Giữ nguyên vẹn bất biến cái thể chế đời sống mà cha ông để lại và chuyển giao nó cho các thế hệ mai sau, không thêm bớt một tí gì - đó là thực chất của minh triết Trung Hoa, cái minh triết rõ ràng bảo thủ và sùng cổ, có thể nói nệ cổ. Người Trung Quốc thừa nhận tính hoàn hảo chỉ ở cái đã qua, tôn giáo và đạo đức đối với họ hoà làm một trong sự sùng bái cái trật tự đã có, đã được thiết lập một lần và vĩnh viễn. Những người quá cố - từ cha ông đã mất cho đến bách thần trên trời - đó là đối tượng thực thụ của tôn giáo công cũng như tôn giáo tư; tôn kính bề trên, tuân phục những người đại diện cho trật tự truyền thống - từ người cha của gia đình cho đến hoàng đế của thiên hạ - đấy là nền móng của đạo đức cá nhân cũng như đạo đức xã hội. Trên cái nền móng bất di bất dịch ấy từ ngàn xưa đã được thiết lập một trật tự tôn ti cân đối, bao trùm tất cả các quan hệ trong cuộc sống và được gia cố bằng một hệ thống nghi lễ phức tạp. Thừa nhận trên thực tế cái trật tự ấy, tuân thủ một cách chuẩn xác những lễ tiết ấy - đấy là tất cả những gì mà người Trung Quốc đòi hỏi ở mình để có được sự an khang thịnh vượng cá nhân và quốc gia. Vì lẽ công bằng cần phải nói thêm rằng, mặc dù triết học Khổng giáo (ít nhất những kiến giải mới nhất về nó), như chúng ta đã thấy, quy lý tưởng bảo thủ Trung Hoa về nguyên tắc chủ nghĩa vị kỷ lý thuyết, nhưng trong quần chúng nhân dân sự thực hiện lý tưởng ấy tất yếu đòi hỏi những bản năng và tình cảm đạo đức-xã hội (vị tha chủ nghĩa), tồn tại không phụ thuộc vào những suy tính duy lợi. Sự phụng dưỡng tổ tiên và bề trên sẽ không thể được mọi người thực hiện như là một bổn phận, nếu không có sự gắn bó với những tổ tiên và những người bề trên ấy. ở Trung Quốc có vô số tác phẩm văn học ca ngợi lòng hiếu thảo của con cháu và lưu truyền cho muôn đời những tấm gương lịch sử về lòng hiếu thảo tận tụy nhều khi đi đến mức tự hy sinh ấy. Cả sự cúng tế tổ tiên đối với một người Trung Quốc mẫu mực không chỉ là việc cử hành một nghi lễ bắt buộc, mà còn kết hợp với những cảm xúc nội tâm tương ứng, mà cường độ của chúng nhiều khi đạt tới mức họ cảm thấy (hay là có ảo giác) tiếp xúc trực tiếp với cha ông đã quá cố. Về điều này, chúng ta có thể đọc trong sách Lễ Ký một đoạn như sau: “Người con có hiếu (trước khi làm lễ cúng tế tổ tiên) tập luyện trai giới, bên ngoài cũng như bên trong. Trong những ngày trai giới ấy anh ta nhớ lại cuộc đời của tổ tiên quá cố, ánh mắt và nụ cười của họ, vẻ mặt và những lời nói của họ, suy nghĩ về những dự kiến và hoạch định của họ, hồi tưởng lại tất cả những gì họ ưa thích và làm cho họ vui lòng. Trai giới như vậy ba ngày, anh ta nhìn thấy tận mắt những người mà anh ta sẽ tế lễ. Trong ngày tế lễ, khi anh ta bước vào nhà thờ tổ tiên, anh ta trông thấy cha mẹ đã quá cố mỗi người ngồi ở chỗ của mình. Ngoảnh lại và tiến đến cửa, anh ta kính cẩn lắng nghe tiếng nói của họ, bước ra ngoài cửa nghe thấy những tiếng thở dài, anh ta nhận ra tiếng thở dài của