Nhìn ra thế giới
Nền giáo dục Mỹ do tôn giáo tạo nên
Đại học Harvard nổi tiếng thế giới do mục sư Harvard xây dựng năm 1636. Nguồn ảnh: Internet
Giáo dục Mỹ đạt thành tựu vô cùng to lớn, đứng đầu thế giới về nhiều mặt: Số lượng đào tạo, chất lượng đào tạo, các nhà khoa học có trình độ cao... Theo con số của Hội đồng giáo dục Hoa Kỳ (American Council on Education - ACE) cho biết, đến nay ở Mỹ có 4.096 trường và viện Đại học, trong đó 58% là tư thục với 22% tổng số sinh viên. Trong đó có 1.800 trường và viện Đại học, có chương trình đào tạo cấp bằng và đã được kiểm định chất lượng cao. Bên cạnh đó, hệ thống giáo dục Mỹ có 6.737 cơ sở dạy nghề khắp các bang và hàng vạn trường Mẫu giáo và Phổ thông Cơ sở, Phổ thông Trung học...
Ngay từ thế kỷ XVII, khi nước Mỹ ra đời, tất cả các cơ sở giáo dục ở Mỹ là do Giáo hội Thiên Chúa giáo (Kito) lập nên. Họ là lực lượng lớn nhất, với cơ sở vật chất của tôn giáo, với đội ngũ trí thức - các cha cố, linh mục - được đào tạo bài bản và có trình độ từ các nước châu Âu, di cư cùng giáo dân sang lục địa mới. Với nguyện vọng và ý chí tách khỏi tôn giáo già cỗi, lạc hậu ở châu Âu, đội ngũ trí thức này của Kito giáo khi đến Mỹ có một không gian địa lý và tư tưởng mới nên càng thúc dục họ phải có một nền giáo dục mới cho giáo dân ở một thế giới mới. Bắt đầu là lớp dạy chữ cho con em giáo dân, trong từng đợt di cư đến Mỹ.
Trở lại lịch sử tôn giáo Mỹ, khi những tín đồ tôn giáo đầu tiên đến Mỹ cùng chung sức trong một cộng đồng mới, những người Thanh giáo (tách ra từ Kito - Thiên Chúa giáo La mã) chạy trốn sự đàn áp của tôn giáo châu Âu đến từ nước Anh. Họ vốn mang theo niềm tin và đề cao Kinh thánh, coi đó là thế giới và vũ trụ toàn năng. Con người sống được, có niềm vui và hạnh phúc, có ý nghĩa trên đời, tất cả là nhờ Chúa trời (God) do đó tất cả mọi thành viên phải là tín đồ của Chúa và phải có khả năng hiểu được Kinh thánh. Để hiểu được phải có tri thức và các thế hệ đi trước ai cũng có trách nhiệm mà Chúa giao phó là dạy dỗ, giáo dục con cháu và thế hệ kế tiếp thấm nhuần Kinh thánh, phải lấy đó làm đạo đức tôn giáo. Vấn đề này là nguyện vọng và khát vọng của tín đồ Thanh giáo. Mong ước đó thì chỉ những ai có tri thức, được học hành chu đáo mới thực hiện được. Đành rằng ở đâu cũng có mục sư truyền đạo, giảng nghĩa, tuyên truyền Kinh thánh nhưng để có thể hiểu biết thấu đáo gần với Chúa hơn thì phải đọc được Kinh thánh mới là những con chiên ngoan đạo. Hơn nữa, kinh qua thực tế ở nước Anh, Giáo hội Anh quốc không làm được điều này. Thời Trung cổ, ở nước Anh, tôn giáo là một lực lượng thống trị xã hội xã hội bằng biện pháp ngu dân nên những tín đồ này mới bỏ quê hương, giáo xứ của mình đi tìm đất mới với trái tim yêu kính Chúa nóng bỏng. Đến lục địa Mỹ, vùng đất mới, họ muốn tách hẳn, xóa bỏ hẳn ký ức đau buồn về quá khứ với mong muốn xây dựng một vương quốc tôn giáo mới của Kito hoàn toàn khác với tôn giáo ở nước Anh. Chính vì vậy mà tín đồ Thanh giáo coi giáo dục là nhiệm vụ hàng đầu trong cuộc sống mưu sinh còn ngổn ngang của những người mới đến sinh cơ lập nghiệp. Từ đó các lớp học đầu tiên, các trường học đầu tiên đã ra đời, do tín đồ Thanh giáo lập nên và sự nghiệp giáo dục bắt đầu từ đó. Hơn nữa trong số tín đồ tôn giáo di cư sang Mỹ thì tín đồ Thanh giáo có đông trí thức nhất. Năm 1630, đã có khoảng 70 người tốt nghiệp đại học Cambridge, 30 người tốt nghiệp đại học Oxford (Anh) vì vậy mở trường, lớp cho con em giáo dân Thanh giáo có điều kiện hơn cả.
