Trong một cuốn sách viết về Hồ Chí Minh, Sáclơ Phen đã cho chúng ta biết một số chi tiết hết sức thú vị liên quan tới vấn đề chúng ta đang bàn tới: “Cục cứu trợ không quân trên mặt đất (viết tắt theo tiếng Anh là AGAS) đã thông báo cho tôi về một người Việt Nam già không những chỉ giúp cứu phi công Mỹ bị bắn rơi, mà còn liên quan tới một tổ chức chính trị rộng lớn. AGAS còn nói rằng ông già ấy hiện đang có mặt tại Côn Minh và thỉnh thoảng còn gặp trong Cục Thông tin chiến tranh Hoa Kỳ, là nơi ông thường lui tới để đọc đủ thứ, từ tờ Thời báo đến Bách khoa Toàn thư".(1)
Người mà Sáclơ Phen nói tới đó chính là Hồ Chí Minh, lãnh trách nhiệm của Đảng và Mặt trận Việt Minh sang Côn Minh tiếp xúc với các phái bộ Đồng minh chống phát xít Nhật trên đất Trung Quốc. Đi Côn Minh lần đó, Người đã mang theo một món quà đặc biệt cho AGAS là trao lại nguyên vẹn một phi công Mỹ khi máy bay bị quân đội Nhật bắn rơi, nhảy dù xuống Cao Bằng, vùng căn cứ địa của chúng ta, được du kích và nhân dân cứu sống và chăm sóc chu đáo. Trung úy phi công Mỹ tên là Sao (Shaw). Sự việc đó đến tai Tướng Sênôn (Chennault), chỉ huy Đoàn không lực thứ 14 của Mỹ có tên là Phi hổ. Vì thế mới có cuộc hội kiến giữa Tướng Sênôn với Hồ Chí Minh tại hành dinh của ông ta vào lúc 11 giờ ngày 29-3-1945. Nhật ký của S.Phen ghi lại cuộc tiếp xúc đó như sau:
“Sau khi chúng tôi có mặt bên ngoài hành dinh của Tướng Sênôn, chúng tôi được báo là ông đang bận. Năm phút sau, chúng tôi được mời vào. Sênôn đã nói với Hồ là ông rất biết ơn về người phi công được cứu thoát. Hồ nói là ông sẽ luôn luôn hân hạnh được giúp người Mỹ, đặc biệt là được giúp Tướng Sênôn, người mà ông rất ngưỡng mộ. Hai người đã trò chuyện về những “con hổ biết bay”. Sênôn rất khoái về việc ông già biết chuyện đó. Chúng tôi nói chuyện về việc cứu phi công…”(2).
Những lúc rổi rãi, Người thường lui tới Cục Thông tin chiến tranh Hoa Kỳ (viết tắt theo tiếng Anh là AOWI) để thu thập những thông tin cần thiết cho những dự định của mình, trong đó có đọc Bách khoa thư Hoa Kỳ có mục từ Tuyên ngôn Độc lập 1776 của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ và chuẩn bị cho những cuộc tiếp xúc tiếp theo. Thời điểm đó là vào khoảng cuối tháng 2 đầu tháng 3 năm 1945, trùng với sự kiện Nhật đảo chính Pháp trên toàn Đông Dương (9-3-1945). Cuộc đảo chính đó đã phá nát mạng lưới tình báo mà Đồng minh đã dày công xây dựng trên lãnh thổ Đông Dương. Vì thế, Bộ Tổng tham mưu quân Mỹ trên đất Trung Quốc cho phép OSS (Cơ quan phục vụ chiến lược) tìm người Việt Nam thay cho mạng lưới điệp viên đã ngừng hoạt động. Ngày 17-3-1945, theo sự giới thiệu của AGAS, Trung úy Sác lơ Phen đã tìm gặp Hồ Chí Minh. Cuộc gặp gỡ đó được bố trí trong nhà ông Tống Minh Phương, một cơ sở cách mạng của ta ở Côn Minh. Nhật ký của S. Phen ghi: “Hồ không như tôi tưởng tượng. Trước hết, ông chưa đến nỗi “già”, chòm râu không còn đen nữa gợi lên trong tôi ý nghĩ ông là người đã có tuổi, nhưng khuôn mặt của ông rất khỏe mạnh và đôi mắt của ông rất sáng và lấp lánh. Chúng tôi trò chuyện bằng tiếng Pháp (…). Tiếp đó nhật ký của S. Phen ghi lại cuộc trò chuyện bàn tới việc hợp tác của hai bên trong công cuộc chống phát xít Nhật, đặc biệt nói tới việc Hồ Chí Minh yêu cầu Đồng minh công nhận Mặt trận Việt Minh nằm trong phe chống phát xít: “Hồ nhấn mạnh rằng Mặt trận Việt Minh chỉ chống Nhật. Giọng nói của ông rõ ràng, dứt khoát, gây cho tôi một ấn tượng mạnh…”(3).
