Nhìn ra thế giới

Giáo trình lịch sử Nhật Bản (Phần hai: Mạc phủ Muromachi và Edo)[22]

5-Thời đại Ôgosho (Đại ngự sở). Văn hoá Kasei (Hóa Chính).

5.1 Lão thần thời Kansei và Ôgosho Ienari (Gia Tề):

Câu chuyện của thời Edo vừa kể đã liên quan đến nhiều giai đoạn (thế kỷ 17 và 18) với thời kỳ văn hóa Genroku (Nguyên Lộc) cũng như 2 cuộc cải cách lớn Kyôhô (Hưởng Bảo) và Kansei (Khoan Chính).Nay chúng ta sẽ nói về giai đoạn tiền bán thế kỷ 19 tức là thời kỳ Bunka-Bunsei ( niên hiệu Văn Hóa, Văn Chính) để rồi sẽ chấm dứt với thời kỳ Tenpô (niên hiệu Thiên Bảo). Về mặt khu phân thời đại thì lúc này, chúng ta đang đứng ở ngưỡng cửa thời cận đại (modern age). (Trước đó là thời tiền cận đại mà sách vở Nhật dùng chữ cận thế = kinsei, ta có lẽ nên dịch ra Anh văn là early modern).

Năm 1793 (Kansei 5), sau khi tại chức hơn 6 năm trời, chức Rôjuu là Matsudaira Sadanobu rời khỏi chính trường. Tuy vắng ông, thời kỳ yên ổn của Shôgun đời thứ 11 là Tokugawa Ienari, Đức Xuyên Gia Tề, tại chức 1787-1837, 1773-1841) vẫn được tiếp tục. Từ khi Ienari lên giữ ngôi Shôgun, trải qua hai thời kỳ chính là Bunka-Bunsei, thời gian ông cầm quyền kéo dài những 50 năm. Năm 1837 (Tenpô 8), ngay cả sau khi đã nhường chức cho Ieyoshi (Gia Khánh) rồi, ông vẫn nắm quyền như Ôgosho (Đại ngự sở = Tiền Shôgun), không chịu trao hẳn cho người kế vị. Ienari còn nổi tiếng vì có nhiều vợ (22 người hay hơn nữa), con cái được nhìn nhận đã lên đến con số 50. Đối với một Shogun Nhật Bản như vậy là quá nhiều. Ông trở thành đối tượng của sự phúng thích. Một go-kenin tức gia thần mạc phủ tên là Takaya Ganshirô (Cao Ốc Ngạn Tứ Lang) dưới bút hiệu Ryuutei Tanehiko (Liễu Đình Chủng Ngạn) đã viết tác phẩm Nise Murasaki Inaka Genji (Murasaki giả mạo viết về Genji nhà quê) chê trách cuộc sống của Ienari trong hậu cung (gọi là Ôoku = Đại Áo). Nhân cuộc cải cách năm Tenpô, quyển sách này phạm vào tội bất kính nên bị tuyệt bản.

Thời thái bình trong lúc Ienari cai trị còn được mệnh danh là Ôgosho jidai (Đại ngự sở thời đại、Đại ngự sở = Phủ của Shôgun đời trước) khi ông rời khỏi cái ghế Shôgun vẫn đứng sau lưng để giật giây chính quyền.

Cho dù thời kỳ Shôgun Ienari nắm chính quyền, Nhật Bản được hưởng hòa bình, thế nhưng vẫn phải nói là nó có hai giai đoạn, Nửa phần đầu tương ứng với niên hiệu Bunka (Văn Hóa, 1804-1818) là giai đoạn mà bậc di lão tiền triều là Matsudaira Nobuakira (Tùng Bình, Tín Minh, 1760-1817) còn tiếp tục thi hành chính trị đơn giản kiệm ước, cắt xén ngân sách thời Kasei (Hóa Chính, 1889-1801, gộp hai niên hiệu Văn Hoá và Hóa Chính) sau khi người cùng họ Matsudaira Sadanobu đã thi hành cuộc cải cách mang tên nó. Các cận thần trong giai đoạn này đã cố gắng gìn giữ kỷ luật để mức độ cuộc sống xa xỉ của Ienari còn nằm trong vòng kiểm soát của họ.

