Nhìn ra thế giới

Giáo trình lịch sử Nhật Bản (Phần hai: Mạc phủ Muromachi và Edo) [21]

 4-Chính sách đối ngoại thời Edo hậu kỳ:

4.1 Những biến chuyển của tình hình thế giới. Nỗi lo bên trong và cái họa bên ngoài:

Đến đây, chúng ta bàn đến quan hệ ngoại giao của Nhật Bản trong khoảng thời gian từ hậu bán thế kỷ 18 sang đến tiền bán thế kỷ 19 để xem một mạc phủ Edo trong giai đoạn chính trị có nhiều dao động như thế đã tiếp nhận ảnh hưởng bên ngoài và phản ứng lại như thế nào?

Trước tiên, muốn hiểu chính sách ngoại giao của mạc phủ thì điều tiên quyết là phải hiểu về tình hình thế giới đương thời. Xin chỉ nói một cách tóm lược.

Lúc đó, ở các nước Âu châu, đang có hai cuộc cách mạng đang song hành: cách mạng tư sản (buốc-gioa) và cách mạng kỹ nghệ. Kết quả chúng đem đến là việc chủ nghĩa tư bản lan rộng và tư trào cận đại hóa, công nghiệp hoá đã tiến triển với một tốc độ cao. Vì thế, liệt cường mà nước Anh là đầu tàu đã bắt đầu chạy đua với nhau trong việc tranh đoạt tài nguyên thiên nhiên và thị trường. Để đạt đến mục tiêu đó, họ mưu đồ tiến về khu vực Á châu.

Cuộc cách mạng kỹ nghệ đã phát minh ra máy móc (machine) và máy nổ (power-driven machinery) và nhờ đó, khi người ta muốn sản xuất một vật gì, đã có thể sử dụng máy móc để chế tạo được hàng loạt. Còn máy nổ thì nó đã giúp cho nhân loại tiến được một bước dài.Xưa kia, lúc sản xuất một vật gì đều phải dùng sức người, sức thú vật và khá phiền phức nhưng nay với máy nổ, mọi việc hầu như giản dị ra. Hơn thế nữa, giá thành lại rẻ, sản phẩm chất lượng và có thể sản xuất một lần nhiều đơn vị. Ở những nước mà cuộc cách mạng kỹ nghệ thành công, để có thể bán sản phẩm của mình chế biến ra, người ta phải vượt biên giới quốc gia để hướng ra bên ngoài tìm kiếm thị trường. Nhờ phương pháp đó, cuộc cách mạng kỹ thuật đã tiến triển rất nhanh. Bắt đầu là Anh quốc với danh xưng “nhà máy sản xuất của thế giới”, sau đến các nước đã kinh qua thời cách mạng kỹ nghệ, tất cả đều tìm cách tiến ra hải ngoại. Thế rồi sau một chuỗi sự kiện, cho dù mạc phủ rất khép kín và nghiêm ngặt trong liên hệ ngoại giao, họ cũng đã bị du vào cái thế chẳng đặng đừng.

Trong một bối cảnh như thế, phải nói việc tiếp cận ngoại giao với liệt cường đẻ ra thêm một vấn đề bức xúc cho mạc phủ. Cho đến nay, mạc phủ đã gánh chịu biết bao nhiêu vấn đề ở quốc nội, từ giải quyết việc mất mùa và nạn đói, những cuộc nổi loạn (ikki) của nông dân, những cuộc bạo động đập phá (uchikowashi), nay còn phải trả lời liệt cường đang đòi hỏi thông thương. Sự lo lắng của mạc phủ đã được tóm tắt qua bốn chữ “nội ưu ngoại hoạn” (nỗi lo phát ra từ bên trong và cái họa đến từ bên ngoài) từ miệng của một nhân vật tăm tiếng đương thời, lãnh chúa phiên trấn Mito, Tokugawa Nariaki (Đức Xuyên, Tề Chiêu, 1800-1860), một người họ hàng gần gủi của Shôgun.

