“Dựa theo một số bài hát giặm còn sót lại, tạm có bằng chứng cho rằng giặm đã tồn tại từ thế kỷ XVIII… nhưng lại dựa theo nhạc điệu thì có thể ngờ rằng giặm bắt nguồn từ một loại động tác lao động nào đó xuất hiện từ xa xưa… có liên quan đến cách phát âm của xứ Nghệ. Ngoài ra giặm có thể liên quan đến một vài điệu hát nào đó của đồng bào thiểu số vốn có sự giao lưu văn hoá với người Kinh xứ Nghệ xưa…” (Địa chí văn hoá dân gian Nghệ Tĩnh - Nxb Nghệ An, 1005). Như vậy là nguồn gốc, thời gian ra đời, đến ngữ nghĩa của chữ “Giặm” vẫn chưa rõ ràng.
Về thể văn, bài (hoặc khổ) giặm cơ bản có 5 câu, mỗi câu 5 chữ gieo vần chân: câu 1 vần trắc, câu 2 và câu 3 vần bằng, câu 4 vần trắc và câu 5 (câu láy lại, điệp) cùng vần trắc: “Ai khun (khôn) bằng Từ Hải/ Cũng mắc dại Thuý Kiều/ Nghe lời nói mà xiêu/ Về thu binh cuốn giáo/ Hạ cột cờ cuốn giáo”.
Cũng có khi mỗi câu chỉ có 4 chữ hoặc dài tới 6, 7, 8 chữ và một bài (hoặc khổ) giặm có thể kéo dài hàng chục câu bằng cách tăng thêm câu vần bằng. Những tay đặt chuyện giỏi thì không bị gò bó về câu, vần mà biến hoá rất sinh động: …Về chợ Hại tui (tôi) quen cụ Đình/ Vô (vào) Lạc Thiện tui (tôi) quen cậu Ấm Ninh/ Quen ông Tám Ca Lai Thạch (chuyển vần trắc)/ Quen ông Bát Trạch ở Giang Đình (trở lại vần bằng)/ Quen ông Ký Bưởi ngoài Vinh…
Một bài hát giặm dài thường gồm nhiều khổ, có khi tới mấy chục khổ nối tiếp nhau. Để làm liền mạch, câu đầu khổ sau phải hiệp vần với câu cuối khổ trước. Loại này thường mở đầu và kết thúc bằng hai câu 6-8, hoặc chỉ bằng một câu 6.
Có loại bài giặm nhất thiết phải “sáng tác ứng khẩu” tại chỗ như bài hát đối đáp, đối thoại hay bài trình diễn trước đông người bằng độc xướng hoặc hoà thanh để cùng chung vui khi chúc mừng, ca tụng, kể chuyện hay cổ động một việc mang tính thời sự. Người ta kiêng hát lại những bài cũ (vả lại cũng khó có bài thích hợp với hoàn cảnh lúc hát). Đó là nguyên tắc đối với những tay hát giặm cừ khôi. Do vậy, nghệ nhân hát giặm ngày trước đều phải giỏi sáng tác. Lớp tác giả này đều là nông dân, thợ thủ công, dân buôn bộ, chứ không có nhà nho tham gia.
Với loại bài giặm dài hơi kể một câu chuyện hoặc diễn đạt một tâm trạng (thường gọi “giặm vè” hay “vè giặm”) thì người sáng tác phải chuẩn bị chu đáo, sắp xếp kết cấu, trau chuốt văn chương… để kể được hay, bày tỏ được ý kiến, tình cảm. Những bài hát này tuy vẫn truyền miệng nhưng có một số là tác phẩm định hình, có giá trị bền vững. Một ít bài như “Chúc thọ vua Tự Đức”, “Ký sương phụ từ”… đã vượt khỏi phạm trù sáng tác dân gian. Tác giả những bài hát giặm, “vè giặm” ấy phần lớn là dân thường, nhưng một bộ phận là nhà nho, nhà khoa bảng như các cụ Tú Ngung, Đầu phu Cam, Đầu huyện Thân, Giải Huân, Nghè Kế...