cha mẹ mình. Vì vậy mà đức hiếu của các bậc vương giả đời xưa thể hiện ở việc họ luôn luôn nhìn thấy trước mắt mình hình ảnh song thân quá cố, lắng nghe tiếng nói của họ, không bao giờ sao lãng những chí nguyện và dự kiến của họ. Được yêu kính hết mực như vậy, tổ tiên hiển hiện trước con cháu... Khi Văn Vương làm lễ cúng tổ tiên, ông phụng sự người đã mất như họ đương sống, ông suy nghĩ về những người quá cố y như ông không muốn sống trên đời này nữa”.*
Nếu một mặt lý tưởng Trung Hoa, toàn bộ hướng về quá khứ, tự nói lên rằng ở trong nhân dân Trung Quốc có một tình cảm gắn bó đặc biệt với tổ tiên, thì mặt khác, bản thân tình cảm ấy được phát triển và củng cố nhờ sự khẳng định một cách có ý thức và bằng luật pháp cái lý tưởng sùng cổ ấy: nó giáo dưỡng ở người Trung Quốc cái chủ nghĩa vị tha đặc thù của họ. Thành công của sự giáo dưỡng ấy tất nhiên không nên khuyếch đại. Hoàng đế Văn Vương cũng như những người con kiểu mẫu mà tấm gương được kể lại trong các sách giáo huấn chuyên nói về đạo hiếu của con cái, xưa kia cũng như ngày nay vẫn là những ngoại lệ hiếm hoi (nếu không thì họ đã không được tôn vinh đến thế, không được phong thánh phong thần như thế). Trong đa số trường hợp trật tự gia trưởng được bảo tồn bằng những tình cảm trìu mến thì ít ơn, mà bằng những hình phạt tàn nhẫn thì nhiều hơn. Chính ông Georgievsky thành thật liệt kê những hình thức hành hạ và các kiểu tử hình đa dạng mà những người Trung Quốc nam và nữ đã vi phạm nghĩa vụ gia đình của mình phải chịu đựng. Nhưng để đánh giá lý tưởng Trung Hoa chúng ta sẽ không dừng lại ở cái thực tại cục bộ không tương hợp với nó; ta hãy xét thực chất của cái lý tưởng ấy và những kết quả chung mà dưới sự tác động nhiều thế kỷ của nó dân tộc Trung Hoa đã đạt được.
Lý tưởng sùng cổ Trung Hoa tự nó chứa đựng cơ sở của mọi chân lý và mọi đạo lý.
Quá khứ trước hết có quyền được ta tôn kính. Chúng ta không tự mình bắt đầu cuộc sống của mình, chúng ta nhận được nó từ cái tồn tại trước chúng ta, nhờ ơn quá khứ, nhờ ơn tổ tiên mà chúng ta có được sự sống. Không công nhận sự lệ thuộc ấy và không hoàn trả món nợ ấy của chúng ta đối với quá khứ thì chúng ta, theo phán xét của lương tri, không có quyền sống. Gìn giữ quan hệ với tổ tiên đã quá cố và thờ phụng họ, không thể hồ nghi, là bổn phận đầu tiên của tất cả những người đương sống. Chỉ phải hỏi, bằng cách nào thực hiện được tốt nhất bổn phận ấy? Để làm tròn bổn phận đã đủ hay chưa giữ nguyên không đổi thay tất cả những gì tồn tại ở thời tổ tiên, đã đủ hay chưa bằng tế lễ đạt tới sự giao tiếp cảm tính ít nhiều hư ảo với tổ tiên và bằng bói toán đoán biết về ý nguyện ít nhiều hư tưởng của họ? Và trước hết, có thể và có đáng giữ nguyên không đổi thay cái mà tất yếu đã phải chịu một sự đổi thay khủng khiếp mà tên gọi là cái chết? Nhưng, không quyết đoán trước một vấn đề mang tính nguyên tắc, chúng ta hãy đánh giá tín ngưỡng Trung Hoa bằng phương pháp lịch sử, theo những thành quả của nó.
