Song với tư cách một thành viên của dân tộc Trung Hoa, một bộ phận của cái tổng thể tôn giáo-chính trị lớn ấy, người Trung Quốc nào cũng tuyên xưng tôn giáo chính thống của nhà nước và nghiêm chỉnh thực hiện những nghĩa vụ lễ thức của nó. Giới tăng lữ Đạo giáo và Phật giáo chỉ là những hiệp đoàn tư nhân được nhà nước công nhận nhưng không có quyền hành gì đối với dân chúng. ở Trung Quốc không có những cộng đồng hay là hội thánh Đạo giáo và Phật giáo. Mọi người Trung Quốc, dù tín ngưỡng cá nhân của họ có là thế nào đi nữa, đều thuộc về một cộng đồng vĩ đại và chỉ thừa nhận bên trên mình một quyền lực tối cao - quyền lực của Thiên Tử, kết hợp khăng khít ở trong mình cả quyền chuyên chế tôn giáo lẫn thế tục*.
Chính phủ Trung Quốc đã tỏ ra sáng suốt đến mức, ý thức được rằng một tôn giáo của nhà nước không thoả mãn được tất cả các nhu cầu tôn giáo chủ quan của các thần dân của mình, nó không những đã cho phép Đạo giáo và Phật giáo tồn tại không gặp trở ngại gì ở Trung Quốc mà còn dành cho chúng sự chuẩn nhận cao nhất: Thiên Tử, là chủ tế tối cao của “bách thần”, đồng thời bằng những cúng tế công khai trong các thánh đường của Đạo giáo và Phật giáo thừa nhận mình thuộc về cả hai tôn giáo ấy. Vì vậy những định chế của nhà nước đối với việc tế tự của Đạo giáo và Phật giáo không có sức cám dỗ gì ngay cả đối với những tín đồ cuồng nhiệt nhất của hai đạo ấy. Nhờ sự định chế thường hằng ấy của nhà nước, và cũng nhờ sự cùng tồn tại nhiều thế kỷ trong một tộc người với tính cách dân tộc xác định như thế, ba tôn giáo Trung Hoa ấy đã xích lại rất gần nhau và trong nhiều điểm đã hoà đồng làm một. ở Trung Quốc đã trở thành ngạn ngữ câu: tam giáo đồng nguyên, tức là ba đạo là một**. Chỉ những nhà nho uyên bác mới hiểu được sự khác biệt quan trọng giữa ba đạo, và họ trong những trước thuật của mình vẫn tiếp tục tranh luận gay gắt với Đạo giáo và Phật giáo như là những mê tín dị đoan ngoại lai và không cần thiết, phá vỡ thể thuần phác tỉnh táo và tính thống nhất hình thức của tôn giáo nhà nước.
Vô luận thế nào đi nữa thì sự phát triển của Đạo giáo và Phật giáo ở Trung Quốc, mặc dù nó chứng tỏ về sự tồn tại trong nhân dân Trung Quốc những tình cảm tôn giáo không được thoả mãn bởi lễ tiết nhà nước, tuy vậy vẫn không phải là một sự tiến bộ nào cả trong nội bộ thể chế đời sống chung của Trung Hoa, thể chế này sẵn sàng thu nạp vào mình mọi tín ngưỡng đơn lẻ, chỉ với điều kiện chúng không đụng chạm đến nguyên tắc cơ bản của nó, không xâm hại đến lý tưởng cổ truyền toàn Trung Hoa về chế độ thần quyền gia trưởng quốc gia-dân tộc, bất động và bất biến như cái quá khứ, mà cả dân tộc Trung Hoa tin tưởng sắt đá chỉ vào một mình nó.
