Nhìn ra thế giới

Trung Quốc và châu Âu (kỳ 6)

VI. Khổng giáo như là một thoả hiệp giữa nguyên tắc tối cao của đạo Trung Hoa và những đòi hỏi thực tiễn của đời sống - Những đối thủ của Khổng giáo - Những cơ sở của luân lý Khổng Tử - Câu chuyện giữa cha và con

Kết hợp trong mình mọi ưu điểm của những hiền giả và thánh nhân đi trước, Khổng Tử, theo lời Mạnh tử, hơn tất cả họ có khả năng thích nghi với mọi hoàn cảnh**. Chính một con người như thế đã gánh vác sứ mệnh thực hiện một cuộc thoả hiệp thiết yếu giữa nguyên tắc trừu tượng của đạo Trung Hoa và những nhu cầu thực tiễn của đời sống dân tộc. Nhiệm vụ của ông là khôi phục cái cổ xưa dân tộc dưới hình thức mới, quảng đại hơn, cân đối hơn và có văn hoá hơn. Tôn giáo cổ xưa và đời sống xã hội - nhà nước mới đã được ông đưa vào một hệ thống mang tính đạo đức-thực tiễn, cổ truyền và bảo thủ về bản chất, duy lý về hình thức. Ông đã truyền cho truyền thống sùng bái quá khứ của người Trung Quốc tính luân lý và tính hợp lý cao hơn, xác lập nó trên nguyên tắc chữ hiếu của người con và ông đã biến nguyên tắc ấy thành hòn đá nền của toàn bộ chế độ xã hội và chính trị của đế chế Trung Hoa.

Mặc dù Khổng Tử là một người Trung Quốc hết mực điển hình và ông hoạt động theo đúng tinh thần Trung Hoa, tuy vậy sự nghiệp của ông đã không thể không vấp phải sự chống cự. Sự chống cự ấy xuất phát từ ba phía. Thứ nhất, trong số những người chống lại sự thoả hiệp của Khổng Tử có những “tư tưởng gia” nghiêm ngặt của đạo Trung Hoa, và trước tiên là Lão Tử vĩ đại. Khổng Tử là người cùng thời ít tuổi hơn Lão Tử và có lần đã đến viếng thăm ông thầy già. Nhà hiền triết thần bí đã đối xử khá khinh bỉ với nhà triết học thực tiễn và gọi toàn bộ hoạt động của ông là vô bổ, còn Khổng Tử thì khiêm nhường thừa nhận rằng đối với ông nhà truyền giảng thuyết bất phân tuyệt đối tựa hồ một con rồng không thể theo gót được. Loại đối thủ khác mà Khổng Tử đã phải đương đầu là những thường dân, những người ủng hộ tuyệt đối cái status quo (hiện trạng), trung thành với mọi truyền thống, dù chúng có là ngẫu nhiên đến đâu đi nữa, và mọi mê tín dị đoan. Đối với họ Khổng Tử, với tất cả óc bảo thủ và sùng cổ của mình, vẫn là một nhà cải cách, một người cách tân, bởi vì xắp xếp lại những truyền thuyết cổ cho có trật tự, biến chúng thành một hệ thống hợp lý, ông bằng cách ấy đã biến thái chúng.* Cuối cùng, những đại diện của chủ nghĩa độc tài nhà nước cũng đứng dậy chống lại Khổng Tử, bởi vì họ không muốn sự chuyên quyền của mình phải bị chi phối bởi những yêu cầu mang tính luân lý. Sinh thời Khổng Tử đã phải lưu lạc từ triều đình nước chư hầu này sang triều đình nước kia mà không tìm được sự ủng hộ ở đâu cả, hơn thế nữa 250 năm sau khi ông đã mất hoàng đế Tần Thủy Hoàng đã ra lệnh đốt hết tất cả các kinh sách chính của đạo Khổng và xử tử gần 400 môn đệ của Khổng Tử. Sau thử thách ấy, với sự lên ngôi của triều đại mới, Khổng giáo đã trở thành tôn giáo và triết học nhà nước của Trung Hoa và vẫn giữ nguyên vị trí ấy cho đến ngày nay.