Những thành quả lịch sử của nhân sinh quan Trung Hoa mà chúng tôi đã cố gắng phác hoạ có thể được quy về ba thực tại. Thực tại thứ nhất bênh vực lý tưởng Trung Hoa, thực tại thứ hai phản bác nó còn thực tại thứ ba, mặc dù còn không thuận lợi hơn nữa cho lý tưởng Trung Hoa, đồng thời cung cấp cho chúng ta một quan niệm tốt đẹp về người Trung Quốc, không cho phép nhìn thấy ở họ những con người đã hoá đá hoàn toàn trong lễ giáo truyền thống. Thực tại thứ nhất - đó là sự bền vững và chắc chắn có một không hai trong lịch sử của cơ thể quốc gia-dân tộc Trung Hoa. Trong khi nhiều dân tộc khác sống biệt lập cũng như Trung Quốc hoặc đã từ lâu đánh mất độc lập của mình, trở thành chiến phẩm dễ dàng cho người nước ngoài, như ấn Độ, hoặc đã tử vong hoàn toàn theo nghĩa dân tộc học, như những người Mêhicô và Pêru cổ, thì Trung Quốc không những vẫn giữ gìn không suy suyển trong vòng ba hoặc bốn ngàn năm nền tự chủ dân tộc và chính trị của mình, mà còn bành trướng ảnh hưởng của mình sang các dân tộc láng giềng, hút thu họ vào cơ thể quốc gia của mình và giờ đây ngay cả những người ít thiện cảm nhất với đế quốc Trung Hoa cũng phải so sánh văn hoá Trung Quốc và văn hoá châu Âu như là hai nền văn hoá ngang sức, nếu không ngang giá trị*. Những người hâm mộ Trung Quốc nói chính đáng về tính trường cửu của nó như là một nét ưu việt quan trọng; họ đúng cả khi họ khẳng định rằng đây không phải là nét ưu việt ngẫu nhiên, mà do người Trung Hoa đã dày công hun đúc nên. Đặt làm nền móng cho đời sống dân tộc của mình giới luật: hãy thờ cha kính mẹ, họ xứng đáng được hưởng phần thưởng hứa hẹn: và ngươi sẽ được sống lâu trên mặt đất (10). Tôn kính những người đã chết hơn tất cả mọi thứ, người Trung Quốc đã trở thành dân tộc có sức sống dẻo dai bền bỉ nhất; bằng sự thực hiện bổn phận đầu tiên của con người, Trung Quốc đã bảo đảm cho mình cái phúc lợi cơ bản đầu tiên - cuộc sống trường cửu; thừa nhận sự lệ thuộc của mình vào quá khứ, nước Trung Hoa đã gia cố nền độc lập của mình trong hiện tại.
Cái phúc của sự trường tồn, không thể nghi ngờ, bằng thực tế thấy được của mình nói lên tính ưu việt của nguyên tắc sống Trung Hoa. Nhưng bên cạnh cái đó còn lại một thực tại khác, cũng không thể hồ nghi - đó là văn hoá Trung Hoa, với tất cả tính bền vững và sung mãn vật chất của nó, lại nghèo nàn về tinh thần và ít bổ ích cho nhân loại. Nó tốt đẹp với bản thân người Hoa, nhưng nó đã không cống hiến cho thế giới một tư tưởng vĩ đại nào và một sản phẩm có giá trị tuyệt đối vĩnh hằng nào trong một lĩnh vực nào. Người Trung Quốc là một dân tộc lớn, nhưng không vĩ đại, trong dân tộc ấy đã không có những vĩ nhân. Một ngoại lệ duy nhất là Lão Tử. Nhưng ngạc nhiên trước những bước ngoặt mạnh bạo và độc đáo của tư tưởng của ông, không nên quên rằng tất cả những gì hệ trọng trong tư tưởng ấy đã