IV.Sự đồng nhất của quyền lực tôn giáo và quyền lực thế tục ở Trung Quốc - Chế độ thần quyền bất phân nguyên thủy - Quan lại như là những tư tế, những người cai trị và thầy của dân
IV.Sự đồng nhất của quyền lực tôn giáo và quyền lực thế tục ở Trung Quốc - Chế độ thần quyền bất phân nguyên thủy - Quan lại như là những tư tế, những người cai trị và thầy của dân
Vốn chỉ là sự quảng hoá và khái quát quyền của người cha trong gia đình, quyền lực nhà nước tối cao ở Trung Quốc về thực chất mang tính chủ tế, hay là giáo chủ. Giống như người cha cá thể của gia đình trước hết là người chủ quản công việc thờ cúng tổ tiên, cũng đúng như thế, vị chúa tể của gia đình toàn Trung Hoa trước hết là một chủ tế tối cao và một giáo chủ trong công việc thờ cúng trời, hay là “bách thần”. Hệt như quyền lực của người cha trong tín ngưỡng dân gian được xem như là quyền lực của chính tổ tiên, mà sự giao tiếp với họ được duy trì bằng tế lễ và bói toán, cũng đúng như thế quyền lực nhà nước tối cao chỉ là hệ quả và thuộc tính của chức năng giáo chủ của ông vua hoạt động cũng bằng những phương cách ấy - bằng tế lễ và bói toán, với tư cách một công cụ của trời và trực tiếp hơn của những tổ tiên đã được thần thánh hoá, tức là những bậc vương giả trứ danh thời cổ cũnh như thời mới đã được kết nạp vào hàng ngũ “bách thần” - những đại diện của quá khứ toàn quốc gia Trung Hoa. “Nước Trung Hoa luôn luôn được cai quản và bây giờ vẫn được cai quản bởi ý chí tưởng tượng của các đế vương đã qua đời - điều này tuyệt đối không thể hồ nghi.”* Dễ hiểu là các đế vương quá cố có được ý nghĩa như thế không phải với tư cách những cá nhân riêng lẻ, mà với tư cách những thành viên trong thành phần của “trời”, những đại diện chủ yếu của hợp quần “bách thần”.
Nếu chế độ chính trị-xã hội của người Trung Hoa, được quy định toàn bộ bởi yếu tố tôn giáo, rõ ràng là một chế độ thần quyền, thì tuy vậy sẽ là không chính xác gọi nó - như Réville đã làm - là chế độ thần quyền thế tục, hay là chế độ thế tục mang màu sắc thần quyền.**Sẽ là bất công trách cứ nền quân chủ Trung Hoa mắc cái mà người ta gọi là chủ nghĩa hoàng đế-giáo hoàng (césaropapisme). Những thuật ngữ như chủ nghĩa thần quyền thế tục hay chủ nghĩa hoàng đế-giáo hoàng thể hiện sự kết hợp lệch chuẩn hai quyền lực khác nhau, với sự phục tùng hay là hút thu ít nhiều triệt để một quyền lực bởi quyền lực khác. Nhưng ngay khái niệm về hai lĩnh vực quyền lực khác nhau: tôn giáo và thế tục luôn luôn xa lạ và bây giờ vẫn xa lạ với Trung Quốc. ở đây, giữa hai quyền lực ấy không thể có quan hệ hợp chuẩn hay lệch chuẩn, bởi vì chúng không tồn tại như là những quyền lực riêng biệt, theo bất kỳ một nghĩa nào và ở bất kỳ mức độ nào. Theo quan niệm Trung Hoa, quyền lực của giáo chủ là cơ sở đích thực và duy nhất của quyền lực nhà nước. Khổng Tử, mô tả hai minh quân đời xưa là Võ Vương và Châu Công có nết cao hiếu rộng, hết lòng chăm lo thờ cúng trời và tổ tiên, kết thúc câu chuyện của mình bằng ý khái quát sau đây: “Nếu ai biết rõ lễ Giao (Trời) và lễ Xã (Đất), cũng hiểu nghĩa lễ Đế (năm năm một lần) và lễ Thường (vào mỗi mùa thu) thì trị nước dễ như xem trong bàn tay.”*
Ông vua là rex (chúa tể), chỉ vì ông ta là rex sacrorum (chúa tể của các tế lễ). ở đây, chúng ta bắt gặp một chế độ nhất nguyên nguyên sơ - nền thần quyền bất phân nguyên thủy. Vua là người trung gian duy nhất giữa trời và nhân quần, là người cai quản duy nhất và đại diện toàn quyền của trời trên mặt đất.** “Bậc đế vương - sách thánh Kinh Thư nói - thay thế trời để cai trị muôn dân, dạy bảo họ và làm gương cho họ.”