Là một người Trung Quốc điển hình, Khổng tử trước hết ái mộ cái cổ xưa. “Đức Khổng Tử nói rằng: ta đem kinh sách của thánh hiền mà truyền lại cho đời sau, chứ ta chẳng có làm ra. Ta tin tưởng và hâm mộ đạo lý người xưa”.* “Chẳng phải ta sinh ra tự nhiên hiểu biết đạo lý. Thật ta là người hâm mộ kinh thư của thánh hiền đời xưa, cho nên ta cố gắng mà tầm học đạo lý”** .“Đạo lý của ta - Khổng Tử nói ở chỗ khác- chính là đạo lý mà người đời xưa đã dạy bảo và để lại. Ta không thêm bớt một tí gì, mà truyền đạt nó trong dạng thuần khiết nguyên thủy. Đạo lý ấy bất di bất dịch vì nó là của trời”. Một lần Khổng Tử dạo chơi dọc bờ sông và chốc chốc dừng lại nhìn nước chảy. Khi người ta hỏi ông nhìn thấy gì kỳ thú ở dòng nước, Khổng Tử đáp: “Dòng nước chảy ở con sông thiên tạo hay nhân tạo là điều rất đơn giản ai ai cũng biết nguyên do, nhưng cái không ai biết ấy là sự giống nhau giữa dòng nước với đạo lý người đời xưa. Nước sông chảy không ngừng, chảy ngày đêm, cho đến khi đổ vào biển cả. Đạo lý thánh hiền của Nghiêu-Thuấn cũng chảy không ngừng cho đến chúng ta; ta hãy tiếp sức cho nó chảy tiếp đến con cháu chúng ta, rồi con cháu chúng ta lại tiếp sức cho nó chảy tiếp đến con cháu của chúng, và cứ thế không bao giờ ngừng”.

Trong đạo lý của người đời xưa Khổng Tử không tìm thấy tư tưởng về cái bất phân tuyệt đối, mà Lão Tử đã nghĩ đến và đã trầm tư mặc tưởng về nó. Xuất phát điểm của thế giới quan Khổng Tử là sự “phân đôi” của Đạo - cái thuyết nhị nguyên về hai sức mạnh chủ động và thụ động, Dương m, đã làm cơ sở cho cuốn sách bói linh thiêng của người Trung Hoa - Kinh Dịch. Hai sức mạnh ấy, trong sự phân đôi cụ thể của chúng hiện ra như trời và đất, liên kết lại cụ thể với nhau trong con người. Con người có thể được hưởng sự sóng và hạnh phúc chỉ với tư cách một sinh thể xã hội. Hình thức cơ bản của đời sống xã hội là gia đình, mà rường cột của gia đình là đức hiếu của con cái. Trung thành với di huấn của người đời xưa, Khổng Tử đòi hỏi đức hiếu ấy không được giới hạn bởi cha mẹ đương sống, mà phải bao hàm cả tổ tiên đã mất. Tuy nhiên, đối với ông, cái mặt này của vấn đề không giữ nguyên vẹn ý nghĩa xưa của nó. Niềm tin nguyên thủy vào tính hữu thực đầy đủ của thế giới bên kia, mặc dù không bị Khổng Tử trực tiếp phủ định, nhưng tự nó không có sức mạnh gì đối với trí tuệ của ông và ông chỉ quan tâm đến những hiệu quả đạo đức-thực tiễn của nó. Khi những môn đệ hỏi ông, linh hồn những người đã chết có sống hay không, ông trả lời: “... nếu nói vẫn sống thì không khéo những con cháu có hiếu sẽ khuynh gia bại sản vì cúng tế tổ tiên, nhưng nếu nói không sống thì không khéo bọn con cháu bất hiếu sẽ để cho cha mẹ chết mà không chôn cất”. Từ đó mà có kết luận như thế này: “Khi cúng tế tổ tiên thì phải rất mực cung kính, dường như có tổ tiên hiện về. Khi cúng tế thần minh thì cũng rất mực cung kính, dường như có thần minh hiện về”.*