Đánh giá lý tưởng Trung Hoa về bản chất, chúng ta nhận thấy nó có tính chân lý ở điểm xuất phát của nó, cụ thể là ở sự thừa nhận những quyền của quá khứ (hay nói cụ thể hơn - của tổ tiên) đối với hiện tại (đối với chúng ta), ở sự thừa nhận nghĩa vụ của chúng ta phải thờ phụng tổ tiên, phải khẳng định và củng cố trong mình sự gắn bó với họ. Nhưng tình yêu đối với tổ tiên, cũng như mọi thứ tình yêu, chịu sự chi phối của một quy luật. Quy luật của tình yêu đòi hỏi chúng ta làm những điều tốt lành cho đối tượng mến yêu. Thế thì chúng ta có thể làm cái gì tốt lành cho tổ tiên, có thể phụng sự họ một cách hữu ích bằng cái gì? Trong trạng thái ấu thơ tinh thần, con người trả lời rất đơn giản câu hỏi ấy: người ta cho tổ tiên ăn uống, cố gắng tạo cho họ khả năng tiếp tục cuộc sống vật chất như trước đây ở thế giới bên kia. Nhưng với sự phát triển của ý thức tôn giáo, một quan hệ đơn giản như thế trở nên không thể có được nữa. Xuất hiện sự hồ nghi về cái phúc của sự tồn tại thuần tuý vật chất, xuất hiện câu hỏi về sự sống chân chính. Tổ tiên chúng ta chưa có sự sống chân chính - điều này là rõ chỉ từ một việc là họ đã chết; bởi vì sự sống chân chính phải là vĩnh hằng, phải tự mang trong mình sức mạnh cho sự tiếp tục bất tận, chứ không phải định mệnh của sự chấm dứt tất yếu. Thế thì việc gì chúng ta phải cố gắng đem lại cho vong linh của tổ tiên cái vẻ nhân tạo của cuộc sống trần gian, khi mà ngay cả cuộc sống trần gian thực thụ và đầy đủ cũng chưa mang trong mình chân lý và không thể được công nhận là cuộc sống xứng đáng? Ngay cả giả sử nếu vẫn còn lại niềm tin rằng quả thật có thể duy trì cuộc sống của tổ tiên ở thế giới bên kia bằng sự cúng tế vật chất thì dẫu sao vẫn phải thừa nhận rằng một cái đó là không đủ cho sự đích thực phụng sự tổ tiên, cho sự dẫn truyền cho họ cái phúc chân chính của sự sống. Cũng đúng như thế, mặc dù sự gắn bó tự nhiên với tổ tiên khiến bảo ta giữ nguyên cái trật tự đời sống như lúc họ còn sống, nhưng rõ ràng cả cái đó cũng chưa đủ để có thể làm tròn bổn phận của chúng ta. Có lợi ích gì cho tổ tiên ở việc chúng ta cũng sống và chết như họ đã sống và đã chết? Cái trật tự đời sống, cái chế độ xã hội mà đã không cứu sống được họ khi họ còn sống, nó có thể cứu sống họ không sau khi họ đã chết? Mà vấn đề chính là ở sự cứu sống họ, đem lại cho họ sự sống chân chính mà họ chưa có được và chúng ta cũng không thể nào có được, nếu cứ lặp lại y nguyên cái cuộc sống không chân chính và vì thế mà đã chết của họ.
Không ở trong quá khứ và cũng không ở trong hiện tại, sự sống chân chính đứng trước chúng ta như là tương lai, như là nhiệm vụ, mà chúng ta phải gắng sức giải quyết. Bởi vì tương lai ấy không thể tự đến với chúng ta mà không cần đến ta - nếu thế thì không có lý do, vì sao nó đã không đến từ lâu rồi, - tương lai ấy phải được thu hoạch với sự hoạt động nỗ lực của bản thân loài người. Nếu sự gắn bó với quá khứ, sự thờ phụng tổ tiên là chân lý của thế giới quan Trung Hoa, thì chân lý ấy chỉ đạt được sự phát triển đầy đủ trong ý tưởng Kitô giáo, ý tưởng châu Âu về sự tiến bộ toàn thế giới như là con đường đạt tới sự sống chân chính. Nếu chúng ta quả thật gắn bó với quá khứ, nếu chúng ta yêu sâu sắc tổ tiên của chúng ta, thì chúng ta phải cố gắng không gìn giữ bất biến những hình thức cũ của cuộc sống, mà với chúng những gì chúng ta yêu quý đã tiêu vong, mà ngược lại, hoàn thiện không ngừng cuộc sống của chúng ta, cho đến khi chúng ta đạt được thể viên mãn của sinh tồn, mà nó sẽ kết hợp tất cả ở trong mình và sẽ phục sinh quá khứ cho sự sống thực sự vĩnh hằng và bất biến.*
Chúng ta, những người châu Âu, phải khuyến nghị cho người Trung Quốc không phải sự phủ định, mà sự hoàn tất nguyên lý sống của họ. Sự tiến bộ không biết mệt mỏi như là phương tiện hữu hiệu để phụng sự tổ tiên, sự không ngừng tiến tới tương lai lý tưởng như là con đường chân chính để phục sinh quá khứ - đó là sự hoà giải thực sự, nội tại của hai nền văn hoá đối cực. Nhưng để cho chúng ta có thể đến với thế giới đa thần giáo Viễn Đông với tin mừng về sự thực hiện những ý nguyện tha thiết của nó, giống như xưa kia những người đầu tiên truyền giảng đạo Kitô đã đến với thế giới đa thần Hy Lạp-La Mã, bản thân chúng ta cần phải trung thành với chân lý vẹn toàn mà đạo Kitô đã khai ngộ cho chúng ta. Trong trường hợp ngược lại Trung Quốc sẽ không phải là một thu hoạch, mà là một nguy cơ hãi hùng cho chúng ta - hệt như phương Đông Hồi giáo đã là một nguy cơ như thế đối với châu Âu trung cổ.
