Nhìn ra thế giới

Trung Quốc và châu Âu (kỳ 4)

III . Tổ tiên và Trời- Bách thần- ý nghĩa và thành phần của Trời Trung Hoa - Tục phong thần

Cái phong tục, cho đến giờ vẫn chưa biến mất hẳn, hy sinh người đương sống cho những người đã chết chỉ là một biểu hiện mãnh liệt nhất và cụ thể nhất của sự sùng bái

quá khứ là cơ sở chung cho toàn bộ thể chế Trung Hoa. Chính sự sùng bái quá khứ ấy ấn định trước hết tính thống nhất và bền chặt của gia đình Trung Quốc. Sự chuyên quyền của người cha sẽ không giữ được ý nghĩa tuyệt đối, nếu mà nó không có hậu thuẫn độc lập với cá nhân con người ấy và bất cập đối với cái chết. Với tư cách một đại diện toàn quyền lâm thời của tổ tiên ở cõi vĩnh hằng, với tư cách một tư tế của họ và một trung gian giữa họ với các thành viên gia tộc đang sống, người cha là hiện thân của nguyên lý tôn giáo cao nhất, nguyên lý ấy truyền cho quyền lực thực tế của ông ta uy tín thiêng liêng. Chuyển dịch trọng tâm của mình vào quá khứ, vào lĩnh vực của thực tại tuyệt đối, bất biến và bất động, gia đình Trung Quốc tự nó thu nhận được độ bền của một thực tại bất di bất dịch chiến thắng sức mạnh của thời gian.

Có một thâm tính cực kỳ to lớn, yếu tố tôn giáo gia đình ở Trung Quốc cũng bộc lộ cả một sức mạnh quảng tính vĩ đại, chiếm lĩnh và quy định bởi mình toàn bộ chính thể của một quốc gia đông dân nhất và trường tồn nhất trên thế giới. Cường quốc Trung Hoa, với tất cả bộ máy hành chính quan liêu phức tạp của nó, kiên trì bảo tồn tính gia trưởng là thuộc tính của những quốc gia khác chỉ trong những thời đại lịch sử nhất định - thực tại ấy ai ai cũng biết. Nhưng thoạt nhìn có thể có cảm tưởng rằng cơ sở tôn giáo của cái chế độ nhà nước gia trưởng ấy là khác hẳn so với gia đình cá thể. Người chủ gia đình là tư tế trong công việc thờ cúng tổ tiên, với tư cách người con, người cháu của cha ông đã mất, anh ta là người môi giới giữa họ và gia đình của mình; hoàng đế Trung Hoa là vị tư tế trong việc thờ cúng Trời, với tư cách Con Trời (Thiên Tử) trên mặt đất, anh ta làm trung gian giữa trời với đất, nhưng Trời là cái gì theo quan niệm Trung Hoa? Trước tiên phải phân biệt ý tưởng trời trong các hệ thống triết học Trung Hoa với quan niệm về trời trong tôn giáo thực chứng của nước này. Theo học thuyết triết học Trung Hoa trong hai trường phái chính của nó (đạo gia và nho gia) thì trời và đất là sự hiện thực hoá liên hỗ đầu tiên của hai lực cơ bản, mà hai lực ấy lại là hệ quả của sự lưỡng phân của một tiềm lực tự nhiên thống nhất tuyệt đối - đạo; trong hai lực ấy, như ta biết, một lực là chủ động, nam tính- dương, còn lực khác là thụ động, nữ tính - âm; trời là sự hiện thực hoá, hay là hiện thân khởi thủy của dương, còn đất là sự hiện thực hoá cũng như thế của âm. Nếu khái niệm tiềm lực tuyệt đối của sinh tồn trong sự hiển lộ vũ trụ của mình phân hoá thành hai cực đối lập thuộc về lĩnh vực triết học tư biện, chứ không phải tín ngưỡng dân gian, thì dĩ nhiên cả giới thuyết về trời như là sự hiện thực hoá đầu tiên của một trong những cực siêu hình ấy của tất cả những gì tồn hữu cũng không thể thêm thắt một cái gì cho ý thức tôn giáo thực chứng của nhân dân. Mặt khác, tuyệt không có một căn cứ nào hết để đồng nhất “trời” của tôn giáo Trung Hoa với "đấng sáng tạo" của thần luận phương Tây, như một số nhà Trung Hoa học ngày nay noi theo các nhà truyền giáo cũ vẫn làm. Vấn đề về ý nghĩa đích thực của tư tưởng tôn giáo cơ bản ấy của người Hoa có lẽ sẽ được giải quyết rất dễ dàng, nếu mà những sách thánh của Trung Quốc được lưu truyền đến chúng ta dưới dạng nguyên thủy của chúng, chứ không bị Khổng Tử cải biên nhằm làm cho tín ngưỡng dân gian thích hợp với học thuyết chính trị-xã hội của ông. Nhưng vì học thuyết ấy, như ta sẽ thấy, chỉ mang tính duy lý về hình thức, chứ về bản chất thì vẫn theo đuổi những mục tiêu của chủ nghĩa bảo thủ quốc gia-dân tộc, cho nên mặc dù nó lấy những quan niệm lý tưởng trừu tượng để che đậy một phần ý nghĩa khởi thủy của tín ngưỡng dân gian, song vẫn không xoá bỏ được hoàn toàn ý nghĩa ấy. Và quả thật, về cái ý nghĩa khởi thủy ấy chúng ta có thể tìm thấy những chỉ dẫn không chỉ trong bộ Ngũ Kinh bảo tồn dưới dạng ít nhiều đổi mới những trước tác cổ xưa nhất của thư tịch Trung Hoa, mà còn trong bộ Tứ Thư cũng có giá trị kinh điển, chứa đựng học thuyết của bản thân Khổng Tử và môn đệ chính của ông - Mạnh Tử. Những trước tác sau ấy đối với chúng ta quan trọng hơn những trước tác đầu, bởi vì chúng có ý nghĩa cả cho nước Trung Hoa ngày nay. Trong những đàm luận của Mạnh Tử (sách cuối cùng trong bộ Tứ Thư) có một chỗ theo tôi có ý nghĩa quyết định. Để hiểu được rõ hơn, xin dẫn đoạn ấy trong quan hệ với ngữ cảnh vừa đề cập.