Lúc sơ khai của các trường Thanh giáo xây dựng là tự phát, mỗi một cụm dân cư có một mục sư phụ trách hoặc vài gia đình sống gần nhau, người ta tổ chức một lớp học, có người hiểu biết nhất, thường là những tín đồ đã có tuổi hoặc những người đã từng là chức sắc tôn giáo trong các giáo xứ ở nước Anh trước đây nay tham gia dạy chữ và dạy Kinh thánh cho những người mới đến, nhất là dạy cho các cháu nhỏ con em của giáo dân. Năm 1647, Hội nghị bang Massachusetts đã ban hành quy định các thị trấn có từ 50 gia đình trở lên sinh sống phải tổ chức lớp học, hoặc tại gia hoặc ở nhà thờ và phải có một người là thầy giáo chuyên trách dạy chữ viết, dạy đọc sách cho giáo dân. Mỗi địa phương có từ 100 gia đình tín đồ trở lên phải có một trường học, trong đó phải có lớp tiểu học và trung học và nhiệm vụ của trường là dạy học sinh đọc, viết và tuyên truyền tôn giáo.
Cách mạng tôn giáo, xây dựng một tôn giáo cởi mở ở vùng đất mới đã cho phép Thanh giáo thực hiện cải cách tôn giáo. Thanh giáo có công đầu trong việc đặt nền móng cho giáo dục Mỹ, là con chiên ngoan đạo và cũng là những công dân được trang bị tri thức cho cuộc sống. Chính vì vậy là lần đầu tiên trong lịch sử giáo dục, người phục nữ được đến trường học bình đẳng như nam giới. Phụ nữ dù là tín đồ cũng phải được học hành, phải biết đọc và hiểu biết Kinh thánh vì họ cũng là tín đồ cho nên họ cũng phải được học. Tuy vậy nhưng ở thế kỷ XVII và thế kỷ XVIII họ cũng mới chỉ được học ở bậc tiểu học.
Tiếp sau đó, khi Giáo phái Luther và Giáo phái Tín hữu Cơ đốc là những giáo phái mạnh và lớn nhất trong các giáo phái bản địa - được ra đời ở ngay nước Mỹ, tách ra từ Kito giáo - đã xây dựng rất nhiều trường tiểu học và trung học, và rất nhiều trường này là các cơ sở của các trường đại học danh tiếng sau này. Năm 1650, các bang Conneticut, New Hampshire và khu vực Playmouth cũng lần lượt ban hành các quy định giáo dục bắt buộc cho các gia đình tín đồ. Con em đến tuổi phải được đi học.