Nhìn lại thời ấy tức thời Edo hậu kỳ thì phiên trấn Mito (tỉnh Ibaraki bây giờ) là cứ điểm của Mitogaku (Thủy Hộ học), một hệ phái tư tưởng chủ trương tôn quân và có lập trường bài xích Tây phương. Những Nho gia như Fujita Yuukoku (Đằng Điền U Cốc, 1774-1826), con ông là Fujita Tôko (Đằng Điền Đông Hồ, 1806-1855) và học trò ông là Aizawa Yasushi (Hội Trạch, An, 1782-1863) tức Aizawa Seishisai (Hội Trạch, Chính Chí Trai) đều là những mưu thần (brain) của Nariaki, đã giúp chủ trong việc đưa ra nhiều chính sách cải cách. Họ đã khuyên ông tiêu pha kiệm ước, cổ võ học tập văn vũ, xem Thần đạo và Nho giáo như hai trụ cột của hệ thống tư tường chỉ đạo đường lối trong phiên.

Nariaki chẳng những đồng ý với lập trường này mà còn muốn nó tác động lên cả chính trị chung của mạc phủ.Vì thế, năm 1838 (Tenpô 9), ông đã viết một bản điều trần nhan đề Bojutsu Fuuji (Mậu Tuất phong sự = Tờ trình mật năm Mậu Tuất, phong sự = thư phong kín), qua năm sau thì đem dâng lên Shôgun đời thứ 12 là Ieyoshi (Gia Khánh, 1793-1853). Bốn chữ “nội ưu ngoại hoạn” cũng thấy chép trong văn bản này. Trong những đề án cải cách đưa ra, có việc ông khuyên mạc phủ nên ngăn cấm không cho cả người Hà Lan buôn bán dù Hà Lan đang là quốc gia phương Tây duy nhất còn giữ được ân huệ đó. Ông cũng chủ trương rằng trên thế giới, ngoại trừ Nhật Bản, Thanh triều, Triều Tiên và Lưu Cầu thì chỉ còn toàn những nước theo tà giáo (ám chỉ đạo Ki-tô). Nhìn thế, ta thấy tư tưởng “nhương di” (đánh đuổi bọn man di) nơi ông rất mạnh mẽ.

Liệt cường tiến qua châu Á

 

Liệt cường

Hướng tiến (thời điểm chiếm đóng hoàn toàn)

Nga

Iran, Irak, Primorskii (1860), Triều Tiên, Hắc Long Giang.

Anh

Ấn Độ (1858), Miến Điện, Sri Lanka (1795), Malacca (1795), Singapore (1819), Bắc Borneo (1842), Hương Cảng ( 1842), Thượng Hải, Trung Đông, Nepal.

Tây Ban Nha

Phi Luật Tân (1571)

Hà Lan

Sumatra, Java (1619), , Borneo, Quần đảo Đông Ấn, Tân Ghi-nê.

Pháp

Việt Nam (1867), Lào, Cam Phu Chia (1863), Thanh

Bồ Đào Nha

Sri Lanka (1518), Goa

Đức

Tân Ghi-Nê (1884)

Mỹ

Nhật Bản

 Cụ thể liệt cường đã tiến qua châu Á như thế nào, có thể xem bản tóm tắt bên trên.

Trước tiên, Anh là nước tiên khu trong cuộc cách mạng tư sản (hậu bán thế kỷ 17) cũng như trong cuộc cách mạng kỹ nghệ (hậu bán thế kỷ 18). Chủ nghĩa tư bản cũng phát triển mạnh trên đất nước này và có thể xem như họ là cường quốc số một trong việc tiến ra hải ngoại tìm thuộc địa. Còn như Hoa Kỳ thì sau khi đã trải qua cuộc chiến tranh giành độc lập từ 1775 đến 1776, họ đã trở thành một quốc gia tư bản cận đại. Hoa Kỳ đã xúc tiến việc khai thác miền Viễn Tây, rồi từ phiá bờ Thái Bình Dương, họ ngấp nghé tiến về Á châu. Pháp thì vào giữa thế kỷ 19 dưới thời Napoleon III đã tiến về vùng Đông Nam Á, chiếm Việt Nam và Cam Pu Chia làm thuộc địa.

Nga đã khai thác vùng Tây Bá Lợi Á từ hậu bán thế kỷ 16, nhắm nới rộng vùng ảnh hưởng sang phương đông tận bờ biển Thái Bình Dương.Thế rồi vào thế kỷ 18, khởi đi từ các châu duyên hải (Primorskii ) và bán đảo Kamchatka, họ tiến xuống miền nam tới tận bờ Hắc Long Giang của Trung Quốc và vùng đất Ezochi.

Bối cảnh liệt cường tiến sang Á châu như thế đã ảnh hưởng đến chính trị của mạc phủ. Thế nhưng chừng ấy thông tin chưa đủ giúp ta thấy rõ cái mà nhà cai trị xem là “nội ưu ngoại hoạn”, cách tiếp cận trực tiếp của của liệt cường đối với Nhật Bản và phản ứng của mạc phủ. Điều đó, độc giả phải đợi đến những trang sau.