“Vạn Chương* hỏi rằng: “Vua Nghiêu đem thiên hạ mà cho ông Thuấn, có phải vậy không?”. Mạnh Tử đáp: “Không, bậc Thiên tử chẳng được tự quyền đem thiên hạ mà cho kẻ khác.”

-                      Nhưng ông Thuấn có thiên hạ. Vậy ai đã cho ngài?

-                      Trời cho đó.

-                      Nếu Trời đã đem thiên hạ mà cho ông Thuấn, vậy Trời có đinh ninh căn dặn những gì không?

-                      Không, Trời chẳng tỏ ra lời. Chẳng qua vì ông Thuấn có đức hạnh và sự nghiệp, cho nên Trời ngấm ngầm mà cho vậy thôi.

Vạn Chương hỏi tiếp: “Nhờ đức hạnh và sự nghiệp nên Trời ngấm ngầm mà cho, vậy cách cho như thế nào?” Mạnh Tử giải rằng: “Vua Thiên tử có thể tiến cử một người với Trời, chứ chẳng có quyền khiến Trời phải đem thiên hạ mà cho người ấy. Vua chư hầu có quyền tiến cử một người với vua Thiên tử, chứ chẳng có quyền khiến vua Thiên tử phải đem ngôi chư hầu mà cho người ấy. Quan đại phu có thể tiến cử một người với vua chư hầu, chứ chẳng có quyền khiến vua chư hầu phải đem chức đại phu mà phong cho người ấy. Thuở xưa, vua Nghiêu tiến cử ông Thuấn với Trời thì Trời nhận chịu; kế ngài tuyên bố ông Thuấn với dân thì dân cũng chịu.Vì vậy nên ta đã nói: "Trời chẳng tỏ ra lời. Chẳng qua vì ông Thuấn có đức hạnh và sự nghiệp, cho nên Trời ngấm ngầm mà cho vậy thôi."