Nếu giáo chủ và đế vương đồng nhất tuyệt đối trong thân nhân thiên tử, thì ở tất cả các cơ quan quyền lực cấp dưới những chức năng cai trị tôn giáo và thế tục cũng trùng khít không có một sự phân chia nào. Nước Trung Hoa chính thống không bao giờ biết và bây giờ vẫn không biết một giới tăng lữ nào khác, ngoài giới quan lại. Bất kỳ một ông quan nào, cao nhất cũng như thấp nhất, đều đồng thời là thủ lĩnh tôn giáo của dân trong khuôn khổ quyền hành của mình. Và nếu thiên tử, thâu tóm vào trong tay mình toàn bộ quyền lực, không chỉ là chủ tế và người cai trị tối cao, nhưng đồng thời cũng là người thầy của toàn dân, thì cũng đúng như thế tất cả các quan lại, ngoài những bổn phận tư tế và hành chính-tư pháp của mình, còn là những sư phụ và những nhà truyền giáo cho nhân dân. Ngay từ thời thượng cổ những người đứng đầu các xã (mỗi xã gồm 100 hộ), các tổng (mỗi tổng gồm 500 hộ) và châu (mỗi châu gồm 2500 hộ) đã phải vào những ngày xác định tập hợp dân chúng dưới quyền của mình để, sau những tế lễ theo đúng lề luật, thuyết giảng đạo đức cho dân và hỏi han họ về những nhu cầu bức thiết của họ, bằng mọi cách thể hiện sự quan tâm chăm sóc của người cha đối với dân. Cũng như thế, những quan lại cấp cao hơn giáo huấn quan chức cấp thấp hơn và truyền đạt cho họ những chỉ huấn của chính quyền tối cao.
Nhờ nguyên tắc phụ quyền tuyệt đối của chính thể Trung Hoa, mỗi một thủ lĩnh từ thiên tử cho đến anh lý trưởng quèn đều có, trong những ranh giới xác định, toàn bộ quyền lực không chia sẻ của người cha; là cha theo đầy đủ nghĩa của tất cả các thuộc hạ của mình, họ phải vừa là người chủ tế, vừa là người cai trị, vừa là người thầy.
V. Mấy nhận xét bổ sung về sự sùng bái quá khứ như là một nguyên tắc chung của đời sống Trung Hoa - Nguyên tắc ấy bị đẩy đến cái phi lý trong học thuyết siêu hình của Lão Tử - Những luận điểm chính của Đạo đức kinh và những mâu thuẫn của chúng
Chúng ta đã thấy rằng cả đời sống gia đình lẫn chính thể nhà nước ở Trung Quốc chỉ tuân theo một nguyên tắc tôn giáo - đó là sự sùng bái quá khứ, sự thần thánh hoá những người đã chết. Nếu gia đình cá thể tôn thờ quá khứ của mình thông qua tổ tiên gia tộc, thì cũng hệt như thế, đại gia đình toàn Trung Hoa tôn thờ quá khứ quốc gia- dân tộc của mình thông qua việc thờ trời hay “bách thần”. Trung gian liên kết tự nhiên giữa quá khứ được thần thánh hoá và cuộc sống hiện tại của gia đình là người cha - con người gần gũi nhất với những người đã chết trong số những người đương sống, ứng viên số một bổ sung cho hàng ngũ “tổ tiên”; cũng tương tự như thế, trung gian liên kết giữa quá khứ và hiện tại quốc gia-dân tộc đương nhiên là hoàng thượng - người cha chung của đại gia đình toàn Trung Hoa, con người duy nhất có quan hệ thẳng và trực tiếp với trời - con của trời về thực thể.