4.2 Thuyền ngoại quốc ghé bến và cách đối phó của mạc phủ:

Vào cuối thế kỷ thứ 18, tình hình thế giới biến đổi rất nhanh chóng. Thuyền Nga rồi thuyền Anh lần lượt đến gần bờ biển Nhật Bản làm cho mạc phủ dao động và bắt buộc kiểm thảo lại chính sách ngoại giao. 

Trước tiên, vào năm 1792 (Kansei 4), Nữ hoàng Ekatherina II của Nga đã gửi sứ thần Adam Erikovich Laxman (có Daikokuya Kôdayu, 1751-1828 [121], một người thuyền bị bão giạt tới Nga, tháp tùng) đến Nemuro trên Ezochi. Laxman nhân chuyến đi mà trả ông ta về bản quán.Lúc ấy, Laxman yêu cầu được thông thương với Nhật nhưng mạc phủ vì vẫn theo qui định ngoại giao rất hạn chế áp dụng từ trước đến nay nên rất khó lòng. Lúc đó Nhật Bản đang ở dưới thời cải cách năm Kansei của đại thần Matsudaira Sadanobu. Khi tin tức về yêu cầu của Laxman từ phiên Matsumae trên miền bắc gửi về đến Edo thì chức Rôjuu (tức Sadanobu) và Sanbugyô (tam phụng hành, 3 quan bugyô chính, xin xem lại mục quan chế mạc phủ) đã nhiều lần họp bộ tham mưu bàn bạc. Hơn nữa, nhân được tin Laxman cho biết sắp tới, mình sẽ còn thân chinh đưa thuyền xuống Edo yêu cầu được thông thương, mạc phủ càng thêm bối rối.

Chúng ta còn nhớ Hayashi Shihei, tác giả Kaikoku heitan (Hải quốc binh đàm, 1791), quyển sách phê phán việc phòng thủ hải phận của mạc phủ trước thế lực của người Nga và đã bị hình phạt (giam lỏng tại nhà, tịch thu bản gỗ in sách) cách đó một năm. Thực ra đối sách phòng thủ của mạc phủ chỉ tập trung vào Nagasaki mãi tận miền nam, còn như nơi quan trọng số một đối với họ là Edo thì canh giữ lại quá lỏng lẻo. Có lẽ lúc này mạc phủ mới thấy Hayashi Shibei đã chỉ trích rất đúng chỗ sơ hở của mình.

Sadanobu đứng trước một tình thế khó xử. Nếu không cho phép tàu của Laxman cập bến Edo, sẽ sinh ra xung đột với Nga. Thế nhưng trong khi chưa chuẩn bị việc phòng thủ gì cả mà chấp nhận lời yêu cầu của Laxman thì quả là tắc trách.

Để tránh cả hai cảnh đó, Sadanobu nghĩ ra một giải pháp trung gian. Viện cớ là chính sách ngoại giao của Nhật Bản hiện đang có hạn chế nhưng đó là cho tất cả mọi nước chứ chẳng trừ ai, ông hạ lệnh trao cho Laxman tín bài (shinbai) tức giấy phép để người Nga có quyền cập bến Nagasaki. Thế nhưng Laxman chẳng xuống Nagasaki, chỉ mang tín bài về nước. Từ đó, mạc phủ mới thấy tầm quan trọng và lưu tâm nhiều hơn về việc phòng thủ bờ biển.

Lưu tâm thế nào thì cụ thể là trước hết mạc phủ ra lệnh cho các phiên trấn phải tổ chức phòng thủ Ezochi và củng cố việc bảo vệ hải phận như vùng ngoài khơi Bôsô (Chiba) và ven vịnh Edo. Dĩ nhiên việc phòng thủ này sẽ tạo ra một gánh nặng cho các lãnh chúa liên hệ.