Vạn Chương hỏi thêm: “Tôi dám hỏi thầy: Vua Nghiêu tiến cử ông Thuấn với Trời thì Trời nhận chịu, kế ngài tuyên bố ông Thuấn với dân thì dân cũng chịu. Thể cách hai việc ấy như thế nào?” Mạnh Tử giải rằng: “Khi vua phái ông Thuấn thay mặt ngài mà làm chủ tế, thì bách thần đều được hưởng lễ vật. Đó là Trời nhận chịu ông Thuấn vậy. Khi vua Nghiêu đưa ông Thuấn ra thay mặt ngài mà cai quản việc nước, thì mọi việc đều được ổn trị, và bách tính đều được an thuận. Đó là dân cũng chịu ông Thuấn nữa vậy.”*

Như vậy việc Trời nhận chịu một ai đó có nghĩa là bách thần cũng nhận chịu anh ta, tiếp nhận những lễ vật của anh ta. Trong đoạn văn vừa dẫn hai khái niệm ấy: trời bách thần được xem là đồng đẳng tuyệt đối, được đồng nhất hoá trực tiếp. Giống như từ “trăm họ” (bách tính) chỉ là tên gọi khác của dân trộc Trung Hoa, cũng đúng như thế “trăm thần” (bách thần) chỉ là tên gọi khác của Trời. Nhưng từ đâu có từ ấy và phải hiểu hàm nghĩa của nó như thế nào?

Như ta biết, một số dân tộc ở trạng thái ấu thơ, cũng như trẻ nhỏ, không có khái niệm riêng rẽ về những số lớn. Một số tộc người chỉ đếm được đến ba, một số sắc tộc khác đếm được đến năm, mười v. v... ý nghĩa đặc biệt gắn liền với chữ bách (một trăm) trong tiếng Hán chỉ có thể được giải thích bằng việc khi những thủy tổ của người Hán hiện nay tách khỏi bộ tộc Mông và tự lập thành một dân tộc riêng, họ mới chỉ đếm được đến một trăm. Một trăm đối với họ là con số giới hạn, cuối cùng và hoàn hảo, nó đồng nghĩa với khái niệm hết thảy, tức là một tập hợp đầy đủ của một loạt đối tượng nào đó. Cho nên thay vì nói dân tộc, họ nói trăm họ, tức là tất cả các gia tộc hợp thành

dân tộc; với lại, xem mình là một dân tộc ưu việt, họ ứng dụng từ ấy chỉ vào bản thân mình và biến nó thành tên của dân tộc mình.* Hệt như “trăm họ” có nghĩa là tất cả các họ, toàn thể dân tộc, cũng đúng như thế “trăm thần” có nghĩa là tất cả các thần trong tổng thể, toàn bộ thế giới tâm linh. Và nếu từ đoạn văn vừa dẫn ta đã thấy rõ rằng trời và bách thần là một, thì đằng sau chữ trời của tôn giáo Trung Hoa cần phải hiểu không phải một cái gì khác, mà là tổng thể đầy đủ của tất cả các sinh linh tinh thần siêu nhân.

Cũng trong quyển sách Trung Hoa kinh điển ấy (nhưng tất nhiên không chỉ trong đó) chúng ta tìm thấy một chỉ dẫn trực tiếp về việc dân tộc Trung Hoa quan niệm bản thân mình trong quan hệ thực tế với trời như thế nào. Trời sinh ra giống người này trên mặt đất, muốn cho bậc tiên tri khai thông cho hạng hậu tri, muốn cho bậc tiên giác khai ngộ cho hạng hậu giác”.*

Dân tộc Trung Hoa là sản phẩm, là con của trời. “Bách tính” quan hệ với “bách thần” cũng như các gia đình quan hệ với tổ tiên đã sản sinh ra họ. Bách thần là tổ tiên của tất cả, cũng như thần của các gia đình là tổ tiên của họ. Và nếu mỗi một gia đình gắn bó với khởi nguyên vô hình của mình thông qua một tâm điểm hữu hình - thông qua người cha - gia chủ, người cha ấy là con, là cháu chính tông của cha ông đã quá cố, là đại diện cho khối nhất thống gia tộc, là người chủ tế và người phụng sự tổ tiên, thì cũng đúng như thế, cả “Bách tính”, tức là toàn bộ dân tộc Trung Hoa, để bảo toàn quan hệ thường hằng và thấy được của mình (với tư cách một chỉnh thể thống nhất) với nguyên căn của sự tồn tại của mình và cội nguồn của cuộc sống đúng đắn của mình - toàn bộ dân tộc ấy tập trung hướng về một chúa tể tối cao và một người cha chung, coi người ấy chính là con trời (thiên tử), là chủ tế và là nhân vật chính phụng sự “bách thần”. Anh ta cũng kết nối với trời toàn bộ chỉnh thể quốc gia-dân tộc, y như người gia chủ cá thể kết nối gia đình mình với tổ tiên.

