch sử”(tác giả Hoàng Hải Vân - Báo Thanh Niên) cách đây 10 năm. Đó là việc hơn hai ngàn năm qua Sử sách Phật giáo Việt Nam không hề có một dòng nào ghi lại sự..."đô hộ" của phong kiến Trung Quốc (?!)... Thế nhưng người trần mắt thịt lại cứ tin vào những pho sách của phong kiến phương Bắc du nhập sang và họ đã bịa ra... 1000 năm "Bắc thuộc"...?! Khó hiểu.
Đây là vấn đề mà giới sử học cần phải làm sáng tỏ. Đặc biệt,cần tránh và hết sức cảnh giác với tài liệu của họ để “chép sử” cho ta!
-------
tin tức liên quan
Videos
Chủ tịch Hồ Chí Minh và vấn đề sử dụng nhân tài
Hội thảo khoa học “Kịch hát Nghệ Tĩnh - Xu thế hội nhập và phát triển”
Một cách viết sử của Giáo sư Lê Thành Khôi
Quảng trường Hồ Chí Minh: trưng bày chuyên đề: “Bác Hồ với mùa Xuân”
“Đừng nói mà xui” nhìn dưới góc độ ngôn ngữ học và tâm lý học
Thống kê truy cập
114576109

2245

2249

21422

223166

130677

114576109