Mặt khác, để việc phòng thủ được hữu hiệu, mạc phủ ra lệnh mở những cuộc điều tra về tình hình ở Ezochi cũng như các lãnh quốc khác. Năm 1798 (Kansei 10), Kondô Jôzô (Cận Đằng Trọng Tàng, 1771-1829) [122] đã đi thám hiểm và điều tra các đảo Chishima (Kuriles). Nhân đó mà năm sau,vùng Higashi-Ezochi tức vùng phía đông của Ezochi (nay thuộc phân nửa phía nam Hokkaidô) trở thành đất Nhật Bản trực tiếp cai quản. (Lằn ranh chạy dài từ Kumanari ở Matsumae lên đến bán đảo Shiretoko – nay là di sản thiên nhiên thế giới – chia Ezochi ra làm hai vùng Đông Tây, thế nhưng Đông có nghĩa là phân nửa nam và Tây là phân nửa bắc đảo Hokkaidô. Ngoài ra, ngày xưa người Nhật gọi đảo Sakhalin là Karafutô = Hoa thái đảo hay Kita Ezochi =Bắc Hà Di địa). Thế rồi năm 1808 (Bunka 5) và bước qua năm sau, một nhà thám hiểm và chuyên gia đo đạc, Mamiya Rinzô (Gian Cung, Lâm Tàng, 1775-1844) đã thám hiểm và điều tra vùng hạ lưu Hắc Long Giang (Heilung Jiang), nhân đó mới biết Karafuto (Sakhalin) là một hòn đảo. Chỗ eo biển ngăn chia vùng ven lục địa với Karafuto (Sakhalin) ngày nay vì thế mang tên “eo biển Mamiya” để nhớ đến sự khám phá của ông.

Tóm tắt những chuyến thám hiểm và điều tra vùng biển bắc của người Nhật

 

 

Những nhà thám hiểm và các chuyến điều tra

Năm

1

Mogami Tokunai (Matsumae – đảo Urutsubu, Đông Ezochi tức Nam Hokkaidô)

1786

2

Mogami Tokunai – Kondô Juuzô (Nemuro – Kunashiri , Đông Ezochi)

1798-99

3

Kondô Juuzô (Matsumae – Eo biển Sôya, Tây Ezochi tức Bắc Hokkaidô)

1807

4

Mamiya Rinzô chuyến thứ nhất (Eo biển Sôya – Mũi Kita Shiretoko, Đông đảo Karafuto tức Sakhalin )

1808

5

Mamiya Rinzô chuyến thứ hai (Eo biển Sôya – Deren- Nicolaievsk, Nam Hắc Long Giang, Tây đảo Karafuto tức Sakhalin)

1808-1809

Lại nữa, có người vùng Shimôza Sawara là Inô Tadataka (Y Năng Trung Kính, 1745-1818) nhà địa lý và đo đạc, từng theo học một nhân vật làm ở Sở Thiên Văn của mạc phủ là Takahashi Yoshitoki (Cao Kiều Chí Thì). Ban đầu Inô chỉ đo đạc vùng Ezochi sau nới rộng ra, đi khắp nước đo tại chỗ. Kết quả là các đệ tử của ông đã hoàn thành vào năm 1821 (Bunsei 4) tấm Đại Nhật Bản Duyên Hải Dự Toàn Đồ (Bản đồ toàn thể vùng ven biển và các đảo Nhật Bản). Bức ấy được gọi là Inôzu (Bản đồ của ông Inô) cho gọn nhưng chính ra nó được vẽ theo ba khổ đại, trung, tiểu khác nhau và có kẻ đường ven biển cũng như các kinh tuyến, vĩ tuyến rất chính xác .

Sở thiên văn của mạc phủ (Tenmonkata), nơi Inô từng theo học, từ năm 1684 (Jôkyô nguyên niên) khi Shibukawa Shunkai (Sáp Xuyên Xuân Hải, còn đọc là Shibukawa Harumi) làm ra cuốn lịch năm Jôkyô (Trinh Hưởng lịch) thì đã dồn công sức vào việc dịch sách phương Tây trong nhiều lãnh vực kể cả thiên văn và trắc địa (geodesy). Mạc phủ cũng đoạt lấy quyền ban lịch ngày xưa vốn thuộc về triều đình. Năm 1797 (Kansei 9), Takahashi Yoshitoki đã làm ra Kanseireki tức Lịch năm Khoan Chính. Cũng cùng vào thời điểm đó, viên thông dịch ở Nagasaki (Nagasaki tsuuji) tên là Shidzuki Tadao (Chí Trúc, Trung Hùng) vì cũng học được thiên văn, vật lý nên đã soạn ra quyển Rekishô Shinsho (Lịch tượng tân thư), giới thiệu thuyết trọng lực của vạn vật (banyuu inryoku-setsu = theory of universal gravitation) của Newton bàn về sức hút và thuyết địa động (chidôsetsu = Corpenian heliocentric theory) của Copernic chủ trương trái đất quay quanh mặt trời, cho người Nhật.