Vô luận thế nào đi nữa thì tổ tiên xa xôi không chiếm vị trí quan trọng trong đạo đức học của Khổng Tử. Đạo hiếu của con cái ở đây được tập trung chủ yếu vào cha mẹ trực tiếp. Khổng Phu-tử nói: “Khi cha mình còn sống, thì phải noi theo chí hướng, ý tứ của cha mình. Khi cha mình mất đi rồi, thì nên để ý đến những việc làm của người. Cha mình mất trong ba năm mà mình chẳng đổi đạo nghệ của cha, đó mới gọi là con có hiếu”.*

Để bạn đọc hình dung được sống động hơn cái nhìn của người Trung Quốc về nguyên tắc cơ bản ấy của tôn giáo và luân lý của họ, xin dẫn ra ở đây từ cuốn sách của ông Georgievsky một đoạn đàm thoại giữa con và cha trong vở kịch Truyện ống sáo của Pi Pa-tsi (người cha khuyên con trai lên kinh đô để học hành đỗ đạt cao nhất; người con trai ái ngại từ giã bố mẹ già nua và người vợ trẻ của mình).

Cha (nói với con):

- Con chỉ nghĩ đến những thú vui của cuộc sống vợ chồng mà không sợ làm trái ý cha.

Con (quỳ gối và ngước mắt lên trời);

- Trời hỡi! Con mà lại làm trái ý cha?! (Đứng dậy). Hỡi thân phụ thân mẫu của con, làm sao con có thể trái ý thân phụ thân mẫu? Con xin nhắc lại: cái giữ con ở lại nhà chỉ là tuổi cao của cha mẹ. Cha ơi, cha cứ thử tưởng tượng, mà cái đó có thể xảy ra lắm, nếu quê ta bị lũ lụt, thì mọi người sẽ nói gì? Ban đầu họ sẽ bảo rằng con trai của cha mẹ bất hiếu, bỏ cha già mẹ héo ở nhà để theo đuổi công danh mà chẳng biết có được gì không. Sau đó người ta sẽ chê trách chính cha mẹ đã bất cẩn, chỉ có một đứa con trai duy nhất mà lại không để ở nhà, bắt đi lên kinh đô với biết bao rủi ro nơi viễn xứ! Càng nghĩ con càng thấy khó thực hiện chí nguyện của cha.

Cha:

- Có thực hiện chí nguyện của cha hay không - cái đó tuỳ thuộc vào con; nhưng con hãy nói vắn tắt con hiểu đạo hiếu là cái gì?

M ẹ (giọng bực bội):

-Trời ơi! Ông sống đã quá tám mươi tuổi mà còn chưa biết đạo hiếu là cái gì ư? Có nghĩa là con phải dìu dắt cha già như dìu dắt trẻ nhỏ vậy!

Cha (giọng khiêm nhường):

- Mẹ nó muốn nói cái gì thế?

Con:

- Cha ơi, con xin trả lời câu hỏi của cha. Bổn phận của con cái đối với cha mẹ là như sau: người con phải chăm lo sao cho cha mẹ mùa hè cũng như mùa đông có đầy đủ tiện nghi trong cuộc sống hàng ngày; buổi tối nào cũng phải sửa gường cho cha mẹ; mỗi sáng, hễ có tiếng gà gáy đầu tiên, là phải kính cẩn hỏi han tình hình sức khoẻ của cha mẹ; ngày ngày phải nhiều lần hỏi cha mẹ có bị nóng hay lạnh; hễ cha mẹ đi đâu thì phải đỡ đần. Cha mẹ kính trọng cái gì, con cái phải kính trọng cái đó; cha mẹ yêu thích cái gì, con cái phải yêu thích cái đó, kể cả ngựa và chó. Khi cha mẹ còn sống, người con trai không được rời khỏi nhà cha mẹ*. Người đời xưa nghĩ về đạo hiếu của con cái như thế và đã làm như thế.

Cha:

- Con trai của ta ơi! Những bổn phận mà con vừa kể ra là những bổn phận sơ đẳng nhất. Đạo hiếu có nhiều mức độ, và con còn chưa nói đến những yêu cầu cao nhất, đến cốt lõi của chữ hiếu.