Sự tương ứng giữa việc thờ cúng tổ tiên của các gia đình với việc người đứng đầu quốc gia thờ cúng trời là toàn diện. Nhưng đó mới chỉ là sự tương ứng. Còn phải tìm hiểu: “bách thần” ấy hay là tất cả các thần hợp thành “trời” Trung Hoa ấy tự họ là những ai? Họ có quan hệ thực tế gì không, và nếu có thì như thế nào với những thủy tổ của các gia đình cá thể, với vong linh của các tổ tiên đã qua đời?

Trước hết, sẽ là sai lầm từ sự đồng nhất giữa quan niệm “trời” với quan niệm “bách thần” đi đến kết luận rằng tôn giáo thờ cúng trời bao hàm chỉ những thần có quan hệ nào đó với những hiện tượng thấy được của thiên giới như các hành tinh, các chòm sao v. v... Nếu trời và đất khác biệt nhau rõ rệt trong trực quan của con người và đối lập trực diện trong triết tố Trung Hoa về dươngâm, thì tuyệt không được khai triển điều này sang lĩnh vực tôn giáo thực chứng của người Hoa. ở đây trời bao hàm tất cả các thần, tức là không chỉ các thần tinh tú và khí quyển, mà còn cả các thần của những hiện tượng tự nhiên trên mặt đất như nước, núi, rừng, và cả các thần phù trợ cho các địa phương, các đô thành, các nghề và các phẩm hạnh con người. Thần điện Trung Hoa, xét về tính phong phú và toàn diện của nó, vị tất thua kém thần điện Hy Lạp - La Mã. Thế thì từ đâu được tập hợp nên cái thành phần thực tế của toàn bộ thần điện ấy?

Có một thuyết nổi tiếng, trong thời cổ đại được đại diện bởi Eugemère, còn thời nay thì được Herbert Spenser phát triển trong xã hội học của mình - thuyết ấy nói rằng tất cả các thần thực chất là những con người đã chết. Dưới hình thức tuyệt đối như thế thuyết ấy không đứng vững được trước sự phê phán, nhưng cái phần chân lý chứa đựng trong đó có thể được ứng dụng vào tôn giáo Trung Hoa nhiều hơn vào bất kỳ tôn giáo nào khác. Thoạt nhìn có thể có cảm tưởng rằng trời Trung Hoa không thể là một cái gì khác ngoài tập hợp của các tổ tiên người Hoa. Quả thật, giống như toàn bộ dân tộc xét về thành phần thực tế chỉ là tập hợp của các gia đình cá thể, thì tưởng chừng cũng như thế, người cha của dân tộc ấy - Trời - trên thực tế cũng phải được hợp thành bởi tất cả các tổ phụ cá thể. Nhưng một kết luận như thế sẽ là vội vã. Việc thờ cúng trời ở Trung Quốc hoàn toàn mang tính quốc gia-dân tộc. Dân tộc Trung Hoa như một chỉnh thể văn hoá-chính trị tôn thờ trời thông qua ông vua của mình, và chỉ theo nghĩa sau ấy trời mới là cha của dân tộc Trung Hoa. Cho nên không có một sở cứ nào đưa vào đối tượng của sự thờ cúng ấy những tổ tiên chỉ có ý nghĩa riêng tư đối các gia tộc của họ, nhưng đã không làm nên một cái gì đặc biệt và không thể hiện mình trong lĩnh vực đời sống chung của dân tộc hay quốc gia. Và quả thật, mặc dù bằng những sắc lệnh của triều đình, gọi là sắc phong thần, thần điện Trung Hoa thường xuyên được bổ sung bằng những người Trung Quốc đã qua đời, nhưng không phải bằng bất kỳ ai, mà chỉ bằng những người được lựa chọn. Những người đã chết được vinh dự kết nạp vào thành phần của trời-cha-của-tổ-quốc, hay là vào hợp quần của các thần linh, thường thường nhờ những công trạng mẫu mực của họ trong đời sống dân tộc, đặc biệt trong lĩnh vực nhà nước; trong một số trường hợp hãn hữu hơn, sự phong thần có được nhờ những sự hiển linh sau khi chết khiến công chúng để ý đến và bộc lộ ở người quá cố những phẩm giá đặc biệt.