Tựa như gia chủ báo cáo với tổ tiên về những công việc trong gia đình mình, các bậc đế vương báo cáo với tổ tiên của họ * không chỉ những việc xảy ra trong hoàng gia, mà còn về tình hình cai trị đất nước. Thời xưa các quân vương không làm một việc gì quan trọng mà không bẩm báo trước tổ tiên: dù họ đi thị sát các miền, hay triệu tập các chư hầu về triều kiến, hay chỉ đi săn, v.v... - bao giờ họ cũng cho tổ tiên quá cố được tỏ tường trước.”
“Nếu bậc đế vương -Wu-tsy nói - cần phải làm một việc gì đó quan trọng, thì trước đấy người đến tông miếu, báo cáo với tổ tiên việc mình định làm, rồi xem xét các thiên triệu có thuận lợi hay không; nếu tất cả đều tiên báo kết quả tốt lành, thì bậc vương giả mới mạnh dạn bắt tay vào việc.”*
“Việc báo cáo tổ tiên không phải là một thủ tục hình thức trống rỗng và cũng tuyệt không mang tính phúng dụ: những con người sống, tường trình với những người đã quá cố về việc này việc kia, muốn được biết chí nguyện của họ, muốn nhận được từ họ một lời khuyến dụ, một chỉ huấn hướng đạo.”** Và người ta đạt được điều đó bằng bói toán và bằng nhiều phương thuật khác nhau. Như vậy, được cho biết kịp thời về hết thảy những gì xảy ra trong gia tộc và biểu lộ chí nguyện có tính bắt buộc của mình, tổ tiên quá cố thật sự cai quản con cháu đương sống với toàn bộ dân chúng trên mặt đất.
Nhưng nếu quá khứ thông qua tổ tiên đã qua đời và những đại diện của họ trong hiện tại - những người cha của các gia đình và cha của quốc gia - thật sự cai quản đời sống của muôn người; nếu tổ tiên bằng những hành vi cá biệt của chí nguyện của mình giải quyết từng vấn đề cá biệt của đời sống gia tộc và quốc gia, thì thể chế và phương hướng chung của đời sống ấy nhận được những chuẩn mực và lý tưởng cho mình cũng từ quá khứ ấy, từ các vị tổ tiên ấy với tư cách những hiện thân của minh triết cổ xưa, những người đặt nền móng cho truyền thống. Người cha của quốc gia với những quan lại có học vấn của mình và những người cha của các gia tộc không chỉ là những tư tế và những người cai trị, mà còn là những người thầy truyền bá học thuyết; học thuyết của họ không phải là hư cấu của cá nhân họ, mà là minh triết cổ truyền, phát xuất từ tổ tiên, từ những nhà hiền triết đời xưa. Lý tưởng của người Hoa chính cống hoàn toàn nằm trong quá khứ, anh ta nhìn về phía sau chứ không phải phía trước và nếu, giống như Khổng Tử, anh ta lo toan thực hiện cải cách này cải cách kia, thì những cải cách ấy trong con mắt của anh ta chỉ là sự xoá bỏ những cái mới nguy hại, là sự triệt để trở về với cái cổ xưa.