Âm nhạc của hát giặm cũng như “âm nhạc dân ca xứ Nghệ nói chung còn mộc mạc, chưa có kết cấu hoàn chỉnh, dựa vào lời theo các thể thơ, trên cơ sở dấu giọng để biến thành giai điệu” (Hoàng Tạo - Từ dân ca đến kịch hát); “khoảng cách giữa hát và nói không xa bao nhiêu” (Lê Ngọc Cầu - sách trên).
Điệu hát giặm nghe không mềm mại, du dương, uyển chuyển như hát ví, mà đều đều, trầm trầm, là sản phẩm của một vùng đất xa nơi đô hội, không có sông lớn thuyền to… như ở nam Hà Tĩnh. Tuỳ theo môi trường diễn xướng và thói quen cảm thụ của từng vùng mà làn điệu, tiết tấu hát giặm có ít nhiều khác biệt, nhưng vẫn không xa bao nhiêu. Do sự khác nhau đó mà các nhà sưu tầm, nghiên cứu âm nhạc thường gọi theo nhiều tên riêng biệt: giặm nói, giặm kể, giặm ru, giặm cửa quyền (?)…; có người lại gọi tên theo môi trường diễn xướng: giặm đò đưa, giặm trèo non, giặm đường trường…
Giặm được trình diễn trong nhiều môi trường khác nhau, dưới nhiều hình thức: Người hát giặm khi lao động, trong sinh hoạt thường ngày; Có khi mọi người cùng hát đồng thanh như phường đi củi Phù Minh (Can Lộc) có tục lệ khi trên núi xuống, tập trung một nơi để nghỉ ngơi, rồi gái trai cùng nhau cất gánh lên vai, bắt đầu hát đồng thanh trên đường về cho đến xóm, đại loại như: “Động Can Mai thì dốc/ Động Trộ Đó thì dài/ Ra đến động Hai Vai/ Thậm chừng chi là khỏe/ Chi thậm chừng là khoẻ…”. Có khi một người độc xướng một bài bày tỏ niềm riêng với bạn, cũng là với chính mình, như chàng trai phường gặt trước lúc từ giã bạn gái cất lên khúc hát: “Rơm cũng đã rã rồi/ Tooc (rạ) cũng đã rã rồi/ Mự (mợ) rẽ về một nơi/ Tui (tôi) rẽ về một nơi/ Mai đàng (đường) sá xa xôi/ Tui về không gặp mự…”. Có khi hai người bạn gặp nhau, cùng hát đối đáp để mua vui, hoặc để trao đổi ý kiến, tình cảm; có khi một nghệ nhân hoặc phường hát đến nơi xa lạ, gặp dịp tết nhất, tế lễ thì ngẫu hứng hát mừng, hát chúc; lại có khi, đêm vắng, con thuyền xuôi dòng sông, người chèo thuyền độc diễn bài hát giặm tự sự hoặc trữ tình (Phụ tử hình thâm, Mẹ dòng, Tình ca 24 tiết… hay một bài hát có nội dung yêu nước…) - đó là “giặm đò đưa”.
Các bà mẹ thường hát ru con bằng những bài vè giặm và các nghệ nhân hát xẩm cũng trình diễn nhiều bài giặm. Người ta gọi đây là “giặm ru”, “giặm xẩm”(?).
Nhưng trong buổi đầu, hát giặm chủ yếu là hát giao duyên, đối đáp nam nữ. Trong bài phú “Trung Lễ thất hoả” của Lê Trọng Dôn viết năm 1885 có câu: “Ngoài đường thì người dạo từng đoàn, đoàn họp làng, đoàn hát giặm…” cho thấy lúc này, việc hát đối đáp nam nữ đang thịnh hành.