được diễn đạt một cách không kém phần mạnh bạo, nhưng lại rõ ràng hơn và đầy đủ hơn bởi các nhà huyền học ấn Độ - các tác giả của các kinh Upanishad và Bhagavad-gita. Văn học Trung Quốc rất đồ sộ, nhưng về tính chất và phẩm giá của nó có thể phán xét căn cứ vào những mẫu mực được dịch ra các Âu ngữ: ngoài một số thi phẩm và truyện cổ thực sự giàu chất thơ - mà những tác phẩm như thế có ở tất cả các dân tộc, ngay cả những dân tộc còn tuyệt đối chưa được khai hoá, tất cả những thứ khác đều không có giá trị thẩm mỹ và chỉ có thể có ý nghĩa lịch sử hoặc dân tộc học. Kịch Trung Quốc thuộc về loại “kịch nói tự nhiên” được đưa vào văn học Nga bởi Kuzma Prutkov và vào văn học Tây Âu bởi Ibsen. Cũng ít yếu tố sáng tạo nghệ thuật trong tiểu thuyết Trung Hoa*; chất lượng không bảo đảm, mà người ta giả định ở các bản dịch các tác phẩm văn chương, chỉ có thể làm giảm nhẹ, chứ không thay đổi về cơ bản sự đánh giá của chúng tôi. Nhưng cả cái hoàn cảnh khinh giảm ấy cũng không có nữa trong những lĩnh vực hoạt động tinh thần, mà ở đấy vấn đề ngôn ngữ không đóng một vai trò gì. Thí dụ, không thể tranh cãi, là trong âm nhạc, trong hội hoạ, và cả trong khoa học thực chứng người Trung Quốc đã dừng lại ở những trình độ sơ đẳng, mặc dù trong một số trường hợp họ biểu lộ năng lực tiểu xảo đáng phục. Còn nếu nói về triết học riêng của Trung Hoa, triết học Khổng giáo, thì nó chỉ chứa đựng phép khôn ngoan thực tiễn đời thường ad usum Sinensium (cho người Trung Hoa dùng), tức là thực ra đó chỉ là sự rao giảng tính ôn hoà và cẩn thận, nhiều khi tiến sát tới những chân lý theo kiểu của ông La Palice (11) .
Song vị tất chúng ta phải xuất phát từ quan điểm châu Âu, quan điểm Kitô giáo để tố cáo tính hạn hẹp của lối sống và tư tưởng Trung Hoa và chứng minh rằng tinh thần con người không thể tìm được sự thoả mãn đến cùng trong những giới tuyến khép kín của lý tưởng khôn ngoan điều độ của người Trung Quốc. Tính thiếu cơ sở của những giới tuyến ấy bị tố giác bởi chính người Trung Quốc; hàng vạn, hàng triệu những con người ấy, ít nhất trong đời tư, gắng sức bằng cách này hay cách khác vượt ra ngoài ranh giới của cái trật tự đạo đức nặng tính lý trí và nếp sống cân bằng phẳng lặng ấy. Có những người “vượt rào” bằng thân thể, đắm đuối với thuốc phiện mang lại cho họ một cuộc sống kỳ ảo bất tận thay vì cái thực tại điều độ tẻ ngắt vây hãm họ khi họ tỉnh. Những người khác thì cầu viện đến những phương tiện mang tính tinh thần hơn, mà hai tôn giáo huyền bí - Đạo giáo và Phật giáo - xa lạ với lý tưởng Trung Hoa, tức là lý tưởng Khổng giáo, cung ứng cho họ. Việc người Trung Quốc tìm kiếm những đường sống khác, bên ngoài tôn giáo quốc gia-dân tộc chính thống của họ, chính là cái thực tại thứ ba, trung gian, nó làm chứng không có lợi cho lý tưởng Trung Hoa, nhưng lại có lợi cho chính người Hoa.