Nhưng chính chủ nghĩa bảo thủ ấy, chính sự quyến luyến chỉ với những cơ sở truyền thống của sự sống ấy ở Trung Quốc đã làm điểm phát xuất cho một tư tưởng tư biện có bản chất thuần tuý trung Hoa, nhưng sự phát triển của nó lại khoét sâu tinh thần dân tộc đến mức mà mọi động cơ của đời sống thực tiễn đều tiêu biến, và tất cả các quan hệ con người đều bị hoà tan trong cái bất phân nguyên thủy. Đạo Trung Hoa, cũng như mọi nguyên lý hữu hạn, nếu dành cho nó một ý nghĩa tuyệt đối, thì sẽ đi đến cái phi lý và sẽ tự hủy hoại. Sự đưa đến cái phi lý ấy đối với nguyên lý Trung hoa đã diễn ra trong học thuyết của nhà triết học vĩ đại nhất và có lẽ là triết gia tư biện duy nhất của chủng tộc da vàng - Lão Tử.
Với tư cách một triết gia tư biện, Lão Tử tìm kiếm một khởi nguyên tuyệt đối; với tư cách một người Trung Quốc chính thực ông tìm nó chỉ trong quá khứ - có nghĩa là ông tìm một quá khứ tuyệt đối, cái quá khứ có trước mọi thứ trên đời. Cả đối tượng của sự sùng bái cá thể - tổ tiên đã quá cố của gia đình, cả đối tượng của sự sùng bái của nhà nước - trời hay là bách thần, đều không thể đáp ứng yêu cầu tuyệt đối: cả tổ tiên lẫn trời chỉ đại diện cho quá khứ tương đối, bản thân họ đã xuất thân từ một cái gì đó, có ở đằng sau mình một cái gì đó tồn tại trước họ. Mà cái đòi hỏi phải là cái tồn tại trước tất cả mọi thứ và không có gì tồn tại trước mình. Một sự giả định tuyệt đối như thế về tất cả những gì hữu thực và xác định là sự tìm về cái khả năng thuần tuý, hay là tiềm năng vô định của sinh tồn, cái tiềm năng vô định ấy tự nó ngang bằng với hư vô. “Vạn vật dưới trời - Lão Tử nói- sinh nơi “có” (hữu), nhưng cái “có” thì sinh nơi “không” (vô)” *(8) .
Cái sức mạnh phủ định mọi thứ tồn tại ấy Lão Tử gọi là đạo, có nghĩa gần nhất là con đường. Vì tất cả đều sinh ra từ hư vô và trở về hư vô, cho nên nó là con đường chung cho tất cả những gì tồn hữu. “Trở lại là cái động của Đạo; yếu mềm là cái dụng của Đạo”** Đạo là cái trống không.*** Nhìn nó mà không trông thấy, nên người ta gọi nó là “Di” (vô sắc), lắng nghe nó mà không nghe thấy, nên người ta gọi nó là “Hi” (vô âm), bắt nó mà không nắm được, nên người ta gọi nó là “Vi” (vô hình).**** Khởi nguyên đầu tiên, tuyệt đối của mọi thứ tồn tại tự nó không có một định tính thực chứng hay là tính danh nào, nó là cái không thể nói ra hay không thể diễn đạt. Với tư cách tiềm năng thuần tuý của sinh tồn, hay là con đường mà tất cả phải đi theo, đạo là mẹ của mọi vật và mọi sinh linh, là “huyền tẫn” (mà Stanislas Julien dịch là “la femelle mystesrieuse”(9) )*****