Thế nhưng đến năm 1817 (Bunka 14) khi Nobuakira chết vì bệnh và Nhật Bản bước vào thời kỳ Bunsei (Văn Chính, 1818-1831) thì đã có một luồng gió mới thổi tới. Đó là phân nửa sau. Lúc ấy, người đứng ra kế tục chức vụ Rôjuu của Nobuakira là Mizuno Tadaakira (Thủy Dã, Trung Thành, 1764-1834). Ông ta nghĩ rằng để cứu vãn thế kẹt về tài chánh đã xảy ra thường xuyên trong nước cho đến lúc đó (số lượng tiền lưu hành bị giảm đi) chí còn cách là đúc thêm tiền mới. Ông mới hạ thấp thêm một lần nữa giá trị của đồng vàng koban Genbun (đúc vào niên hiệu Genbun = Nguyên Văn, 1736-1741) hiện có để đặt nó cùng một giá trị nghĩa là 1 ăn 1 đối với đồng koban Bunsei (niên hiệu Bunsei = Văn Chính, 1818-1831) mới đúc. Công hiệu của nó thật đáng kể vì nhờ lợi ích dựa trên độ chênh lệch thật sự của hai thứ hóa tệ này (đồng Bunsei phẩm chất kém mà được xem như có giá trị ngang với dồng tiền tốt là đồng Genbun) mà nhà chúa kiếm được món hời, chuyển bại thành thắng. Mới phải đối phó với tình trạng thâm thụt hôm nào mà nay mạc phủ đã đưa ngân sách đến mức dư dật, đủ cả cho con gái của Shôgun Ienari có một đám cưới rình rang. Thế nhưng nguyên tắc cơ bản là nhờ mạc phủ ăn tiêu hoang phí cho nên tiền của đã được rót vào lại trong thị trường, làm cho vật giá tăng lên và sức sản xuất mạnh ra. Đó là nguyên nhân lớn nhất để giải thích tại sao lúc ấy, kinh tế của mạc phủ phát triển tốt như vậy.

Mặt khác, nhờ lợi ích họ thu vào, Shôgun Ienari và hậu cung của ông (Đại Áo = Ôoku) có thể cho phép một cuộc sống xa hoa. Chẳng những thế, hoạt động của các con buôn nhộn nhịp ra, văn hóa đô thị mà trung tâm là văn hóa bình dân (shômin bunka) cũng khai hoa kết trái. Văn hóa ấy, người Nhật mệnh danh là Kasei bunka (văn hóa thời Hóa Chính hay văn hóa giai đoạn 2 niên hiệu Văn Hoá và Văn Chính).

Hậu cung và vai trò chính trị của nó[129]

Ôoku (Đại áo) - hậu cung (áo có nghĩa là sâu, bên trong) - của Shôgun Ienari tuy không thể so sánh với hậu cung của các đế vương Trung Quốc nhưng đủ qua mặt hậu cung những ông vua quốc gia cùng một tầm cỡ như hoàng đế Minh Mạng nước ta.

Trong thành Edo, cha Shôgun cùng các thế tử cũng có nhà trong Ôoku và tụ tập ở một khu gọi là Nishinomaru (Khu phiá Tây). Còn như Honmaru (Khu chính) thì chia ra làm 3 phần:

- Omote (Biểu = Bên ngoài) nơi Shôgun cư trú để làm việc hành chánh, có các quan đệ.

-.Nakaoku (Trung áo = Bên giữa) là tư đệ của Shôgun, nam giới cấm vào.

- Ôoku (Đại áo = Bên trong) lúc đông nhất có khoảng 3.000 người đàn bà sinh sống.

Ba nghìn người đàn bà ấy là thê thiếp (saishô) của Shôgun, các cô thị nữ (jochuu) và các toshiyori tức những người đàn bà lớn tuổi có nhiệm vụ cai quản. Chức vị của họ có thể xem như ngang hàng với một Rôjuu (tương đương Thủ tướng). Các bà cũng như thê thiếp của Shôgun có quyền phát ngôn cả về mặt chính trị. Tuy trên nguyên tắc họ bị cấm nhưng thực tế cho thấy, cấu kết với Rôjuu, họ cũng đã can thiệp vào nội chính.

Chế độ Ôoku do người nhũ mẫu rât có thế lực của Shôgun thứ 3 Iemitsu là bà Kasuga no tsubone (Xuân Nhật cục) lập ra và điều khiển nó đầu tiên. Thời Shôgun thứ 5 Yoshimune có bà Keishôin (Quế Xương viện, mẹ Yoshimune), thời Shôgun thứ 6 và thứ 7 có bà Gekkôin (Nguyệt Quang viện, mẹ Ietsugu) đều có ảnh hưởng đến chính cuộc, cho nên các quan ở Omote, hễ ai làm vui lòng họ thì mới có cơ hội thăng tiến.Chẳng hạn đại thần Tanuma Okitsugu vì biết chăm chút cho Ôoku nên được họ tín cẩn, trong khi đại thần Matsudaira Sadanobu thì lãnh đạm với họ nên họ không ưa, làm cho mất chức. Do đó các Rôjuu trong nội các đều phải đón ý, chiều chuộng họ.