Những tín đồ của Đạo giáo trong ý thức gắn bó với Lão Tử và học thuyết của ông về đạo. Và quả thật, tôn giáo này thoát thai từ trường phái đạo gia đã vật chất hoá những tư tưởng huyền bí của vị sư phụ già của mình. Lão Tử, như chúng ta biết, quan niệm đạo như là trạng thái bất phân tuyệt đối, hay là như khởi nguyên tuyệt đối của tất cả trong trạng thái tiềm năng thuần tuý, không hiển lộ và không hoạt động. Những tín đồ của Đạo giáo tìm kiếm trong đạo bí mật của sự sống vĩnh hằng và cực lạc, bất biến và phổ quát - một cái gì đó na ná như thuật luyện đan hay thuốc trường sinh bất tử. Nhưng có lẽ vì không bao giờ có thể khám phá và làm chủ được đến cùng cái bí mật vĩ đại ấy cho nên các tu sĩ của Đạo giáo đã khôn ngoan đổi đồng tiền cực to ấy thành vô số tiền lẻ - họ sống bằng pháp thuật, bói toán và buôn bán những “thuốc thần”. Đồng thời họ cũng thờ phụng cơ man những thần-nhân và nhân-thần mà về chúng tác giả Đạo đức kinh dĩ nhiên không hề nghĩ đến. Đạo giáo ngày nay thực ra chỉ là sự phục hồi dưới hình thức phức tạp hơn cái tôn giáo nguyên thủy của các dân tộc chưa khai hoá (chủ yếu thuộc chủng tộc Mông) mà trong khoa học được biết đến dưới tên chung đạo saman. Người Trung Quốc, cũng như tất cả những người đồng tộc cổ xưa của họ, ban đầu theo đạo saman, sau khi họ đã tách thành một quốc gia và một dân tộc riêng thì đạo ấy vẫn còn lại như là “tầng đất dưới” trong đời sống và ý thức của những người dân thường. Tục thờ cúng tổ tiên gia đình, chưa nói đến tổ tiên quốc gia, không thể nào là tôn giáo nguyên thủy của người Hoa. Trong trạng thái nguyên thủy, bừa bãi và lẫn lộn của các quan hệ hữu tính, khi mà không ai có thể biết được ai trong số những người đương sống là cha của mình, thì cũng không ai có thể thờ phụng tổ tiên đã quá cố; sự thờ cúng họ rõ ràng đòi hỏi sự tồn tại của gia đình phụ quyền có tổ chức. Đối tượng thực sự của sự tế tự phù thủy saman cũng là các vong linh, nhưng không phải là vong linh tổ tiên, mà là những vong linh có tính danh không xác định, mà ở chúng tính chất của những người đã chết hoà lẫn và hoà đồng với tính chất của những sức mạnh tự phát của thiên nhiên, những sức mạnh ấy lại nhiều khi hiện diện những dưới hình dạng thú vật (tính hình thú). Mà cái đó là tự nhiên, bởi vì trong đời sống của con người man rợ những bản năng bán hữu thức, tâm-thân thể ưu trội hơn nhiều so với hoạt động trí não và sự tồn tại của con người ấy hoà đồng với những hiện tượng tự nhiên bao quanh đến mức ở nó chưa thể phát triển sự tự ý thức cá nhân, cho nên nó tuyệt đối không thể phân biệt rõ ràng giữa hồn thiêng con người và hồn thiêng thiên nhiên, và nó nhìn thấy biểu hiện mãnh liệt nhất của đời sống tự nhiên không phải ở con người mà ở con vật.
Những thần thánh của Đạo giáo vẫn là những tự nhiên thần tù mù của đạo saman xưa kia, có điều chúng được cố định hơn dưới hình dáng con người. Tính chất của các tế lễ về cơ bản vẫn như trong đạo saman, tức là phù phép và ma thuật. Nhiều nhà trung Hoa học lấy làm ngạc nhiên rằng những tư tưởng tư biện tinh tế của Lão Tử ở những hậu sinh của ông đã biến chất thành phép phù thủy thô lậu đến thế. Nhưng ở đây có một lôgic nội tại, mặc dù thấm đượm tính mỉa mai. Chúng ta biết rằng Lão Tử rao giảng sự trở lại với tự nhiên và kiên quyết chống lại tiến bộ văn hoá dựa trên quan điểm có nguyên tắc nói rằng đạo, hay là con đường sống chân chính, là sự hư không và bất phân tuyệt đối, trong khi ấy thì mọi tiến bộ văn hoá được quyết định bởi sự phân định và phức tạp hoá sự sống. Ông rao giảng cái đó bằng lời là chính, vì bản thân ông là một nhà tư tưởng tinh thông và một người có văn hoá. Nhưng những tư tưởng có lôgic thực tại của nó, và do cái lôgic ấy mà những tông đồ của Đạo giáo đã thực hiện bằng thực tiễn lời của ông thầy già, trở về với tôn giáo tự phát đơn sơ nhất của các dân tộc chưa có văn hoá, nơi mà tinh thần con người còn chưa được phân biệt với những sức mạnh vật chất của thiên nhiên, và hoạt động hữu thức được thay thế bằng sự tiếp xúc ma thuật thụ động với những sinh linh cấp thấp hơn.