Đó là chuyến ngoại giao thắng lợi của Việt Minh, mà Hồ Chí Minh vừa là người đưa ra ý tưởng, vừa là người thực thi thành công ý tưởng đó. Đầu tháng 4-1945, Người về nước mang theo những người lính Đồng minh cùng với trang thiết bị truyền thông về căn cứ Cao Bằng, sau đó, tháng 5, xuôi Tân Trào, Tuyên Quang. Tại đây, Người cùng các chiến sĩ cách mạng chuẩn bị cơ sở vật chất như sân bay dã chiến để tiếp nhận toán lính Con Nai và trang thiết bị quân sự và thuốc men cho Việt Minh, do máy bay Mỹ thả xuống.
Tháng 5-1945, trong số binh sĩ của Đồng minh hoạt động bên cạnh Việt Minh ở Cao Bằng có một viên trung úy trẻ mang quốc tịch Hoa Kỳ tên là Phelan, biệt danh là Giôn. Lúc đầu, theo sự phân công của Thượng cấp, anh ta vào Việt Nam hoạt động một cách miễn cưỡng, vì trước khi anh đi anh được biết Hồ Chí Minh là một người cộng sản. Chưa đầy một tuần sau khi đặt chân tới căn cứ địa của Việt Minh, tiếp xúc trực tiếp với Hồ Chí Minh, anh đã điện về Bộ chỉ huy quân Đồng minh ở Trùng Khánh một bức điện khẳng định rằng Hồ Chí Minh chắc chắn không phải là một người cộng sản: Các Ngài đã không hiểu được xu hướng của Việt Minh. Ông Hồ không phải là người chống Pháp mà chỉ là người yêu nước đáng được tin cậy và đáng được ủng hộ hoàn toàn. Sau đó, anh đã gửi cho cấp trên trực tiếp của anh một bản tường trình, trong đó anh miêu tả hết sức tỷ mỷ nơi ăn chốn ở của lãnh tụ Việt Minh và không quên lưu ý là Hồ Chí Minh đã hỏi anh về đoạn mở đầu trong bản Tuyên ngôn Độc lập của Hoa Kỳ mà Người muốn kết hợp trong Tuyên ngôn Độc lập của mình, tiếp đó anh có một nhận xét hết sức thú vị: “Thực ra, hình như Người còn biết nhiều hơn tôi về bản Tuyên ngôn Độc lập của nước Mỹ…”. Cũng theo Phelan, để đáp ứng lòng mong muốn của Hồ Chí Minh, anh ta đã điện về Trùng Khánh (Trung Quốc), trong một chuyến hàng viện trợ cho Việt Minh thả xuống khu vực sân bay Lũng Cò, ngoài vũ khí hạng nhẹ và thuốc Tây, còn có một bản photo bản Tuyên ngôn Độc lập của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ năm 1776. Vì thế, câu mở đầu trong Tuyên ngôn Độc lập của chúng ta, Hồ Chí Minh lấy một câu hay nhất từ Tuyên ngôn độc lập Hoa Kỳ:
“Tất cả mọi người sinh ra đều bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; Trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc…”.
Sau khi trở lại căn cứ địa Cao Bằng, Hồ Chí Minh vẫn giữ mối liên lạc thường xuyên và chặt chẽ với S. Phen bằng thư từ và liên lạc viên của mình. Có ít nhất 5 lá thư Người gửi cho S. Phen. Qua những lần trao đổi từ đó, Người muốn làm cho người Mỹ hiểu rõ ý chí, quyết tâm của dân tộc Việt Nam cho cuộc chiến đấu cho tự do độc lập của đất nước. Lá thư cuối cùng Người gửi cho S. Phen ít lâu sau khi Mỹ ném quả bom nguyên tử xuống Hiroshima thể hiện rõ điều đó:
“…Chiến tranh đã kết thúc thắng lợi. Nhưng chúng tôi, những nước nhỏ và phụ thuộc, không có phần đóng góp hoặc đóng góp rất ít vào thắng lợi của tự do, của dân chủ. Nếu muốn đóng góp một phần xứng đáng, chúng tôi phải tiếp tục chiến đấu. Tôi tin rằng ông và nhân dân Mỹ vĩ đại sẽ luôn luôn ủng hộ chúng tôi.
Tôi cũng tin rằng sớm hay muộn chúng tôi cũng sẽ đạt được mục đích của mình, bởi vì mục đích đó là chính nghĩa. Và đất nước chúng tôi sẽ độc lập”(4).
Rõ ràng, chỉ riêng qua hai nguồn tư liệu trên cũng khả dĩ cho chúng ta biết Hồ Chí Minh đã ngấm ngầm tự mình chuẩn bị những ý tưởng cho một văn kiện tựa như Tuyên ngôn Độc lập của Hoa Kỳ.