Cuộc hát thường do trai gái trong làng (hoặc trai các làng lân cận) đến hát với nhau. Mỗi “phe” hát thường có ba đến năm, bảy người, trong đó nhất thiết phải có người sáng tác giỏi. Người này ứng khẩu hát và những người khác “hát cặp” theo sát lời, sát giọng. Nội dung buổi hát là cuộc đối đáp, thi tài giữa hai phe nam nữ, nhưng cuối cùng bao giờ cũng là cuộc “tỏ tình”. Khác với hát ví, những bài hát giặm đối đáp không chỉ năm, bảy câu, mà có thể mấy chục câu, cá biệt có nghệ nhân ứng tác - hát hàng trăm câu. Vì vậy, có người cho đây là “tỏ tình bằng văn xuôi”. Hát giặm đối đáp thực chất là cuộc biểu diễn thi tài, chủ yếu giữa các nghệ nhân cầm đầu, còn những đối đáp nam nữ chỉ còn thấy ở Thạch Hà, Cẩm Xuyên (Hà Tĩnh)…
2. Hát ví
Hát ví cũng là “đặc sản” của dân ca Nghệ - Tĩnh. Đây là lối hát hoa tình, giao duyên nam nữ rất phổ biến ở Hà Tĩnh vào cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX; theo một số sách và bài viết thì từ đầu thế kỷ XVIII, ví đã thịnh hành.
Lời hát ví chỉ là câu văn lục bát hay lục bát biến thể. Khác với giặm, điệu hát ví bay bổng, ngân vang, nhất là khi hát trên sông nước… Tùy theo môi trường diễn xướng mà nhạc điệu của ví có những thay đổi trên cơ sở điệu cơ bản, nên các nhà nghiên cứu âm nhạc thường gọi tên khác nhau: ví đò đưa, ví phường cấy, phường nón, phường buôn, phường vải, ví trèo non (phường đi củi, đi cỏ…)...
Có thể nghĩ rằng, ví là điệu hát của vùng sông nước, sinh ra trước tiên từ vùng sông nước Lam, sông La… Giọng hát đò đưa trong trẻo, nghe man mác, xao xuyến lòng người, nhất là hát trong đêm khuya… Lời hát lại rất trữ tình, chải chuốt mà tự nhiên, đặc biệt là không có từ Hán - Việt, ngoài những từ “loan, phượng”: Gió mô (đâu) gió thổi sau lưng/ Dạ mô dạ nhớ người dưng thế này?/ Bóng trăng em tưởng bóng đèn/ Bóng cơn (cây) em tưởng bóng thuyền anh xuôi/ Nước lê lấp xỉ cầu dày/ Anh thương em chưa trọn một ngày, ghe lui hay nước chảy cho bè anh trôi/ Ai bắt bè anh lại kết nên đôi vợ chồng…
Người chèo thuyền, người chở bè buông tiếng hát ra giữa khoảng mênh mông trời nước, chỉ có mình hát cho mình thưởng thức, mình hát để trải tình cảm của mình trước thiên nhiên. Và thiên nhiên như người bạn lòng đáp lại cảm hứng của nghệ sĩ dân gian bằng tiếng dội của núi non, sông nước. Khi nào đó, gặp một thuyền bạn ngang qua, thì từ con thuyền ấy sẽ có lời đáp lại, chỉ đôi ba câu hát, đôi ba câu trao đổi đủ để tỏ mối đồng cảm, rồi hai thuyền lại xa nhau. Rồi có những con thuyền cùng xuôi, cố ý chèo gần nhau, hoặc cặp lại bên nhau mà hát… Hoặc nữa, có người từ trên bờ “hát vọi” ra, đáp lại tiếng hát giữa dòng sông… Từ đó có ví đối đáp.