Trong các Shôgun, có lẽ Ienari thường xuyên lui tới Ôoku nhiều nhất. Ông máy mó cả các thị nữ và có con với họ. Mấy bà vợ bé (mekake, sokushitsu) gặp thời này cũng lợi dụng được nhà chúa yêu thương để đem lại cảnh phú quí cho gia đình mình. Ví dụ trường hợp Nakao Sekiô, một nhân vật đương thời, cậy con gái nuôi được chúa thương yêu mà kiêu căng, vinh hiển, cho đến khi bị đại thần Mizuno Tadakuni làm cuộc cải cách năm Tenpô đánh đổ được. Shôgun Ienari cũng lợi dụng tình thế đem 13 cô con gái của mình làm con gái nuôi hay gả cho người nhà các lãnh chúa để làm phên giậu. Công nương thứ 21 tên là Yôhime (Dung cơ) đã được đem gả cho con trai lãnh chúa Maeda phiên Kaga. Nhân đám cưới cô, nhà Maeda đã xây cổng Akamon để đón về. Nay cổng này nằm trong khuôn viên Đại học Tôkyô.

Shôgun Ienari lên ngôi lúc mới 15 tuổi, trong một thời gian dài đã bị đại thần phụ chính nghiêm khắc là Matsudaira Sadanobu ngăn cản nên không sống được cuộc đời ăn tiêu huy hoắc. Đến khi vì vụ tôn hiệu của gia đình Thiên hoàng (1789), Sadanobu từ chức, ông mới thong thả làm theo ý mình. Nhất là người kế nhiệm Sadanobu là Mizuno Tadaakira thì tỏ ra rộng rãi với Ôoku, dùng họ làm đồng minh để trục lợi nên được sự tín nhiệm của Ienari. Thế nhưng trong khi lui về Ôgosho và sống đời xa xỉ thì Ienari đã làm cho tài chánh mạc phủ kiệt quệ. Cùng lúc, vùng nông thôn Kantô bị bỏ hoang phế đã gây ra nạn đói, các vụ nổi loạn (ikki), đập phá (uchikowashi) liên tiếp xảy ra và tàu chiến nước ngoài bắt đầu kéo đến. Tất cả đặt Nhật Bản vào trong tình cảnh “nội ưu ngoại hoạn”.

Tranh minh họa cuộc sống ở Ôoku

 5.2 Chính sách đối phó với cảnh hoang phế của vùng nông thôn:

Thời kỳ gọi là Kasei (Hóa Chính) này có hai vấn đề nan giải cho nhà nước, đó là khó khăn về mặt ngoại giao và nạn mất mùa. Nạn mất mùa tự động châm ngòi cho những cuộc nổi loạn của nông dân (ikki) và những cảnh tượng bạo động đập phá trong thành phố (uchikowashi).

Trong vùng Kantô, ở nông thôn thì giới con buôn và địa chủ càng ngày càng gia tăng thanh thế. Số nông dân bị mất đất tăng nhiều và ruộng vườn không ai canh tác đã bày ra cảnh hoang phế. Những dân vô gia cư và bài bạc đầy dẫy quanh thành phố Edo làm cho trị an xấu đi. Một nơi gọi là thang mộc ấp (hizamoto) của mạc phủ như Edo mà phải chịu cảnh hỗn loạn như vậy thì không thể nào mạc phủ làm ngơ cho được. Năm 1802 (Bunka 2), họ thiết lập mới cơ sở hành chánh mới có tên Kantô Torishimari Shutsuyaku để kiểm soát vùng Kantô. Theo đó, nhà nước tuyển mộ trong đám viên chức hành chánh của quan cai trị (daikan) bắt đầu là một nhóm 8 người, hai người làm một tổ đi đôi với nhau để tuần tra trong 8 châu của vùng Kantô (gọi là Kanhasshuu =Quan bát châu) để lùng những kẻ phạm tội mà không cần phải để ý chỗ đó thuộc lãnh địa của lãnh chúa nào. Hai chữ Shutsuyaku (Xuất dịch) có ý nói đây là một chức kiêm thêm của nhân vật đó, vốn có một nhiệm vụ khác. Sau đó thì chữ dùng này trở thành phổ thông để chỉ viên chức trông coi trị an vùng Kantô. Đây là một đặc điểm của thời Bunka.