Thế rồi Shidzuki Tadao cũng ra công dịch một quyển sách của một y sĩ ngưòi Đức làm việc tại Thương quán Hà-Lan ở Nagasaki tên là Engelbert Kaempfer (1651-1716), nguời chỉ sống hai năm (1690-92) nhưng hiểu sâu biết rộng về Nhật. Quyển sách dịch ấy tên là Nihonshi (Nhật Bản Chí) đề cập đến lịch sử, địa lý và văn hóa của Nhật và rất nổi tiếng. Cũng vào lúc này, trong những chương sách của Kaempfer nói về chính sách ngoại giao của Nhật Bản mà Shidzuki đã dịch, đã có từ Sakoku (Tỏa quốc). Có lẽ đây là lần đầu tiên chữ này đã được dùng để nói về chính sách bế quan tỏa cảng của Nhật (Sakokuron = Tỏa quốc luận) mà cho đến nay qua hai triều Minh Thanh chỉ được người Nhật gọi là “Hải cấm” (giản lược từ Hạ hải thông phiên cấm).

Hơn nữa, trong lúc tình hình ngoại giao trở nên căng thẳng như thế, về việc phiên dịch thì vào năm 1811 (Bunka 8) thì theo đề án của Takahashi Kageyasu (Cao Kiều Cảnh Bảo) - người kế tục công việc của Takahashi Yoshitoki – cơ sở tên Mansho wake goyô (Man thư Hỏa giải ngự dụng = Cơ sở nhà nước dịch sách nước ngoài) Nơi đây tụ tập nhiều người có kiến thức về học thuật phương Tây để làm công việc đó. Chúng ta chớ quên cái tên Takahashi Kageyasu vì sau này, ông là nhân vật bị liên lụy vào “Cái án Siebold” và bị xử hình. “Cái án Siebold” như thế nào, chúng ta sẽ trình bày sau.

Trở lại câu chuyện sứ thần người Nga A.E. Laxman thay vì xuống Nagasaki thì lại mang tín bài mạc phủ cấp cho mà về nước. Vào năm 1804 (Bunka nguyên niên), Nga lại một đoàn khác, lần này sứ thần là Nicolai Petrovitch Rezanov (1764-1807). Ông ta đem tín bài ấy đến yêu cầu thông thương và cập bến Nagasaki nhưng gặp phải phản ứng lãnh đạm của mạc phủ. Kết cuộc, nhân danh “tỏa quốc là tổ pháp” (luật có từ đời tổ tiên), mạc phủ lại cự tuyệt giao thương với họ. Có lẽ vì lý do đó mà sang năm sau, người Nga đã tấn công các trạm gác và ngư dân ở hai đảo Karafuto (Hoa Thái) và Etorofu (Trạch Tróc) để trả đủa.

Việc mạc phủ lấy cớ tỏa quốc là pháp luật tự đời ông cha để lại chính ra không thực tâm lắm vì hồi đầu thời Edo, bế quan tỏa cảng chưa phải là đường lối cơ bản của mạc phủ. Chỉ vì lúc ấy ngoài Trung Quốc của nhà Thanh, Triều Tiên, Lưu Cầu, Hà Lan, các nước tìm đến tiếp xúc với Nhật Bản quá nhiều làm cho chính quyền e sợ nếu tiếp tục liên hệ với họ. Thành ra mạc phủ cảm thấy cần phải co cụm.Thế nhưng, sau đó không biết tự lúc nào “tỏa quốc” đã trở thành một chính sách cơ bản mà họ hành sử một cách có ý thức[123].

Sự hình thành của tổ pháp “Tỏa quốc” (Bế quan tỏa cảng

 

Năm

Sự kiện

Ý nghĩa

1641

Thành lập hệ thống thông tin và thông thương với nước ngoài - Chế độ “tỏa quốc” hoàn thành.