Mẹ: (giọng bực bội)

- Khổ thay! ông đã chết đâu; hãy chờ đã - chỉ khi chết rồi thì ông mới có quyền đòi con ông thực hiện những bổn phận cuối cùng, như sách Hiếu Kinh đòi hỏi. Còn bây giờ chỉ là chuyện có lên kinh đô theo học hay không.

Cha:

- Con trai ơi, hãy nghe cha đây. Mức đầu tiên của đạo hiếu đòi hỏi phụng dưỡng cha mẹ, mức thứ hai - phụng sự quân vương, mức thứ ba - đoạt được quyền cao chức trọng. Giữ gìn thân thể được cha mẹ cho, tránh tất cả những gì có thể phương hại thân mình - đó là khởi đầu của đạo hiếu. Giành được quyền cao chức trọng, hành động theo đạo lý của thánh hiền, để lại thanh danh muôn thuở làm hiển vinh cha mẹ của mình - đó mới là điểm kết, là tuyệt đỉnh của đức hiếu. Ai vì cha già mẹ héo mà không dốc sức đạt công thành danh toại, người ấy chưa thật là có hiếu. Nếu con làm nên công trạng, được thăng quan tiến chức và biến túp lều cỏ này của cha mẹ thành dinh thự lộng lẫy thì con mới làm tròn mọi bổn phận của mình. Đây là ý kiến cuối cùng của cha.”*

VII. Vai trò chủ đạo của lễ giáo trong luân lý nho gia - Sự thiếu vắng những biểu hiện cực đoan của chủ nghĩa vị tha - Dụ ngôn về người rơi xuống giếng

Lan rộng bằng những vòng đồng tâm từ bếp gia đình đến ngai vàng của người cha của cả nước, chữ hiếu tạo thành nội dung cơ bản của đạo đức Khổng giáo, tức là đạo đức của toàn Trung Quốc. Mà hình thức tất yếu của đạo đức ấy thì được trình bày trong hệ thống các nghi lễ hay là lễ thức (lễ theo tiếng Trung). Nếu Khổng tử nói: “Ta nhờ để tâm quan sát, bắt một mối mà thông suốt tất cả”*, ngụ ý cái đầu mối ấy là chữ hiếu của con cái, thì cũng Khổng Tử ấy nói: “Ôi! Đạo của bậc thánh nhân lớn thay! Đạo ấy mênh mông như biển cả, nó sinh hoá và dưỡng dục tất cả vạn vật trong vũ trụ... Đạo ấy rộng lớn, đầy đủ thay! Nó bao gồm tất cả ba trăm điều lễ nghi và ba ngàn điều uy nghi”**. Xa lạ với mọi yếu tố huyền bí, mọi cảm hứng xuất thần, đạo Khổng đòi hỏi ở con người không phải sự tái sinh tinh thần, không phải sự thay đổi nội tại toàn bộ tâm thức của mình, mà chỉ sự tuân thủ một hệ thống nhất định và bất biến của những nguyên tắc quy định những quan hệ bên ngoài của nó với tất cả các giới xã hội mà nó sống trong đấy, bắt đầu từ gia đình. Bậc thánh hiền đã nói: “Chẳng biết lễ, thì không thể đứng được với người” (Bất tri lễ, vô dã lập giã)***. Còn ngài muốn nói cụ thể đến ý nghĩa của những nghi thức hay lễ thức nào, cái đó có thể thấy được từ đoạn sau đây trong sách Lễ Ký, hay là Kinh Lễ mà ngài san định. “Nếu không tuân thủ lễ tiết được thiết lập từ đời xưa, hoặc thậm chí huỷ bỏ chúng, thì tất cả đều sẽ lẫn lộn và hỗn loạn. Bỏ đi lễ cưới xin thì sẽ không còn vợ chồng, và thói trụy lạc với tất cả các tội lỗi sẽ phát triển. Bỏ đi lễ uống rượu (sau khi cúng tế), thì sẽ không còn phân biệt được lớn bé, trẻ già, mọi người sẽ cãi cọ, ẩu đả nhau. Bỏ đi lễ an táng và cúng tế (trên mộ), thì con cái sẽ không còn chăm sóc cha mẹ đã mất nữa, thậm chí không chịu phụng dưỡng cha mẹ còn sống. Huỷ bỏ lễ pin-tsin, thì không còn phân biệt được vua với tôi, các chư hầu sẽ lộng hành, cưỡng bức và hà hiếp lê dân”. Vì thế mà: “Cái gì không hợp lễ thì đừng ngó, cái gì chẳng hợp lễ thì đừng nghe, cái gì không hợp lễ thì đừng nói, cái gì chẳng hợp lễ thì đừng làm” (phi lễ vật thị, phi lễ vật thính, phi lễ vật ngôn, phi lễ vật động)*.