X
Tư tưởng sai trái về tiến bộ và đạo Trung Hoa sai trái ở châu Âu - Kết luận
Sự đối lập giữa hai nền văn hoá - Trung Hoa và châu Âu - thực ra có thể quy về sự đối lập giữa hai tư tưởng chung: trật tự, từ một phía, và tiến bộ từ phía khác. Xét từ quan điểm trật tự, quan trọng hơn hết là sự vững bền của các quan hệ xã hội, tư tưởng tiến bộ thì đòi hỏi sự hoàn hảo lý tưởng của các quan hệ ấy. Trật tự bền vững là trạng thái được bảo trì bằng sức mạnh của quá khứ, sự hoàn thiện tiến bộ là hoạt động được quyết định bởi lý tưởng tương lai. Trung Quốc đã đạt được một trật tự bền vững - điều này là không thể hồ nghi, song sự tiến bộ của châu Âu có thể dẫn đưa ở mức độ nào đến thể hoàn hảo xã hội - đó còn là một câu hỏi.
Sự tiến bộ chân chính không thể chỉ mang tính phê phán và phá hoại, không thể chỉ là cái đối lập với trật tự; tiến bộ chân chính là tiến bộ của trật tự.
Từ thế kỷ trước ở châu Âu được quảng bá một quan niệm về tiến bộ như là cái được kiến tạo trên thái độ phủ định vô điều kiện đối với quá khứ, đối với trật tự truyền thống. Quan niệm ấy không chỉ xa rời chân lý, mà ở nó bị trực tiếp xoá bỏ những dấu hiệu cơ bản của chính tư tưởng về sự phát triển đi lên, hay là tiến bộ. Tư tưởng ấy tất yếu đòi hỏi tính thống nhất hệ trọng và hữu thức của cái đang phát triển hay đang tiến bộ, tức là trước hết sự cấu kết nội tại và hữu thực giữa các thế hệ cũ và mới của một loài người tiến bộ. Nếu chân lý mới không có những cội rễ sâu xa trong quá khứ, nếu chúng ta phải bắt đầu công việc của ngày hôm nay chỉ bằng sự phá hủy đơn thuần cái đã có, thì tất nhiên, chân lý mới của chúng ta sẽ nhanh chóng bị vứt bỏ như là một chân lý cũ kỹ và việc làm hôm nay của chúng ta ngày mai sẽ bị bãi bỏ như là cái hoàn toàn vô ích. Cắt đứt quan hệ với quá khứ, chối bỏ mối kết đoàn chân chính với tổ tiên, chúng ta chuyển giao cho hậu thế quyền cắt đứt quan hệ với sự nghiệp của chúng ta, chối bỏ tình đoàn kết với chúng ta. Mà trong trường hợp ấy thì sự tiến bộ hư ảo của nhân loại sẽ
không những đánh mất chỗ dựa quan trọng trong thực tế, mà còn để mất đi hoàn toàn mọi lý tưởng xác định về tương lai. Nếu điểm xuất phát của quá trình lịch sử là sai lầm và vô nghĩa, thì đích của quá trình ấy hoá ra là cái bất khả tri tuyệt đối, có thể lại cũng là sai lầm và vô nghĩa, mà nếu thế thì động cơ lý tưởng nào có thể quyết định hoạt động của chúng ta? Không phải tôi phản bác tư tưởng sai trái về tiến bộ, đẩy nó đến sự phi lý; không, cái phi lý ấy được trực tiếp khẳng định bởi chính những đại diện của tư tưởng ấy, họ lớn tiếng tuyên cáo tính tương đối của chân lý, do tính tương đối ấy mà cái hôm nay được công nhận là chân lý ngày mai sẽ trở thành sự sai lầm và sẽ được thay thế bằng một chân lý hư ảo mà đến lượt mình sẽ lại hoá ra là sai lầm, và cứ thế cho đến bất tận. Nhưng vì sao sự chuyển giao những sai lầm như thế, mà cái nào cũng hoá ra không xấu hơn và không tốt hơn cái khác - vì sao “sự bất tận tồi tệ” như thế lại được gọi là sự phát triển hay sự tiến bộ?