Bên cạnh việc giảng dạy tôn giáo, các giáo sỹ vốn là tinh hoa tri thức được đào tạo bài bản ở các trường châu Âu còn có nhiệm vụ mở mang kiến thức cho giáo dân nên ở các trường do tôn giáo lập nên còn dạy kiến thức khoa học tự nhiên, khoa học nhân văn và bắt đầu có cả khoa học kỹ thuật và công nghệ là sản phẩm thời đại của giai cấp tư sản đang trên đà lớn mạnh, là lực lượng sẽ xóa bỏ giai cấp phong kiến và thời đại trung cổ của tôn giáo. Các môn học mới như toán học, pháp luật, ngôn ngữ đã được các mục sư quan tâm giảng dạy. Chính nhờ vậy mà về sau giáo dục Mỹ có cơ sở để phát triển nhanh chóng và chiếm vị trí hàng đầu trong các nền giáo dục thế giới.
Cũng xuất phát từ mục đích ban đầu là phục vụ tôn giáo nên những cuốn sách giáo khoa đầu tiên được biên soạn mang đậm dấu ấn tôn giáo, là nhằm giải thích, giảng dạy Kinh thánh. Từ “Thánh ca” đến “Sách dạy chữ New England” đến giáo lý “Vấn đáp dành cho trẻ em”. “Sổ tay giáo lý vấn đáp” đến “Sữa tinh thần của trẻ em châu Mỹ” đều là giải thích, minh họa Kinh thánh.
Những bài kinh cầu nguyện, xưng tội, ca ngợi đức Chúa đã được các mục sư giảng dạy chu đáo cho các thế hệ tín đồ.
Đến nay, hệ thống các trường tư, các trường do cá nhân hoặc tập thể một nhóm tôn giáo quản lý, hoặc do một giáo đoàn, giáo xứ quản lý chiếm đến 85% các trường tiểu học ở Mỹ. Với 5 triệu học sinh tiểu học của nước Mỹ, trong đó hơn 4 triệu em học ở các trường do tôn giáo lập và quản lý ở 2.000 ngôi trường.
Ở bậc giáo dục Đại học, nước Mỹ có 1.500 trường đại học tư thục - không do Nhà nước lập nên thì có đến hơn 50% (trường đại học tư) là thuộc về giáo hội (hoặc giáo hội thành lập, sở hữu hoặc do giáo hội cùng xây dựng và có ảnh hưởng quyết định đối với nhà trường).
* * *
Tuy có nhiều thành tựu trong giáo dục đối với giáo dân da đen nhưng với một đất nước vốn có tư tưởng kỳ thị chủng tộc ở trong một số người da trắng đã hằn sâu cho nên có rất nhiều người chống đối lại hệ thống trường học cho người da đen. Ví dụ, năm 1740, ở bang South Carolina đã có Pháp lệnh cấm người da trắng dạy người da đen ở bất cứ nơi đâu, dù là ở trường hay ở gia đình. Việc xây dựng trường lớp ở đây cũng bị cấm. Thậm chí việc thuê địa điểm, nhà của người da trắng để dạy học cũng bị cấm. Nhiều người da trắng còn quấy phá các lớp học, dọa dẫm, gây áp lực đối với các giáo viên da trắng tham gia dạy người da đen, trục xuất họ ra khỏi địa phương.