Khuynh hướngkhống chế quan hệ đối ngoại...

|

 

Kim ngân chạy ra nước ngoài theo hướng mậu dịch bất lợi.

|

1715

Luật mới về thuyền bè cập bến và giới hạn kim ngạch mậu dịch.

|

Hậu bán thế kỷ 18

Liệt cường tiến gần đến Nhật Bản.

|

 

“Toả quốc” trở thành một chính sách bài ngoại được hiện thực hoá..

|

 

 

Ý thức “Tỏa quốc là tổ pháp” thành hình

|

...càng ngày càng mạnh

 Liệt cường tiếp cận Nhật Bản

 

 

Năm

Hành động của liệt cường

Phản ứng phía mạc phủ

1778

Thuyền Nga cập bến Akkeshi (Hokkaidô)

 

1792

Sứ thần Nga Laxman đến Nemuro (Hokkaidô)

Sadanobu ra lệnh phòng thủ bờ biển

1794

 

Mạc phủ cấp tín bài cho Laxman

1799

 

Đông Ezochi thành đất mạc phủ

1804

Sứ thần Nga Rezanov đến Nagasaki

 

1806

 

Mạc phủ ra lệnh không cung cấp củi, nước cho tàu ngoại.

1807

 

Cai quản toàn bộ Ezochi.

1808

Vụ chiến hạm Phaeton xâm nhập Nagasaki

Mamiya Rinzô điều tra vùng Karafuto và Duyên hải châu (Primorskii) (1808-09)

1818

Người Anh C.G. Gordon đến Nagasaki

 

1825

 

Mạc phủ phát lệnh đánh đuổi (uchiharai) thuyền ngoại.

1837

Tàu Morrison của Mỹ bị Nhật pháo kích ở Uraga và Yamagawa

 

1840

Chiến tranh Nha phiến (1840-42)

 

1842

 

Mạc phủ có thái độ hòa hoãn hơn với thuyền ngoại. Không đánh đuổi mà còn cấp nước và củi.

1844

Thuyền Pháp đến quần đảo Lưu Cầu

 

1846

Sứ thần Mỹ J. Biddle đến Uraga

 

1853

Sứ thần Mỹ M. C. Perry đến Uraga. Sứ Nga E. V. Putayin tới Nagasaki.

 

 

Khi biết được liệt cường nhòm ngó và tìm cách tiến gần với mình, vào năm 1806 (Bunka 3), mạc phủ không còn tỏ ra hòa nhã, hiếu khách, cấp nước và cấp củi cho các tàu ngoại quốc nữa. Đó là Lệnh về việc cung cấp củi nước năm Bunka ( Bunka shinsui kyôyorei, Văn Hoá tân thủy cấp dữ lệnh) rút lui chính sách đã có. Đến năm 1807 (Bunka 4), mạc phủ lập ra chức quan bugyô quản lý trực tiếp vùng Ezochi và ra lệnh cho các phiên trấn miền Tôhoku (Đông Bắc Honshuu) phải tổ chức canh phòng và báo động vùng duyên hải Ezochi.

Sau đó đã xảy ra sự cố chiến hạm Phaeton năm 1808 (Bunka 5). Vào đầu thế kỷ 19, khi nước Pháp của Hoàng đế Napoléon chinh phục Hà Lan rồi thì nước Anh để đối kháng lại họ, đã đoạt hết tất cả căn cứ mà người Hà Lan lập ra trên Biển Đông. Trong quá trình diễn tiến, quân hạm Phaeton của Anh, nhân đánh đuổi một thuyền Hà Lan –lúc đó là địch quốc – nên xâm phạm hải cảng Nagasaki. 

Trong vụ việc này, lính Anh trên chiếc Phaeton đã bắt người trong Thương quán Hà Lan làm con tin, chẳng những thế, đoạt lấy củi và nước, rồi kéo đi mất.Chức bugyô của Nagasaki là Matsudaira Yasuhide (Tùng Bình, Khang Anh) bị hỏi tội nên phải tự sát để lãnh trách nhiệm, còn người có nhiệm vụ bảo vệ an ninh của Nagasaki là lãnh chúa phiên Saga thì bị mạc phủ xử phạt.

Tiếp đến, năm 1811, lại xảy ra vụ Golovnin [124]. Hạm trưởng người Nga vủa chiếc Diana là Vassilii Mikhailovitch Golovnin (1776-1831) trong lúc đi đo đạc hải vực phía nam đảo Chishima (Kurils), bị tuần cảnh của Nhật bắt được khi ông đổ bộ lên đảo Kunashiri. Ông bị đưa về Hakodate (sau đó là Matsumae) để giam giữ. Nghe tin ấy, người Nga bèn câu lưu nhà buôn Nhật gốc người vùng Awaji (gần Kobe) là Takada Yakahê (Cao Điền, Ốc Gia Binh Vệ) đang khai thác thương mãi trên tuyến đường Etorofu (Trạch Tróc). Sau đó, Takada đã nỗ lực để tranh đấu cho Golovnin được phóng thích. Rốt cuộc đến năm 1813 (Bunka 10) thì cả hai đều được tha về và sự kiện này được giải quyết. Thời gian ở trong đề lao của Nhật, thuyền trưởng Golovnin đã viết cuốn hồi ký, sau này được dịch sang Nhật ngữ dưới nhan đề Nihon Yuushuuki (Nhật Bản u tù ký), trong đó có câu “Người Nhật ưu tú nên nước họ sau này có cơ trở thành một quốc gia hàng đầu”. Sách tiếng Nga cũng được dịch sang Anh ngữ và được nhiều người Tây phương tìm đọc và nhờ đó, họ có nhận thức cao hơn về người Nhật.