Đến năm 1827 (Bunsei 10), nhà nước lại lập ra tổ chức cộng đồng bảo vệ trị an tên là Yoseba Kumiai (Ký trường tổ hợp). Tổ chức này cũng có quyền hoạt động trên một địa bàn rộng, không kể ranh giới giữa các lãnh địa mạc phủ trực quản, lãnh địa tư hay lãnh địa của tự viện. Hó có nhiệm vụ chấn chỉnh phong tục và duy trì trật tự nông thôn.

5.3 Văn hoá thời Kasei:

Văn hóa Kasei:

Trong bối cảnh của một thành phố Edo phồn thịnh, nền văn hóa này đã được những người dân sinh hoạt trong hàng phố ra tay đảm nhiệm. Không cần phải nói, Edo cũng chẳng thua kém gì Ôsaka và Kyôto, hai thành phố của vùng Kamigata là đất đế đô. Ở Edo, vào thời toàn thịnh của nó nghĩa là trong thời kỳ Bunka Bunsei, ta có thể thấy tất cả mọi dạng thức tiêu biểu của nền văn hóa đô thị. Ví dụ như lối để tóc bới lên với chỏm tóc hình nhành lá ngân hạnh (ichô) - một trong những nét thẩm mỹ thời thượng của người dân Edo ( Iki de inase) - cũng đã ra đời trong giai đoạn này.

Nói về văn hóa tất phải bước qua lãnh vực văn học.Đề tài của văn học Edo hậu kỳ tức giai đoạn chúng ta đang bàn thường lấy đề tài từ những hiện tượng chính trị và xã hội.Nhờ có sự xuất hiện của các nhà xuất bản và tiệm cho mướn sách (kashihon.ya) mà quần chúng đã làm quen được với văn chương và sách vở. Người bình dân thời Edo hậu kỳ ham mê đọc sách, họ dành cho nó rất nhiều thời giờ.

Về thể loại tiểu thuyết thì trong thời kỳ này, loại ukiyozôshi (phù thế thảo tử, tiểu thuyết xã hội) đã bị suy thoái. Thay vào đó, loại kusazôhi (thảo song tử) vừa có chữ viết vừa có tranh minh họa dễ đọc hơn và dễ đi vào lòng người hơn nên ăn khách. Cùng lúc, loại sharebon (tửu lạc bản) kể chuyện huê tình ở các xóm lầu xanh với giọng điệu đùa cợt cũng được người đời mến chuộng. Đó là chưa kể hai thứ sách mà tên tuổi được gọi theo màu bìa là kibyôshi (hoàng biểu chỉ) và aobyôshi (thanh biểu chỉ). Đối tượng độc giả của chúng là những người ở tuổi trưởng thành. Vì hàm ý phúng thích lại kèm theo tranh ảnh nên chúng rất được hâm mộ trong thời kỳ đaji thần Tanuma Okitsugu lãnh chức Rôjuu.