Khởi nguyên tuyệt đối của tất cả là thế nào thì lý tưởng thực tiễn của con người cũng phải là như thế. Hiểu đạo như là sự không có một cái gì tồn tại hữu thực, Lão Tử nhất quán khẳng định rằng cả đối với chúng ta, hư vô rõ ràng đáng lựa chọn hơn sinh tồn. “Kẻ nào không làm gì cả để sống - ông nói - khôn ngoan hơn kẻ cố làm để sống”.* Nếu đạo là trống không và vô vi, nếu nó, theo cách nói của Lão Tử, “thường vô vi”, thì lý tưởng của nhà hiền triết cũng là ở đấy. “Cái duy nhất đáng sợ- Lão tử nói, - là hiếu vi”.** “Người biết đạo thì không nói, người nói là người không biết đạo. Người biết đạo thường ngậm miệng, bịt mắt tai, nhụt bén nhọn, bỏ phân chia, hoà ánh sáng, đồng bụi bậm, ấy gọi là huyền đồng. Người đạt Đạo không thể lấy sự “thân”, sự “lợi”, sự “quý” mà dỗ, cũng không thể lấy sự “sợ”, sự “hại”, sự “tiện” mà dọn. Vì vậy, trong thiên hạ không có gì quý hơn con người ấy”*** “Kẻ giữ đạo không muốn đầy, chỉ vì không muốn đầy, nên mới che lấp được”.**** Vì đạo là vô vi, cho nên “thánh nhân dùng vô vi mà xử sự”, dùng bất ngôn mà dạy dỗ”*****. “ít nói, để cho tự nhiên”******. Mà sự vô vi tự nhiên là mục đích chân chính của hiền nhân hiểu biết rằng “không ham muốn thì lòng điềm tịnh”*******, còn mọi ham muốn và mọi hành động đều đem lại khổ đau và thiệt hại********.
“Đạo sinh ra Vật, thấp thoáng mập mờ”*********,vì thế cho nên cả hiền nhân đắc đạo cũng không thể có những chủ kiến cố định và bất biến - anh ta “lấy cái lòng của trăm họ làm lòng mình”**********. Anh ta không bước vào cuộc đấu tranh nào hết*. Mà việc gì anh ta phải đấu tranh chống lại ai đó hay cái gì đó, nếu mà anh ta không được có bất cứ một ý kiến hoặc thậm chí một tình cảm xác định nào. “Trời đất không có nhân, coi vạn vật như loài chó rơm"**. Thánh nhân cũng như thế, coi trăm họ như loài chó rơm”.
Nhưng nếu, theo Lão Tử, đối với nhà hiền triết thực thụ cuộc sống của trái tim cũng bị cấm chỉ như hoạt động thực tiễn, và ở anh ta không thể có động cơ nội tại nào cho những công việc ấy, thì cũng đúng như thế ở anh ta bị tước đi cả lĩnh vực lý thuyết - hoạt động trí não. Nhà triết học Trung Hoa hoàn toàn nhất quán về mặt này. Nếu khởi nguyên chân chính của hết thảy là cái bất phân tuyệt đối, thì để tái hợp hoặc ứng hợp với khởi nguyên ấy con đường của tư duy và nhận thức là ít hữu dụng nhất, bởi vì những hoạt động ấy chính là sự thoát ra khỏi trạng thái bất phân nguyên thủy, sự khẳng định những định tính và khác biệt nhất định. Trí tuệ tư duy và nhận thức là cực đối lập trực diện với trạng thái đắc đạo. “Tri giả bất bác, bác giả bất tri”- Lão Tử nói. Nếu con người để cho lòng không lo nghĩ gì cả, thì sinh lực của nó sẽ không hao mòn. “Tuyệt học vô ưu” (hãy bỏ việc học, thì sẽ thoát khỏi mọi buồn phiền).