Vai trò hệ trọng quá mức của yếu tố lễ tiết truyền cho toàn bộ thể chế đạo đức của người Trung Hoa tính máy móc và đồng thời để lại không giảm thiểu những dị tật tinh thần chính của dân tộc ấy. Trong những lời dạy của Khổng Tử, bên cạnh sự đề cao nhiều lần và quá mức tầm quan trọng của lễ tiết và nghi thức, chúng ta không tìm thấy một lời nào lên án sự giả dối và sự nhẫn tâm. Tinh thần đề cao lễ tiết một chiều luyện cho con người thói quen lấy vẻ bề ngoài thấy được thay thế thực chất, thậm chí còn tạo điều kiện cho tính đạo đức giả, tính giối trá phát triển. Còn nếu nói về sự nhẫn tâm thì không có một chỉ huấn có tính nguyên tắc nào chống lại nó trong đạo lý Trung Hoa (Khổng giáo), đạo lý ấy chỉ thừa nhận những nghĩa vụ xác định đối với loại người này hay loại người kia, chứ tuyệt đối không phải đối với con người nói chung. Chính ông Georgievsky cũng phải thừa nhận điều này, bất chấp sự say mê của mình với đạo Trung Hoa. Ông nhận định như sau về nhân sinh quan đạo đức của dân tộc mà ông ái mộ: “Con người phải nhìn thấy mục đích cao nhất của đời mình ở sự vinh hoa phú quý cá nhân (chủ nghĩa ích kỷ lý thuyết tối cao); nhưng đích ấy chỉ có thể đạt được trong trường hợp, nếu con người trong thực tế tỏ ra ít ích kỷ nhất trong quan hệ với mọi người xung quanh, bắt đầu từ cha mẹ của mình. Con người phải thấm nhuần tình yêu trước hết đối với cha mẹ mình**. Tự xác định vững vàng trong tình yêu đối với cha mẹ, con người sẽ thấy cần thiết và sẽ biết yêu thương cả những người xa lạ với mình. Đây chính là những cơ sở đạo đức được chỉ ra trong triết học Khổng giáo. Theo triết học ấy con người không được là kẻ ích kỷ thực tiễn hẹp hòi phiến diện mà cũng không được sa vào những biểu hiện cực đoan của chủ nghĩa vị tha - con người phải luôn luôn nhớ rằng nó chỉ có thể đạt được thể sung mãn của chủ nghĩa ích kỷ cao nhất, mang tính nguyên tắc, bằng cách biết giới hạn mình vì người khác. Người theo đạo Khổng xa lạ với đòi hỏi cơ bản của đạo Kitô - đòi hỏi đã tin thì phải yêu Thượng Đế và đã yêu Ngài tức là yêu thương tất cả mọi người như chính bản thân mình - đạo lý Khổng giáo về cơ bản mang tính triết học thực dụng (sự bảo toàn tốt nhất tính chủ thể của con người chỉ hữu khả với điều kiện giữ gìn quan hệ tốt nhất với tất cả các khách thể). Đạo lý ấy, ban đầu được lý luận chỉ ra, dần dần thẩm thấu tinh thần nhân dân Trung Quốc, trở thành cái khả thi trong thực tiễn, và trong cả một chuỗi dài thế kỷ càng ngày càng được khẳng định vững chắc hơn, có thể nói từ lý thuyết đã biến thành một thực tại văn hoá - bản năng. Đạo Khổng quy tất cả quan hệ của con người với những người khác về năm loại: quan hệ với cha mẹ, với anh em (và những người thân khác), với vợ, với bằng hữu (hiểu trước tiên là những thành viên của một hiệp hội, phường hội, tập đoàn v. v..), với vua chúa (với tư cách đại diện của quốc gia). Động cơ của những quan hệ thực chứng - thực dụng ấy, theo bản chất của triết học Khổng giáo, là khát vọng vinh hoa phú quý của con người. Pietas erga parentes (lòng tôn kính cha mẹ) khiến con người khẳng định mình vững chắc trong tình yêu nguyên khởi, công lý nguyên khởi và tính chủ động nguyên khởi và bằng cách ấy bảo đảm cho anh ta vị trí xã hôị xứng đáng trong cuộc sống; ở anh em và họ hàng thân thuộc, con