Cuộc đấu tranh giành tự do và bình đẳng của người da đen vẫn tiếp tục được giáo hội ủng hộ. Mãi cuối thế kỷ XVIII, ở các bang New York, Pennsylvania, New Jersey và Delaware, các giáo hội mới có điều kiện xây dựng được các trường trung học. Năm 1683, giáo hội Tín hữu Cơ đốc xây trường tiểu học đầu tiên, đến cuối thế kỷ XVIII đã có hàng trăm trường tiểu học và trung học. Bên cạnh là các trường tự nguyện như Trường Chủ nhật, lớp học trong các kỳ nghỉ hè, trại hè… Chính vì vậy mà thế kỷ XVIII, giáo hội đã mở trường học cho người da đen. Năm 1704, ngôi trường đầu tiên dành cho tín đồ da đen được xây dựng. Ở đây những người nô lệ da đen được đến học kiến thức tôn giáo, học viết, học đọc và cả học toán sơ cấp. Giáo hội Maravian và Giáo hữu Tín hữu Cơ đốc đã quan tâm và đầu tư nhiều cho trường này, bởi họ xác định có trường học mới có thể tiến tới giải phóng nô lệ da đen, phần đông là tín đồ tôn giáo. Người da đen được tự do nhưng hàng thế kỷ, ngay từ khi ở châu Phi họ đã bị bóc lột, bị chà đạp và nô lệ, bây giờ được tự do nhưng mù chữ, lạc hậu, hoang dã vẫn ăn sâu trong người da đen. Vấn đề đưa họ ra ánh sáng, hòa đồng với thế giới văn minh là nhiệm vụ hàng đầu của tôn giáo. Ngay sau khi nội chiến chấm dứt đã có 79 tổ chức tôn giáo đứng ra mở trường học cho giáo dân da đen. Với 3,5 triệu người da đen được giải phóng từ nô lệ thành người tự do, phần lớn họ là tín đồ tôn giáo thuộc nhiều giáo hội khác nhau. Hầu như tất cả các giáo hội ở Mỹ đều mở trường cho người da đen và cả người không tôn giáo, cả giáo dân ở khắp nước Mỹ. Hiệp hội Truyền giáo Mỹ là trung tâm tổ chức và hợp tác của tôn giáo Mỹ trong việc xây dựng hệ thống trường học cho người da đen. Cuối thế kỷ XVIII đã đào tạo được hơn 500 thầy giáo, linh mục và chấp sự tôn giáo là người da đen.
Các Giáo phái Methodite, Baptit và các Giáo hội khác đều chú ý đến việc lập các trường học cho tín đồ da đen. Thế kỷ XVIII - XIX, các trường này ngoài việc dạy các vấn đề về tôn giáo, nhất là Kinh thánh còn dạy và bồi dưỡng nghề nghiệp, nội dung giảng dạy có kiến thức rộng về kỹ thuật công nghiệp, nông nghiệp, chăn nuôi và trồng trọt. Tuy vậy chưa có trường nào đạt tới mức đại học.
Công giáo (Kito) là một giáo hội góp phần to lớn và quan trọng nhất cho sự nghiệp giáo dục ở Mỹ. Là giáo hội có tiềm lực kinh tế to lớn, có quan niệm cởi mở và thế tục. Từ các thế kỷ XVII - XVIII, Công giáo đã coi giáo dục là một sự nghiệp phục vụ xã hội nên họ sớm có quy hoạch lâu dài và tổng thể về một nền giáo dục với mục đích trang bị cho giáo dân và xã hội những kiến thức cần thiết trước hết là phục vụ tôn giáo, sau đó là phục vụ xã hội.
Đến nay, trong số hàng nghìn trường tiểu học ở Mỹ thì có đến 54% là do Giáo hội Công giáo lập nên. Với con số 7.151 trường tiểu học và 2.000.000 học sinh, các trường tiểu học do Công giáo lập nên đang đào tạo đội ngũ công dân tương lai của nước Mỹ với chất lượng cao. Công giáo cũng đã lập nên 1.300 trường trung học với 660.000 học sinh, là đội ngũ dự bị cho các trường và viện Đại học Mỹ, đào tạo nên đội ngũ trí thức, những kỹ sư, nhà kỹ thuật cho nước Mỹ. Những nghệ sỹ, nhà văn, nhà giáo không chỉ cho nước Mỹ mà còn là cho cả thế giới. Các trường và viện Đại học danh tiếng do Công giáo lập nên như Đại học Georgia, Đại học Notre Dame, Đại học Công giáo Mỹ… là những cơ sở danh tiếng. Công giáo có tới 240 trường và viện Đại học. Chỉ tính riêng năm 1968, số sinh viên theo học là 70 vạn người. Trong số đó có hàng nghìn tiến sỹ, giáo sư.