Ngoài những sự cố xảy ra ở vùng biển bắc, trong giai đoạn này, người ta thường thấy bóng tàu Anh, tàu Mỹ lảng vảng cạnh bờ biển Nhật, đòi nước, đòi củi, đòi lương thực, liên tiếp gây nên một tình trạng căng thẳng. Cho nên vào năm 1825 (Bunsei 8), giới chức mạc phủ bèn chuyển hướng 180 độ giải pháp áp dụng cho đến lúc bấy giờ nghĩa là ra lệnh đánh đuổi thuyền ngoại quốc (Ikokusen Uchiharai-rei), còn gọi là lệnh cương quyết đánh đuổi (Muninen uchiharai-rei). Muninen hay “vô nhị niệm” có nghĩa là “không cần nghĩ lại”, chứng tỏ quyết tâm cao độ kể cả việc bắn giết nếu có người định đổ bộ.

Trong thời gian trên lại có một sự cố khác đáng nói tới. Đó là “vụ Siebold”. Từ tiền bán thế kỷ 19, trong Thương quán Hà Lan có một y sĩ người Đức tùng sự, ông tên là Philipp Franz von Siebold (1796-1866). Năm 1828 (Bunsei 11), khi ông về nước, người ta phát hiện ông mang theo trong hành lý một số địa đồ nước Nhật. Ngày nay, mang vài tấm bản đồ thì có sao đâu nhưng trong bối cảnh hạn chế liên lạc ngoại giao cực kỳ nghiêm trọng của thời mạc phủ Edo thì đó là một tội nặng.Họ nghĩ nếu Siebold đem địa đồ về nước sử dụng thì sẽ nguy hiểm cho an ninh cho nên kết cuộc, Siebold bị trục xuất, còn người Nhật trao bản đồ cho ông, Takahashi Kageyasu (Cao Kiều, Cảnh Bảo), nhân viên ở đài thiên văn (làm lịch) của mạc phủ, thì bị xử hình.

Điều đáng nói hơn nữa là khi về đến nơi, Siebold đã viết quyển sách nhan đề Nhật Bản, giới thiệu nước Nhật với thế giới và ông đã trở thành nhà nghiên cứu số một về nước Nhật. Hơn nữa, trong lúc Siebold còn làm việc ở Nagasaki, ông có mở ngoài thành phố một ngôi trường dạy về cái học phương Tây (Tây dương học đường) tên gọi Narutakijuku (Minh Lung Thục, Trường thác nước réo). Ngày nay nơi đây vẫn còn lưu trữ những kỷ vật của Siebold sưu tập lúc ông sinh hoạt ở địa phương.

Franz Philipp von Siebold

Nhân đây, xin trình bày thêm trên thực tế, Lệnh đánh đuổi tàu ngoại quốc (Ikoku uchiharai-rei) đã được thi hành như thế nào. Điển hình hơn cả có lẽ là sự cố về chiếc thương thuyền Morrison của Mỹ. Thuyền này đã đem trả về Nhật 5 người Nhật bị trôi giạt và cùng lúc, muốn thương lượng để được phép buôn bán. Thế nhưng người Nhật đã đánh đuổi họ đi. Sử gọi là “vụ Morrison”. Nơi mà Nhật Bản biểu dương sức mạnh của mình trước tiên là ngoài khơi Uraga (cảng Yokosuka, thuộc tỉnh Kanagawa bây giờ). Khi tàu Morrison đổi phương hướng quay xuống miền nam, đến địa phận Kagoshima (nam Kyuushuu) lại bị phiên Satsuma pháo kích ở vùng Yamagawa. Những nạn nhân thuyền đắm người Nhật chính ra được người Anh cứu và chở về Macao, nơi đây họ đã được công ty thương mại Mỹ chuyển qua tàu Morrison để đi trao trả.