người một mặt có hòn đá thử vàng cho những phẩm chất xã hội của mình, mặt khác, có chỗ dựa trong những tai ương hay rủi ro của cuộc đời; tình yêu thủy chung giữa vợ chồng bảo đảm cho con người sự thoả mãn tốt nhất bản năng tính dục; tình bạn chân thành với những người mà anh ta có quan hệ công việc với họ làm cho những quan hệ ấy được vững chắc và ổn định; lòng trung thành và sự phục vụ tận tụy vua chúa (đại diện cho quốc gia) cần thiết cho con người (với tư cách một công dân và đặc biệt một viên chức), bởi vì những đức tính ấy phục vụ cho sự thịnh vượng của đất nước mà trong đó bản thân con người ấy sống với cha mẹ, vợ con và họ hàng của mình. Còn nếu nói về tầm quan trọng tương quan giữa những phạm trù ấy thì người Trung Quốc không biết đến sự quá độ từ cái chung sang cái riêng - anh ta xem phạm trù thứ nhất (cái riêng) là quan trọng nhất, lấy nó làm cơ sở nguyên khởi và từ nó, theo trật tự những vòng đồng tâm, phát triển những phạm trù khác, cho rằng con người không yêu cha mẹ thì không thể yêu anh em của mình, không yêu cha mẹ và anh em mình thì không thể yêu vợ, yêu bạn bè và tổ quốc. Khi người Trung Quốc bước vào đời sống xã hội và thiết lập quan hệ với những người ngoài gia đình mình, anh ta không phải do dự trong việc lựa chọn những nguyên tắc làm kim chỉ nam cho hành động, bởi vì những nguyên tắc ấy đã có sẵn - con người phải tâm tâm niệm niệm rằng những người thân thích, và trước hết cha mẹ của anh ta có quyền được anh ta yêu chuộng và biểu hiện sự yêu chuộng ấy bằng mọi cách, - nếu phải lựa chọn thì anh ta dứt khoát phải hy sinh lợi ích của bạn bè cho lợi ích của họ hàng và đặc biệt của cha mẹ...Tình yêu phổ quát đối với nhân loại xa lạ đối với người Trung Quốc - họ (trừ những ngoại lệ hãn hữu) không biết đến đạo Kitô, không theo đạo Phật truyền bá tình thương đối với tất cả (chủ nghĩa vị tha phổ quát) vì coi nhẹ sự sống, không đề cao học thuyết của Mặc Tử*, hiểu rằng học thuyết ấy rất bấp bênh. Không nhìn thấy cơ sở cho tình yêu phổ quát, người Trung Quốc xem nó là vô căn cứ về mặt lý thuyết, còn về mặt thực tiễn thì, theo trình tự những vòng đồng tâm của các quan hệ (cha mẹ, gia tộc, xã hội, tổ quốc, nhân loại) - là bất cập đối với con người; họ cho rằng con người cá thể chỉ có thể là người vị tha phổ quát, khi mà anh ta xem nhẹ những bổn phận trước tiên của mình đối với cha mẹ (gia tộc, xã hội, tổ quốc) và như thế là rơi vào chân không. Không có cảm hứng yêu quý nhân loại và nhìn thấy mục đích cuộc đời ở vinh hoa phú quý của cá nhân, người Trung Quốc cảm thấy được thoả mãn nội tại, bởi vì anh ta luôn luôn tâm niệm rằng chỉ có thể đạt được hạnh phúc cá nhân ấy bằng sự kết hợp nó một cách cân đối với hạnh phúc của các khách thể (cha mẹ, họ hàng, vợ con, bạn bè, đồng bào). Người Trung Quốc không hiểu được ngay khả năng coi xem tất cả mọi người như là anh em của mình và yêu thương họ như yêu thương bản thân mình, không hiểu được cả khả năng thừa nhận ở tất cả mọi người phẩm giá con người; dưới từ “con người” anh ta chỉ hiểu con người có văn hoá, biết sống trong xã hội, còn đối với những cá nhân đã đánh mất nhân phẩm và đứng ra ngoài thể chế xã hội (những phạm nhân, những người ăn xin, v. v...) thì anh ta đối xử không khác gì với những con vật, mà lại những con vật độc hại”.*