Thư viện Widener của ĐH Harvard là một kho tàng tri thức với hơn 3,5 triệu cuốn sách
Giáo hội Công giáo đã lập nên hệ thống giáo dục từ tiểu học đến đại học nhưng tập trung ở hệ thống giáo dục bậc thấp là tiểu học và trung học. Ngôi trường đầu tiên là do mục sư Harvard xây dựng, học sinh tốt nghiệp ra trường là mục sư. Ngôi trường lúc đầu là School, sau này là Đại học Harvard nổi tiếng thế giới. Các hệ thống trường dòng, trường nữ sinh, trường dạy nghề… và hàng loạt các loại trường khác cũng do giáo hội lập nên. Thế kỷ XVII - XVIII, dưới thời kỳ còn nằm trong hệ thống thuộc địa của Anh, Tây Ban Nha, Pháp, Hà Lan… nước Mỹ thuộc địa đã có 9 trường đại học, tất cả đều do Giáo hội lập. Đến thời kỳ nội chiến, nước Mỹ có 180 trường đại học, trong đó 150 trường do Tôn giáo lập nên, chủ yếu là của giáo hội Kito.
* * *
Sau khi nước Mỹ tuyên bố độc lập, Hiến pháp quy định nhà nước độc lập với tôn giáo. Sự khống chế của tôn giáo trong giáo dục đã giảm nhưng nó vẫn có ảnh hưởng rất lớn đến giáo dục hiện nay của Mỹ. Riêng của tôn giáo có hệ thống giáo dục của mình là các trường Dòng, là các học viện Thần học, các Đại học tôn giáo đủ mọi loại hình do tôn giáo trực tiếp quản lý. Ảnh hưởng của tôn giáo vẫn được thể hiện đậm nét trong hệ thống các loại trường học từ cơ sở mẫu giáo đến đại học, ở hệ thống trường tư thực và cả hệ thống do Nhà nước quản lý.
Các Giáo hội tôn giáo ngày càng nhận thức được vai trò và vị trí quan trọng của giáo dục trong đời sống. Không chỉ đối với tôn giáo mà cả đối với đời sống xã hội. Đặc biệt là khi nước Mỹ tiếp nhận được thành quả vĩ đại của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật. Khoa học kỹ thuật tác động mạnh mẽ lên xã hội, lên mọi cộng đồng tôn giáo, lên mọi gia đình và từng cá nhân cụ thể. Nhu cầu tồn tại và phát triển của tôn giáo hòa đồng với nhu cầu phát triển của xã hội do đó các trường do tôn giáo lập nên cũng có nhu cầu to lớn là tiếp nhận, đào tạo kiến thức khoa học cho mọi tín đồ, mọi giáo dân và công dân. Đặc biệt từ khi có Đạo luật Morrill land - Grant Acts (Luật hiến tặng đất cho giáo dục) được Quốc hội Mỹ thông qua năm 1862. Luật này do Justin Smith Morrill đưa ra ngày 2/7/1862 đã được Tổng thống Abrham Linconln ký và ban hành đã là động lực thúc đẩy nền giáo dục Mỹ./.
(Bài đã đăng VHTT Nghệ An số 19 - Tháng 11/2025)
tin tức liên quan
Videos
Hiệu quả từ một mô hình “Phòng chống BLGĐ gắn với tuyên truyền, giáo dục đạo đức lối sống trong gia đình”
Những khúc tưởng niệm - Văn hóa tri ân các anh hùng liệt sỹ
Giấc mộng Trung Hoa: Tư duy nước lớn và vị thế chiến lược của Trung Quốc trong kỷ nguyên hậu Hoa Kỳ (kỳ 8)
Về hình thức mai táng của cư dân thời tiền - sơ sử trên đất Nghệ An
Di sản không bị mất giá của Hồ Xuân Hương
Thống kê truy cập
114650792
2665
2375
22915
227578
134162
114650792