Quần chúng Trung Hoa, thỉnh thoảng lại cầu viện đến Đạo giáo, tìm kiếm ở đấy cái mà tôn giáo nghi lễ quan phương không thể đem lại cho họ - sự cứu giúp thần kỳ trong những tai ương của cuộc sống và sự giao tiếp tự do với những sức mạnh không thuộc thế giới này. Những tu sĩ Đạo giáo, bị giới quan lại có học khinh bỉ như là những kẻ mê tín dị đoan và những kẻ lừa bịp, không có một vị trí chính thức nào trong nhà nước, được dân chúng quý mến chính bởi tính phi chính thống ấy của họ; trong con mắt nhân dân họ là những người đã nghe theo tiếng gọi mà hiến mình cho sự nghiệp tôn giáo, chứ không thi hành nó như một trong những nhiệm vụ của viên chức nhà nước. Nhưng nhu cầu tôn giáo của nhân dân Trung Quốc đã không thoả mãn cả với Đạo giáo, vì đạo này bằng những phù phép của mình chỉ cứu giúp trong những hoạn nạn của cuộc sống hiện tại, nhưng lại, cũng như tôn giáo chính thống, hiểu biết rất ít về sự sống tương lai. Với lời giải đáp cho những thắc mắc tôn giáo cao nhất ấy, mà Khổng giáo và Đạo giáo đã gác sang một bên, đạo Phật đã xuất hiện ở Trung Quốc từ ấn Độ vào thế kỷ đầu của kỷ nguyên của chúng ta và đã chiếm được một vị trí chắc chắn, tuy không thống trị. Tất nhiên, đạo Phật Trung Hoa không phải là cái đạo mà Phật Thích Ca Mầu Ni rao giảng và đã được ghi lại trong Tripitaka (Tam Tạng)*, giữa chúng cũng có quan hệ na ná như quan hệ mà ta thấy giữa Đạo giáo ngày nay và học thuyết của Lão Tử được trình bày trong Đạo đức kinh.
Đạo Phật nguyên thủy có thể được quy về ba tư tưởng cơ bản: nó nâng cao lên bên trên tất cả các thần linh ấn Độ, mà số lượng không thể đếm được, một con người tự hoá thần, một con người bằng kỳ công cá nhân đã dành lấy cho mình vị trí của một sinh linh tuyệt đối và tối thượng; nó đã đặt giới hạn cho những cuộc phiêu diêu bất tận của linh hồn trong thế giới bên kia bằng lý tưởng về sự yên bình tuyệt đối - Niết bàn; cuối cùng, chỉ ra cho tất cả mọi người con đường cứu độ chung bằng sự dập tắt ý chí và bằng thái độ từ bi đối với mọi chúng sinh, đạo Phật cùng một lúc giáng đòn xuống cả tính duy nghi lễ của đạo Bà la môn với hệ thống cúng tế và cầu nguyện phức tạp của nó, cả chủ nghĩa khổ hạnh thân xác bên ngoài của các thánh nhân ấn Độ và cả tình trạng vô quyền mang tính nguyên tắc của các đẳng cấp xã hội hạ lưu. Nhưng, nâng mình lên bên trên tôn giáo dân tộc của ấn Độ, đạo Phật tuy vậy không phủ định những cơ sở thực định của nó. Đặt Phật cao hơn tất cả các thần, nó bằng cách ấy thừa nhận sự tồn tại của chư thần, xác nhận tính hữu thực của họ, có điều chỉ dành cho họ một vị trí thứ yếu. Kiếm tìm phương cách chấm dứt sự phiêu diêu của linh hồn trong thế giới bên kia, đạo Phật bằng cách ấy chứng tỏ niềm tin của mình vào thế giới ấy, với muôn vàn sự khác biệt của nó*. Cuối cùng, coi trọng đặc biệt việc thực hiện luật đạo đức, đạo Phật đồng thời không phủ định sự thờ phụng thánh thần bằng vật chất, nó thậm chí đã tặng cho thế giới á Đông một hình thức