“Mỗi một người Trung Quốc đơn lẻ là con người như thế nào? - Ông Georgievsky hỏi tiếp - Đó là một nho sĩ trong lý thuyết (thường hay bắt gặp nhất), còn trong thực tiễn thì (hầu như luôn luôn) đó là con người xem phú quý vinh hoa cá nhân là mục đích cuộc đời mình và để đạt được đích ấy dùng đạo hiếu như là phương tiện cơ bản, quy định tất cả các phương tiện khác. Triết lý Khổng giáo chiếm lĩnh tâm trí người Trung Quốc và họ hoàn toàn đồng tâm nhất trí với nhau trong những quan niệm cơ bản về cuộc sống và nội dung của nó. Những đơn vị đồng nhất về bản chất tinh thần là những thành tố hữu cơ của các nhóm xã hội hình thành trên những cơ sở khác nhau. Mỗi một người Trung Quốc trước hết gắn bó với họ hàng của mình (mức độ gần xa được quy định bởi mức độ để tang), thứ hai, với những thành viên của các phường hiệp (tập đoàn, công ty, hiệp hội, v. v...) mà anh ta thuộc về đấy theo nghề nghiệp và thứ ba, với những cư dân của làng, thị trấn, thị xã, tổng của mình, v. v...”**

“Nếu người Trung Quốc nào, do không biết tự quyết đầy đủ và không có năng lực là luật pháp cho chính mình***, bắt đầu bộc lộ những tính chất phản xã hội và hướng ý chí của mình vào hoạt động có thể xâm hại đời sống hoà điệu của nhóm xã hội****, thì những thành viên của nhóm ấy lập tức có những biện pháp để triệt tiêu cái hoạ ấy hay ít nhất để cho nó không thoát ra khỏi tầm kiểm soát của họ. ở Trung Quốc cả chính phủ lẫn công luận đều đối xử rất nghiêm khắc với những phạm nhân, và người ta không quan tâm đặc biệt đến việc giữ gìn cuộc sống và sức khoẻ của chúng. - Người Trung Quốc thủ tiêu những phần tử phản xã hội, thiếu nhân đạo(!) và văn hoá một cách hăng hái chẳng khác nào nhổ cỏ dại trên đồng lúa”*.

Đối xử với những tội nhân và những người ăn xin như với cỏ dại, người Trung Quốc được Khổng Tử giáo dục cũng xa lạ với “những biểu hiện cực đoan của chủ nghĩa vị tha” (theo cách nói tuyệt hay của ông Georgievsky) cả trong cách ứng xử với những người không mâu thuẫn với thể chế xã hội, mà chỉ lâm vào hoạn nạn ngẫu nhiên. Họ thấy trái lẽ thường không chỉ ý tưởng về tình yêu phổ quát đối với nhân loại, mà ngay cả ý tưởng tự hy sinh nói chung. Đạo đức của họ hữu hạn không chỉ về thể tích của đối tượng, mà còn cả về mức độ những yêu cầu của nó. Liều thân hòng cứu sống một đồng loại của mình, theo học thuyết của Khổng Tử, là sự điên rồ.