Khi tin tức này vụ Morrison bị tiết lộ ra ngoài, có người đã đứng ra chỉ trích mạc phủ về hành động đó. Số là, một năm sau sự cố xảy ra, chức karô (gia lão, trọng thần của lãnh chúa một phiên) của phiên Mikawa Tawara (vùng Aichi) và cũng là một nhà văn-nhân-họa[125] được biết đến với bức Takami Senseki-zô (Ưng Kiến Tuyền Thạch tượng, tranh vẽ học giả Hà Lan học Takami Senseki) là Watanabe Kazan (Độ Biên, Hoa Sơn, 1793-1841) đã viết Shinkiron (Thận cơ luận) tức Bàn về sự thận trọng trước thời cuộc. Cùng lúc một người thầy thuốc thành thị xuất thân từ phiên Mutsu Mizusawa (Michinoku ở Tôhoku) tên Takano Chôei (Cao Dã, Trường Anh, 1804-1850) đã soạn sách Bojutsu Yume Monogatari ( Mậu Tuất mộng vật ngữ, Câu chuyện như mơ năm Mậu Tuất). Cả hai đều có ý phê bình đường lối đối ngoại của mạc phủ.

Đôi nét về Shinkiron và Bôjutsu yume monogatari[126]

Shinkiron (Thận Cơ Luận, 1838) nghĩa là Bàn về việc thận trọng trước thời cuộc, tác phẩm của Watanabe Kazan (Độ Biên Hoa Sơn), dài trên 5000 chữ, cùng với Bôjutsu yume Monogatari (Mậu tuất mộng vật ngữ, Chuyện như mơ năm Mậu Tuất, 5700 chữ) của Takano Chôei (Cao Dã Trường Anh) là hai bài nghị luận phê phán chính quyền mạc phủ nhân biến cố đánh đuổi tàu ngoại quốc, gọi là Vụ Morrison. Chúng đã được viết khoảng 3 năm trước cuộc Chiến tranh Nha Phiến (1840-42)[127].

Hai ông Kazan và Chôei đều là khách thường xuyên của Shôshikai (Thướng Xĩ Hội) , nơi hội họp của những sĩ phu lưu tâm đến việc nước, nhất là vấn đề đối ngoại. Trong hai bài viết, các ông đều thẳng thắn đặt nghi vấn về chính sách đóng cửa biển của mạc phủ, cảnh cáo rằng nó có thể đưa đến việc người Anh lấy cớ xâm lược Nhật Bản. Do đó, mạc phủ buộc họ vào tội chống phá nhà nước và mê hoặc lòng người. Cả Kazan và Chôei đều bị bắt giam. Sử chép đó là vụ ngục án Man xã (Mansha no goku) với kết cục hết sức bi thảm. Như ta đã biết, Kazan sau 3 năm sống u bế ở quê nhà (Mikawa) đã tự sát (1841), Còn Chôei thì 6 năm sau khi bị giam cầm, đã lợi dụng hỏa hoạn vượt ngục rồi tự lấy thuốc súng làm cháy nám mặt để sống ẩn náu giữa Edo nhưng rốt cục bị phát giác và cũng tự sát (1850).

Trước sự chỉ trích đường lối chính trị của mình, mạc phủ đã ra tay trừng trị một cách nghiêm khắc. Kazan bị đuổi về bản quán và sống u bế cho đến cuối đời, trong khi Takano Chôei bị tống vào ngục với cái án chung thân. Ngoài ra, học hội mang tên Shôshikai (Thướng xĩ hội)[128] qui tụ các nhà nghiên cứu Hà Lan học mà hai ông cũng là thành viên, cũng bị đàn áp luôn. Những nhà học giả Hà Lan khác đều bị bắt trọn, tạo nên vụ án chính trị mà người Nhật gọi là Bansha no goku (Man xã ngục). Man xã nghĩa là kết xã theo đường lối bọn Nam man, xưa kia dùng để chỉ cái học của người Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha vậy. Tuy nhiên lần này thì cái học Hà Lan cũng bị nhét vào chung một rọ và cùng một danh xưng với ý khinh miệt.

Takano Chôei Watanabe Kazan

 

tin tức liên quan

Thống kê truy cập

114573853

Hôm nay

290

Hôm qua

2334

Tuần này

21399

Tháng này

220910

Tháng qua

130677

Tất cả

114573853