Thái độ thù địch đối với trí tuệ và khoa học là thuộc tính của nhiều nhà tư tưởng thần bí. Nhưng ở Lão Tử, một người Trung Quốc thực thụ, cái chủ nghĩa ngu dân có nguyên tắc này mang tính đặc thù và có một ý nghĩa riêng biệt. Mặc dù say mê với những suy luận trừu tượng nhất, ông tuy vậy vẫn luôn luôn cảm thấy mình là con của “trăm họ” và không ngớt suy ngẫm về lợi ích của dân tộc mình. Phủ định trí tuệ và khoa học, ông không chỉ theo đuổi mục tiêu hoà tan tinh thần cá thể vào cái bất phân tuyệt đối của đạo, - không, ông còn khuyến nghị cho toàn thể dân tộc mình một sự dốt nát đơn thuần như là một lý tưởng xã hội chân chính. Ông khẳng định một cách hết sức cương quyết rằng học thức chỉ làm hại loài người, và sự cai trị đất nước phải dựa trên sự vô học tuyệt đối của dân*. “Cái trị của thánh nhân là làm cho dân hư lòng, no dạ, yếu chí, mạnh xương. Thường khiến cho dân không biết, không ham, khiến cho kẻ tri không dám dùng đến cái khôn của mình. Nếu làm theo vô vi, thì không có gì là không trị được”**.
“Nếu các vị - Lão Tử nói với các chính khách - dứt Thánh bỏ Trí thì dân lợi trăm phần, dứt Nhân bỏ Nghĩa thì dân lại thảo lành, dứt xảo bỏ lợi, thì trộm cắp sẽ không còn nữa”***. “Nếu tôi cai trị dân thì tuy có giáp binh tôi cũng không cho dùng đến, bắt dân dùng lại cách gút dây****. Nước gần trông thấy nhau được, nghe thấy được tiếng gà chó của nhau, mà dân đến già chết vẫn không qua lại nhau”*****. ý chí hướng về sự đơn sơ nguyên thủy ấy quan hệ khăng khít với óc sùng bái quá khứ của người Trung Hoa nói chung, và sự sùng bái ấy được Lão Tử xác định trên tư tưởng về cái bất phân nguyên thủy. “Giữ cái Đạo xưa để mà trị cái có của ngày nay. Biết được cái đầu mối của xưa, ấy gọi là nắm được giềng mối của Đạo”******.Mọi sự thoát khỏi trạng thái đơn sơ và hư không nguyên thủy, mọi sự phức tạp hoá các hình thức và xác định các quan hệ đều là sự rời xa Đạo và chỉ có thể dẫn đến cái tồi tệ hơn. Tư duy và nhận thức là cái ác, bởi vì chúng làm sinh sôi nảy nở những ham muốn và buồn phiền. Luật pháp cũng là cái ác bởi vì càng nhiều luật thì càng nhiều trộm cướp*. Cuối cùng ngay đạo đức cũng là cái ác, bởi vì nó chỉ là sự chuyển di từ trạng thái bất phân chân phúc sang sự cưỡng bức và hà hiếp nhau. “Mất Đạo rồi mới có Đức, mất Đức rồi mới có Nhân, mất Nhân rồi mới có Nghĩa, mất Nghĩa rồi mới có Lễ. Lễ chỉ là cái vỏ mỏng của lòng trung tín mà cũng là đầu mối của hỗn loạn”**.
Như vậy, bổ sung bằng lý luận cho tục sùng bái quá khứ của người Trung Hoa, bằng sức mạnh vĩ đại của trí tuệ cá nhân có thể nói đào đến nền móng sâu nhất của nhân sinh quan dân tộc và tảo thanh cái nền móng ấy khỏi những thớ lớp ngoại lai và ngẫu nhiên, Lão Tử bằng cách ấy đã bóc trần tính thiếu căn cứ cơ bản và hệ trọng của chủ nghĩa bảo thủ và chủ nghĩa duy truyền thống Trung Hoa. Hư vô hay là bất phân tuyệt đối với tư cách một nguyên tắc tư biện và phủ định sự sống, tri thức và tiến bộ với tư cách một kết luận thực tiễn tất yếu - đấy là bản chất của đạo Trung Hoa được nâng lên thành một hệ thống tuyệt đối và nhất quán. Trao tất cả quyền hành cho quá khứ, đạo ấy hàm chứa một sự phủ định có nguyên tắc hiện tại và tương lai của nhân loại.