Những thần hay là thần linh được sắc phong từ những người trần có rất nhiều, và họ thuộc về những thời đại rất khác nhau. Bạn đọc đã dể ý đến câu chuyện được dẫn giữa Mạnh Tử và Vạn Chương có lẽ sẽ rất ngạc nhiên được biết rằng người đàm đạo khiêm nhường với nhà triết học trứ danh ấy, sống khoảng 400 năm trước công nguyên và suốt đời chỉ suy nghĩ và đàm luận, không phải là ai khác mà là Vạn Chương Đế, thần của mọi khoa học, người phù trợ cho các học giả và học trò, được tất cả mọi người Hoa rất mực tôn kính và có ở tỉnh Quảng Châu một trong những đền thờ nổi tiếng nhất trong khắp Trung Quốc.

Tướng Guan-goi, sống vào thế kỷ III trước C.N. được phong làm thần chiến tranh Guan-di vào năm 1594 sau C.N. Hai vị tướng Tsin-Tsiun và Yui-Gshi-Gun, sống vào thế kỷ VII trước C.N, được phong thần vì đã canh giữ cấm thành tốt không để yêu ma quấy nhiễu. Quan thượng thư Kai Luseng (sống vào t. k. X tr. C. N.) vì đã biểu lộ sự tháo vát khác thường trong tang lễ của hoàng hậu, sau khi chết được phong danh hiệu “thần dọn đường” hay là “thần quét sạch mọi hiểm họa trên đường”. Cuối cùng, một phụ nữ Trung Hoa đã trực tiếp trở thành nữ hoàng của trời - “thiên hậu”. Bà là người tỉnh Phúc Kiến và sinh thời chẳng có gì khác người . Nhưng sau khi bà chết họ hàng của bà loan báo cho hàng xóm láng giềng rằng hồn bà thường xuyên lui tới nhà họ; từ đấy người ta cho rằng bà đã hoá thần và đã xây đền thờ bà. Vị nữ thần mới này nhanh chóng trở nên nổi tiếng, và biên niên sử tỉnh Phúc Kiến kể nhiều chuyện về việc bà cứu sống những người đắm thuyền ngoài biển trong dông bão. Danh hiệu “Thiên hậu” được chính thức phong cho vị nữ thần này bởi hoàng đế Đạo Quang.*

Đối với những đối tượng như tôn giáo dân gian thật khó có thể đưa ra những yêu cầu về tính nhất quán, tính hệ thống và tính xác định nghiêm ngặt. Với một đính chính như thế có thể mạnh dạn khẳng định rằng trời của tôn giáo Trung Hoa về thành phần thực tế của mình là hợp quần của những người Hoa đã quá cố - những người bằng những đặc tính hay công trạng của mình đã góp phần cho sự hình thành và phát triển Trung Quốc như là một chỉnh thể chính trị-dân tộc, đã sản sinh ra nước Trung Quốc theo nghĩa ấy; chính vì thế mà trời là cha của dân tộc Trung Hoa.

 

 


* Một trong những môn đệ của Mạnh Tử.

 

*Mạnh Tử, quyển Năm, 5 (7)

* Vả lại, người Hán ban đầu có thể gọi mình là tất cả các họ không chỉ xuất phát từ lòng tự cao tự đại dân tộc, mà còn theo cả lẽ công bằng, nếu giả định của chúng tôi, rằng lúc đó những tộc người Mông khác còn ở trong tình trạng tính giao bừa bãi chưa đạt tới hình thức sinh hoạt gia đình, là đúng.

*Mạnh Tử, quyển năm, 7.

* Georgievsky, tr.179 -184

 

 

tin tức liên quan

Thống kê truy cập

114574675

Hôm nay

2273

Hôm qua

2317

Tuần này

22221

Tháng này

221732

Tháng qua

130677

Tất cả

114574675