Khi được tin nhân dân Hà Nội đã giành chính quyền về tay, Hồ Chí Minh lệnh cho Võ Nguyên Giáp đang chỉ huy Đại đội Việt-Mỹ tấn công quân Nhật giải phóng thị xã Thái Nguyên cho một Trung đội giải phóng quân thuộc chi đội Quang Trung quay gấp lại Tân Trào, đưa lãnh tụ về Hà Nội. Lúc đó, vừa dứt những cơn sốt rét rừng, người Bác còn rất mệt. Các chiến sĩ đã thay nhau cáng Bác theo đường giây liên lạc trong An toàn khu, băng qua rừng rậm, đèo cao, băng qua những cánh đồng ngập nước mùa lũ về Hà Nội. Chiều ngày 24-8-1945, Người được bố trí sống chung với một gia đình giàu nhất nhì Hà Nội trong tòa nhà số 48 Hàng Ngang, một trong 36 phố phường xưa trong không khí ngập tràn hạnh phúc những ngày đầu tự do, độc lập. Đó là gia đình nhà tư sản dân tộc yêu nước Trịnh Văn Bô và Hoàng Thị Minh Hồ. Gia đình này từ tình cảm yêu nước đã đi theo cách mạng từ trước đó một năm. Sau này, bà Hoàng Thị Minh Hồ nhớ lại khoảnh khắc đó: “Vào những ngày chuẩn bị Cách mạng Tháng Tám năm 1945, các đồng chí đã báo với gia đình chúng tôi: “Chuẩn bị đón Mẹ về!”. Mẹ là ai? Chúng tôi chỉ biết đấy là một con người - con người yêu nước, linh hồn của cách mạng. Chúng tôi thấp thỏm mong chờ… Ngày 24-8-1945, “Mẹ về”, chúng tôi đón Người. Với mọi người khác trong gia đình, đó là một cụ ở quê ra chơi… mà không ai biết đó là Bác Hồ kính yêu. Hơn 1 tháng trời chăm sóc, nuôi giấu, phục vụ Bác, chúng tôi đã hoàn thành sứ mệnh vẻ vang của người công dân, của người yêu nước” (5).
Gia đình ông Trịnh Văn Bô bố trí để Bác sống trên tầng 3, tiện cho sự nghỉ ngơi và làm việc. Những lúc không thích ở một mình, Bác sống luôn với anh em ở gác 2. Tầng gác này vốn là phòng ăn và buồng tiếp khách nên không có bàn làm việc. Bác ngồi viết ở cái bàn ăn rộng thênh thang. Chiếc máy chữ từ chiến khu mang về được đặt trên chiếc bàn vuông nhỏ, mặt bọc nỉ xanh, kê ở góc buồng. Tại đây, Người đã thảo bản Tuyên ngôn Độc lập của nước ta. Với sự chuẩn bị từ trước. Tại đây Bác đã từng nói với anh em rằng Bác đã từng đi nhiều nơi và viết rất nhiều, nhưng đây là lần đầu tiên Bác viết thoải mái nhất và sung sướng nhất trong cuộc đời cách mạng và làm báo của Bác (6) ấy là khoảnh khắc Bác viết lên những dòng ánh sáng, những lời bất tử và những chân lý không ai có thể chối bỏ được:
“Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng; dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”.
“Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”.
Sau khi thảo xong, Bác cho mời các đồng chí trong Ban Thường vụ tới thông qua và quyết định ngày công bố. Bác quyết định phải tổ chức công bố gấp, trước khi quân Đồng minh vào tước khí giới quân đội Nhật, và công bố dưới một hình thức trang trọng nhất và lớn nhất, để chúng ta lấy tư cách người chủ đất nước tiếp đón quân Đồng minh.
Chiều ngày 2-9-1945, trước sự chứng kiến của nửa triệu người, trong đó có những người nước ngoài, trên Quảng trường Ba Đình, Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ Lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trịnh trọng đọc bản Tuyên ngôn Độc lập khai sinh nước Việt Nam mới và cùng với toàn dân tộc thề quyết tâm bảo vệ nền độc lập dân tộc mà biết bao thế hệ người Việt Nam yêu nước xả thân để giành lại.
---------------------
(1) Charles Fenn. Ho Chi Minh: A biographical Introduction. NY, 1973, p, 83.
(2) (3) Charles Fenn. Ho Chi Minh: A biographical Introduction, Sdd, p, 76.
(4) Hồ Chí Minh. Toàn tập, tập 3. Nxb chính trị quốc gia. HN, 2009, tr.550.
(5) Hoàng Thị Minh Hồ. Lẽ sống của chúng tôi. Trong Tạp chí Xưa & Nay, số 4 (5), 1994.
(6) Xem Võ Nguyên Giáp. Những năm tháng không thể nào quên. Hồi ký.