Học thuyết của Lão Tử, nâng đạo trung Hoa lên cấp độ một nguyên tắc tuyệt đối, không đòi hỏi sự bác bỏ: nó tự hủy hoại mình một cách rõ ràng bằng sự bất khả thực hiện những yêu cầu của chính mình. Trước hết, chính Lão Tử đã không đáp ứng những yêu cầu ấy. Ông phủ định “ánh sáng của trí tuệ”, song chính ông lại là một nhà tư tưởng sâu sắc và tinh tế. Ông coi mọi sự học là cội rễ của cái ác, nhưng bản thân ông lại có nhiều môn sinh và ông đã sáng lập ra cả một trường phái triết học. Ông ước mơ trở về thời “gút dây”, nhưng tuy vậy đã chăm lo để lại cho đời sau những tư tưởng của mình bằng một quyển sách với hình thức văn tự đã được cải tiến rất cơ bản. Sự mâu thuẫn giữa lời nói và việc làm của vị sư phụ này dĩ nhiên còn chưa phải là lập luận có trọng lượng để phản bác học thuyết của ông. Nhưng những đòi hỏi của sách Đạo đức kinh, mà Lão Tử đã không thực hiện được, nói chung mang tính bất khả thi. Thứ nhất, nếu một dân tộc nào đó đã ra khỏi trạng thái thô sơ nguyên thủy thì cái đó đã xảy ra do những nguyên nhân tự nhiên nào đó, mà không thể hủy bỏ được chúng chỉ bằng sự truyền giảng chủ nghĩa ngu dân: đòi dân chúng chối bỏ văn minh và trở về với trạng thái man sơ chẳng khác nào đòi cây sồi trở lại thành quả sồi. Và thứ hai, ngoài tính bất khả thi trong thực tế, đòi hỏi ấy cũng không có căn cứ lôgic. Ta cứ cho rằng dân tộc nào đã đạt được trình độ văn minh nhất định - thì dân tộc ấy đã rời xa đạo (tức là rời xa trạng thái bất phân tuyệt đối) hơn một dân tộc còn man sơ; nhưng sự khác biệt ấy rõ ràng chỉ là tương đối. Không chỉ những người còn dùng gút dây, mà cả những người mọi một trăm phần trăm vẫn cứ ở trong trạng thái không tương ứng với đạo: họ cũng có tình cảm và ước vọng, họ cũng hành động và đấu tranh. Lý tưởng bất phân tuyệt đối nhất quán đòi hỏi phủ định không chỉ cuộc sống văn minh, mà còn mọi cuộc sống nói chung. Một dân tộc khôn ngoan như người Trung Quốc không thể dừng lại ở một yêu cầu phi lý và hoang tưởng đến thế. Sự thực hiện thẳng băng và nhất quán tuyệt đối một nguyên tắc nào đó, dù là nguyên tắc của chính mình, tuyệt không thích hợp với tâm tính người Hoa*. Nhưng cũng không thích hợp với tâm tính của họ chối từ cái nguyên tắc cơ bản của mình - sùng bái quá khứ - vì tính phi chân lý nội tại của nó. Khi triết học Lão Tử đã làm lộ cái mặt cực đoan nguy hại của đạo Trung Hoa, thì thiên tài của dân tộc ấy đòi hỏi tìm kiếm một sự thoả hiệp giữa nguyên tắc của chính mình với những điều kiện đời sống thực tiễn. Sự thoả hiệp ấy đã xuất hiện trong học thuyết của Khổng Tử - người đại diện thực thụ của minh triết và lý tưởng Trung Hoa.
Phạm Vĩnh Cư dịch
Kỳ sau: Khổng giáo như là một thoả hiệp giữa nguyên tắc tối cao của đạo Trung Hoa và những đòi hỏi thực tiễn của đời sống - Những đối thủ của Khổng giáo - Những cơ sở của luân lý Khổng Tử - Câu chuyện giữa cha và con
2225
2317
22173
221684
130677
114574627