Sự phá sản lý thuyết của cái tư tưởng sai trái ấy về tiến bộ là rõ ràng đối với tư tưởng triết học. Những hậu quả thực tiễn của sự phá sản ấy, được bộc lộ trong cuộc cách mạng Pháp và trong chủ nghĩa cấp tiến thẳng đuột một chiều mà nó để lại đã làm hoảng sợ một bộ phận của xã hội châu Âu. Nhưng trào lưu phản động ở châu Âu, đối mặt với tư tưởng sai trái về một sự tiến bộ hỗn loạn và vô nghĩa, đã không biết đặt đối lập với nó tư tưởng về sự tiến bộ chân chính theo tinh thần Kitô giáo - tư tưởng về một sự tiến bộ mang trong mình cả những nguyên tắc chính diện của trật tự, tư tưởng về một thể chế đời sống vừa có những cội rễ sâu xa và hiện thực trong thổ nhưỡng lịch sử vừa có cái ngọn vươn tới trời cao - tóm lại, thay vì tìm kiếm chân lý vẹn toàn của đạo Kitô, trào lưu phản động, tự mình không nhận ra điều ấy, bắt đầu tìm kiếm cho châu Âu một lối thoát trong những nguyên tắc của đạo Trung Hoa, trong sự sùng bái tuyệt đối quá khứ, trong sự chỉ biết lo lắng gìn giữ cái trật tự cổ truyền đã bị đào khoét từ tứ phía, với những hình thức ngẫu nhiên của nó đã mất đi mọi sức mạnh nội tại. Sự Trung Quốc hoá châu Âu, dù vô tình hay hữu ý, đều không thể thắng lợi, nhưng nó có thể rất nguy hại. Những hậu quả nguy hại ấy đã bắt đầu bộc lộ. Vì một quan điểm thuần tuý Trung Hoa là cần phải yêu chỉ cái của mình, quý chỉ cái của mình, người ta đã bắt đầu phủ định lý tưởng toàn thế giới của đạo Kitô, xem nó là một không tưởng nhàn tản. Vì một chủ nghĩa duy vật thực tiễn và một óc sùng bái sức mạnh thực tại thuần tuý theo tinh thần Trung Hoa người ta trực tiếp bác bỏ những tư tưởng Kitô giáo về công lý và tình yêu phổ quát đối với toàn nhân loại. Cả hai tư tưởng cực đoan ấy bình đẳng với nhau cả về tính bất chính lý thuyết cũng như về tính nguy hiểm thực tiễn của chúng. Cả tư tưởng này lẫn tư tưởng kia đều tước đi như nhau của chúng ta sức mạnh nội tại trong cuộc đụng độ trong tương lai giữa hai thế giới văn hoá - châu Âu và Trung Quốc.