“Ông Tể Ngã hỏi đức Khổng Tử: “Nếu có người đến báo với nhà nhân đức rằng có kẻ ngã xuống giếng, nhà nhân đức có nhảy xuống giếng mà cứu chăng?” Đức Khổng Tử đáp: “Sao lại vậy? Người quân tử đứng xa mà tìm cách cứu, chứ chẳng nên nhảy xuống giếng mà hại thân mạng mình. Người quân tử có thể bị can ngăn bởi những lời có lý, chứ không thể bị mê hoặc bởi những điều vô lý”**.

Chủ nghĩa vị kỷ, được điều tiết bởi óc khôn ngoan, được hạn chế (một phần bằng bản năng, một phần bằng cưỡng chế) bởi sự cấu kết với những nhóm xã hội, mà số phận của từng cá nhân con người phụ thuộc vào những tập thể ấy - đó là nhân sinh quan đạo đức của người Trung Hoa. ở điểm này, họ trung thành với nguyên lý chung của mình. Thừa nhận chân lý tuyệt đối chỉ ở trong quá khứ, ở cái đã được cho, họ tất yếu phải bác bỏ những yêu cầu của tình yêu và tình đoàn kết phổ quát - chúng là lý tưởng của tương lai.

Kỳ sau: VIII. Đánh giá lý tưởng Trung Hoa - Chân lý cơ bản của nó - Tính hạn hẹp của văn hoá trung Hoa - Chính người Trung Quốc không thoả mãn với tôn giáo chính thống của họ - Đạo giáo và Phật giáo Trung Hoa.

Phạm Vĩnh Cư dịch


** Mạnh Tử, quyển hạ, IV, 1.

* Một chuyện kể trong sách Luận ngữ, XVII, 6, hình như ám chỉ về sự đụng độ giữa Khổng tử với những đối thủ loại ấy.

*Luận ngữ, VII, 1.

**Sđd, VII, 19.

* Sđd, III, 12

*Sđd, I, 11.

* Lấy từ sách thánh Lễ Ký (hay là Lễ Kinh)

* Georgievsky, tr. 399-401

*Luận ngữ, XV, 2 (bản dịch của Pauthier, tr.164).

**Trung Dung, XXVII, 1-3 (bản dịch của Pauthier, tr.62-63).

***Luận ngữ, XX, 3.

 

*Sđd, XII, 1.

**Xin được nhận xét rằng ở đây ông Georgievsky diễn đạt bằng lời của mình: Khổng Tử đòi hỏi không phải tình yêu, mà chỉ sự tôn kính cha mẹ.

 

* Tên một trong những môn đệ của Lão tử, rao giảng, theo lời ông Georgievsky, một chủ nghĩa vị tha phổ quát, hay là, nói đúng hơn, một thái độ hữu luân hữu đức như nhau đối với những người thân và người dưng (kiêm ái).

*Georgievsky, tr.455-458

**Sđd, tr.459

***Nhưng từ đâu ở anh ta có thể có cái khả năng ấy, nếu anh ta chỉ là thành viên của nhóm xã hội?

****Để không bộc lộ những tính chất phản xã hội và không xâm hại “đời sống hoà điệu của nhóm”, không cần thiết phải biết tự quyết đầy đủ và phải có “năng lực là luật pháp cho chính mình”, mà chỉ cần là một con kiến trong tổ kiến. Còn khi tình kết đoàn bản năng ấy cũng không hoạt động nữa thì, như chính ông Georgievsky đã chỉ ra, những hình phạt sẽ đến trợ giúp, trong đó có một hình phạt khá thông dụng là lăng trì (xẻo thân thể tội nhân ra từng mẩu nhỏ cho chết dần).

* Georgievsky, tr. 460

** Luận ngữ, VI, 24 (bản dịch của Pauthier)

 

tin tức liên quan

Thống kê truy cập

114574628

Hôm nay

2226

Hôm qua

2317

Tuần này

22174

Tháng này

221685

Tháng qua

130677

Tất cả

114574628