thờ bái mới - thờ bái các thánh tích, với quy mô chưa rừng thấy trước đó. Như ta biết, tín ngưỡng của người phật tử chính thống từ thời sơ kỳ đã được thể hiện bằng định thức ngắn gọn: tôi tin vào Phật, tin vào lề luật tôn giáo (Pháp) và tin vào giáo hội Phật giáo (Tăng). Như vậy, tôn giáo mới không tự hạn chế bởi sự rao giảng đạo lý, mà còn hàm chứa trong mình những hạt giống của những tín ngưỡng tôn giáo chính thực, những hạt giống ấy đã mau chóng đâm chồi nảy lộc. Người Trung Quốc đã tìm thấy ở đạo Phật một tôn giáo chính thực có nội dung huyền bí phong phú hơn, đồng thời lại lý tưởng hơn và hữu luân hữu đức hơn Khổng giáo và Đạo giáo. Trong đạo Phật Trung Quốc ngày nay ta thấy được đặc biệt phát triển niềm tin vào mấy sinh linh thần thánh cá thể thuộc cả hai giới (họ là những biến tướng của Phật, với sự sao lãng ý tưởng nguyên thủy) và vào thế giới bên kia với địa ngục, luyện ngục và thiên đường, mỗi xứ có vô số phân nhánh. Giới tăng lữ Phật giáo được tôn trọng hơn những tu sĩ Đạo giáo. Nguyên tắc khổ hạnh tinh thần và tình thương đối với mọi chúng sinh mà họ rao giảng (mặc dù trong thực tế ít được thực hiện), có thể phần nào đã làm giảm bớt những khuyết điểm chính của tính cách dân tộc Trung Hoa: chủ nghĩa duy vật thực tiễn và tính nhẫn tâm.
Kỳ sau: IX .Sự “Trung Quốc hoá” Đạo giáo và Khổng giáo - Mâu thuẫn nội tại trong lý tưởng Trung Hoa: nó không thể thực hiện được chân lý của mình - Sứ mệnh chân chính của châu Âu ở Viễn Đông
Phạm Vĩnh Cư dịch
* Xem Plath, Der Cultus der alten Chinesen. Munchen, 1863, tr.112-113 .
* Nhật Bản cũng giữ được nền tự chủ dân tộc và chính trị của mình; nhưng thứ nhất, văn hoá Nhật Bản trẻ hơn văn hoá Trung Quốc và phát triển dưới sự tác động của nó; thứ hai, vị trí địa lý của quốc đảo này là lá chắn bên ngoài cho nó. Vả lại, hình như bản thân người Nhật cũng không đánh giá quá cao những đặc điểm của văn hoá của mình, nếu căn cứ vào sự vội vã mà họ biểu hiện trong việc vay mượn không chỉ mặt kỹ nghệ của văn minh châu Âu, mà cả những nguyên tắc sống của nó.
* Người ta nói: không thể phán xét theo bản dịch. Tuy nhiên những phẩm giá cơ bản của Homère và Shakespeare được bảo toàn cả trong các bản dịch. Không cần biết tiếng Do Thái để cảm nhận được cái đẹp của Kinh Thánh hoặc biết tếng Phạn để hiểu dược tư tưởng uyên thâm của các triết gia ấn Độ và nét duyên dáng quyến rũ của thơ ca ấn.
* Tripitaka (nghĩa đen - “ba giỏ”) là ba phần của kinh điển Phật giáo. Phần thứ nhất - các sutra (thuyết giảng) - là kinh Phúc âm của đạo Phật, bao gồm những truyền thuyết về cuộc đời của Thích Ca Mầu Ni và những bài giảng truyền đạo của ông. Phần thứ hai - vinâya (luật) chứa đựng những điều lệ của giáo hội Phật giáo nguyên thủy; phần thứ ba - abhidharma (luận) trình bày siêu hình học Phật giáo.
*Sự hoá kiếp vào các thân thể trần gian tuyệt không phải là hình thức duy nhất của sự bất tử, theo thế giới quan ấn Độ cả trong đạo Bà La Môn lẫn trong đạo Phật.