Nếu trong thế giới châu Âu tư tưởng sai trái về sự tiến bộ phá phách sẽ ưu thắng thì chúng ta sẽ chỉ biết đặt đối lập với sức mạnh thống nhất, bền vững và tự tin của Trung Quốc một khối hỗn mang của những chí hướng chủ quan và những lợi ích vị kỷ phân tán, không có đức tin và lý tưởng. Sẽ không tốt hơn cả trong trường hợp nếu lý tưởng Trung Hoa chiếm ưu thế ở chính chúng ta. Thứ nhất, lý tưởng ấy sẽ không thể thắng lợi hoàn toàn, vô luận thế nào đi nữa thì chúng ta vẫn sẽ không thể trở thành những người Tàu về tinh thần, và một sự lưỡng phân mới sẽ chỉ được thêm vào cho những bất hoà đương có. Và thứ hai, thậm chí nếu giả dụ điều ấy là hữu khả, thì kết quả sẽ còn tồi tệ hơn nữa. Lý tưởng Trung Hoa đối với người Hoa là nguyên tắc của sức mạnh, đối với chúng ta nó sẽ là khởi nguyên của sự suy nhược và lụy tàn. Sự hấp thụ lý tưởng ấy đối với chúng ta sẽ là sự tự phủ định theo nghĩa tồi tệ của từ ấy, tức là sự chối từ cái tốt đẹp của mình - chối từ đạo Kitô. Nhưng một sự chối từ như thế sẽ ngang bằng với sự đánh mất hoàn toàn ngay cái tồn tại lịch sử của chúng ta. Bởi vì trong đạo Kitô hàm chứa không chỉ lý tưởng tương lai của chúng ta, mà cả những cội rễ tinh thần của quá khứ của chúng ta - đó là tín ngưỡng của tổ tiên chúng ta. Hấp thụ lý tưởng đa thần giáo, chối bỏ đạo Kitô hoàn vũ, chúng ta trước hết hoá ra bất kính đối với tổ tiên chúng ta, tức là phản bội chân lý vẹn toàn của đạo Kitô, chúng ta sẽ không giữ được ngay cả một phần chân lý - cái phần làm nên sức mạnh của thế giới đa thần giáo Trung Hoa. Chủ nghĩa bảo thủ sai trái của chúng ta cũng sẽ tan vỡ bởi mâu thuẫn nội tại, như là chủ nghĩa tiến bộ sai trái. Trước cả hai chủ nghĩa ấy, người Trung Quốc sẽ hoá ra không chỉ mạnh hơn, mà còn có lẽ phải hơn chúng ta. Họ trung thành với chính mình. Nếu chúng ta, thế giới Kitô giáo châu Âu, cũng sẽ trung thành với chính mình, tức là trung thành với đạo Kitô toàn thế giới, thì Trung Quốc sẽ không đáng sợ đối với chúng ta, chúng ta sẽ chinh phục được cả Viễn Đông không bằng sức mạnh của vũ khí, mà bằng sức mạnh của lực hấp dẫn tinh thần là thuộc tính của chân lý toàn vẹn, chân lý ấy đã và đang tác động đến những linh hồn con người, bất cứ họ thuộc về dân tộc nào.
1890
Phạm Vĩnh Cư dịch
** Plath, Der Cultus der alten Chinesen, 125-126. Nếu nói về đối tượng thờ bái, thì quả là không phải lúc nào cũng có thể phân biệt rõ ràng giữa một phía là “bách thần” của tôn giáo Trung Hoa chung, và phía khác là các thần của Đạo giáo và Phật giáo đã biến chất.
* ý tưởng về sự sống chân chính không xa lạ với đạo Phật (hậu kỳ) và thậm chí với Đạo giáo. Nhưng sự sống chân chính được những hậu duệ tinh thần của Phật và Lão Tử quan niệm như là trạng thái của những linh hồn đơn lẻ được giác ngộ, chứ không phải như một nhiệm vụ tập thể của toàn nhân loại; tư tưởng về tiến trình thế giới và Vương quốc của Chúa Trời chúng ta chỉ tìm thấy trên “thổ nhưỡng” của đạo Do Thái và đạo Kitô.
* Người đứng đầu đạo Phật Tây Tạng, gọi là Đại Lai Lạt Ma, không có quyền lực được thừa nhận chính thức đối với giới tăng lữ Phật giáo trong nội địa Trung Quốc; còn ảnh hưởng tinh thần không chính thức của hàng giáo phẩm Tây Tạng thì bị kiểm soát kép bởi chính quyền Trung Quốc, chính quyền này vừa điều hành những công việc của đạo Phật ở trong nước mình, vừa giám sát chính vị giáo chủ ở Tây Tạng, ông này phải chịu sự bảo hộ thế tục của hoàng đế Trung Hoa .