Ví phường buôn hộ, phường củi, phường cỏ, phường cấy… đều là ví đối đáp nam nữ khi đi đường, khi lao động ngoài trời, khoáng đãng, đậm chất trữ tình:
Một ngày hai trận trèo non/ Lấy chi mà đẹp, mà giòn hỡi anh?.../ Một ngày hai bận cơm đèn/ Lấy gì má phấn răng đen hỡi chàng?/ Đưa anh ra tận cầu Dằng/ Tình so Ngàn Hống, ngãi bằng rào Rum…
Ví phường nón, phường vàng, phường vải cũng là ví giao duyên nam nữ khi làm việc trong nhà. Đặc biệt, ví phường vải được tổ chức quy củ, chặt chẽ nhất. Khi phường hát con trai đến thì phải đứng ngoài ngõ nhà có con gái tập trung kéo sợi, dệt vải, hát “đánh tiếng” rằng mình đã đến: Chốn này vui vẻ tưng bừng/ Tay nghe tiếng phượng xa chừng tới nơi/ Đi qua trước cửa vườn đào/ Chộ (thấy) hoa thiên lý muốn vào hát chơi… Một lúc sau, phe nữa mới hát đáp lại: Dừng xa, khoan kéo ơ phường/ Hình như có khách viễn phương tới nhà…
Thế là hai phe bắt đầu “hát dạo”, đến khi hát đã “say” thì “hát chào - hát mừng” rồi “hát hỏi”. Đây mới là chặng đầu. Chặng thứ hai “hát đố - hát đối” mới là chặng quyết liệt nhất, kéo dài nhất. Hai bên ví hỏi, đáp đủ chuyện “trên trời dưới đất”, chuyện chữ nghĩa, văn chương… có khi nhiều đêm chưa dứt. Đây là cuộc “sát hạch” khắt khe kiến thức của nhau, nhưng qua được chặng này thì hai bên đã trở thành thân thiết. Lúc đó bên nữ mới “hát mời”: “Bạn đến mời bạn vô nhà/ Chè tàu xin rót, rượu trà xin dâng”. “Hát mới” là phần mở đầu chặng thứ ba “Hát xe kết”, tỏ tình… Cuối cùng là phần “hát tiễn”: “Anh về nước mắt dòng dòng/ Thấu thiên, thấu địa, thấu lòng em chưa!...”; “Ra về chín nhớ mười thương/ Bước chân lên ngựa, cầm cương dùng dằng”…
Không như hát giặm và các loại ví lao động khác, ví phường vải có các nhà nho, kể cả các nhà khoa bảng tham gia. Không chỉ bên trai, bên gái cũng mời thầy nho, ông tú hay ít ra cũng mời một người già giỏi sáng tác, có kinh nghiệm để “gà” chuyện. Những người này phải giấu không cho đối phương biết mình là ai, thường trùm khăn, áo lên đầu, nên gọi là “ông trùm đầu”. “Văn tế hai cô gái Tràng Lưu” có câu: “Léo lên giường thì quan họ năm bảy ông…/ lại có ông đắp áo trùm đầu…”. Do đó, lời hát ví phường vải, nhất là phần hát đố - hát đối ít chất trữ tình mà giàu chất trí tuệ, dùng nhiều chữ nghĩa, điển tích:
Đố:
- Sách Hán vương chường (chàng) học lâu nay,
Hỏi ai câu sông Vị, ai cày Lạch (Lịch) sơn?
- Sách Hán vương anh xin nói nường (nàng) hay,
Ông Lữ câu sông Vị, vua Thuấn cày Lạch (Lịch) sơn.
Đối:
- Nhớ anh “nhất nhật” đã suốt “một ngày”
“Đêm” còn tơ tưởng “dạ”, lòng rày nhớ trông.
- Chờ em “nửa tháng” ni rồi,
Ôm đờn “bán nguyệt” dựa ngồi cung “trăng” ...
Theo giai thoại thì từ thế kỷ XVIII ở Hà Tĩnh đã có nhiều làng hát phường vải, tiêu biểu là làng hát Tràng Lưu. Chính từ đây đã xuất hiện bài “Thác lời người con gái phường vải…” (của Nguyễn Huy Quýnh) và các bài “Thác lời người con trai phường nón”, “Văn tế sống hai cô gái Tràng Lưu” (của Nguyễn Du).
Đáng chú ý là ở Hà Tĩnh, nhất là ở vùng Cẩm Xuyên, Kỳ Anh, khi hát ví, người ta thường xen vào một đoạn hát giặm để phù hợp với tâm trạng nghệ nhân và cũng làm cho cuộc hát sinh động hơn. O Nhẫn ở Nam Du là người giỏi vận dụng cách này./.