Thế nhưng các loại sách huê tình sharebon và bìa vàng kibyôshi bị kết án là vi phạm thuần phong mỹ tục nên phải chịu sự đàn áp của chính quyền thời Kansei (Khoan Chính, 1789-1801). Lúc đó là thời điểm nhà nước đang chủ trương chống văn hóa đồi trụy. Tiêu biểu cho sự khắt khe của họ là việc nhà văn Santô Kyôden (Sơn Đông Kinh Truyền, 1761-1816) vì viết Shikake Bunko (Cái hòm áo xống diễn trò) kể lại cuộc đời của người con gái làng chơi xóm yên hoa Fukagawa mà bị mạc phủ xử phạt. Chính vì thế mà sau đó, ông phải đổi qua thể loại khuyến thiện trừng ác với đề tài lịch sử và truyền thuyết để giữ vững cái cần câu cơm. Một nhà văn khác, Koikawa Harumachi (Luyến Xuyên Xuân Đính, 1744-1789) khi viết Ômugaeshi bunbu no futamichi (Anh vũ phản văn võ lưỡng đạo) có ý phúng thích cuộc cải cách của Sadanobu (anh vũ = ômu là con két) nên cũng chịu sự đàn áp. Bên cạnh các loại sách nói trên, vào thời này còn có các tokuhon (độc bản) với đề tài khác nhau. Nhà văn Ueda Akinari (Thượng Điền, Thu Thành, 1734-1809) – người có lần tranh luận với nhà quốc học Motoori Norinaga (Bản Cư, Tuyên Trường, 1730-1801) đã dựa trên tiểu thuyết cổ điển của Trung Quốc và Nhật Bản để viết tập truyện về ma quái nhan đề Ugetsu Monogatari (Vũ nguyệt vật ngữ, Chuyện đêm mưa trăng lu). Takizawa Bakin (Lũng Trạch Mã Cầm, 1767-1848) – cũng có tên là Kyoikutei Bakin (Khúc Đình Mã Cầm) - trong tác phẩm Nansô Satomi Hakkenden (Nam Tổng Lý Kiến Bát Khuyển Truyện) đã dựng nên 8 nhân vậy dòng dõi của một con linh khuyển đã giúp người chủ họ Satomi (Lý Kiến) ở vùng Awa (Nam Tổng, Chiba) tái tạo được cơ nghiệp. Bakin còn lấy đề tài về người anh hùng thời trung cổ Minamoto no Tametomo (Nguyên, Vi Triều, 1139-1170) sau cuộc loạn Hôgen (tháng 7/1156) đã phải lưu lạc xuống miền Izu Ôshima, để sáng tác Chínetsu Yumiharitsuki (Xuân thuyết Cung Trương Nguyệt). Chinsetsu có nghĩa là “truyện mới” nói về Tametomo, người nổi tiếng giỏi về nghề cung tiễn (dương cung như vầng trăng).

Nhà văn Takizawa Bakin

Ngoài Edo, cũng nên biết về những gì xảy ra ở địa phương. Có một nhà văn người địa phương Echigo (Việt hậu) mà Bakin giao du rất thân thiết, đó là Suzuki Bokushi (Linh Mộc, Mục Chi 1770-1842). Ông là người đã giới thiệu về cuộc sống ở xứ tuyết này trong tác phẩm Hokuetsu Seppu (Bắc Việt tuyết phổ). Còn như Sugae Masumi (Quản Giang, Chân Trừng, 1754-1829) người vùng Mikawa và sống cùng thời với Bokushi thì ông đã đi hết các vùng miền Tôhoku (Đông Bắc) để thu thập tài liệu viết một tác phẩm có giá trị dân tộc học và văn hóa học, đó là cuốn Sugae Masumi yuuranki (Hồi ký du lịch của Sugae Masumi). Bokushi đã đứng trên lập trường của giai cấp trung gian ở địa phương khi viết tác phẩm của mình. Giai cấp trung gian là những kẻ đứng ở giữua kẻ cai trị và kẻ bị trị, nói theo ngôn ngữ hiện đại thì là một giai tầng cao hơn giai cấp trung lưu một chút.Theo ông, giới này là những người có cuộc sống kinh tế an định, sống phong lưu và yêu chuộng sự thanh nhã nên có thể đóng vai trò kết nối văn hóa địa phương với văn hóa đô thị mà tiêu biểu là văn hóa Edo.

Đến thời Bunka (1804-1818) thì cùng với trào lưu của thời đại, người ta thấy xuất hiện các tác phẩm có tính hoạt kê, bông đùa, phản ánh qua cuộc sống vui nhộn thường nhật của người bình dân qua những mẩu đối thoại giữa họ. Loại kokkeibon (hoạt kê bản) này thay vào chỗ loại sách sharebon huê tình, nạn nhân của chính sách văn hóa thời Kansei (Khoan Chính, 1789-1801) kiểm soát việc xuất bản. Những tác giả và tác phẩm tiêu biểu cho thể loại này là Shikitei Sanba (Thức Đình Tam Mã, 1776-1822), với Ukiyoburo (Phù thế phong cung, kể chuyện đời sống của khách hàng lui tới các nhà tắm công cộng) và Ukiyodoko (Phù thế sàng, kể chuyện xảy ra ở những tiệm làm dịch vụ bới tóc), cũng như nhà văn Jippensha Ikku (Thập Phản Xá, Nhất Cửu, 1765-1831) với tác phẩm Tôkaidôchuu hizakurige (Đông Hải Đạo trung tất lật mao), kể về cuộc sống rày đây mai đó nhưng đầy chuyện lý thú của hai chàng lãng tử Yaji và Kita trên con đường Đông Hải Đạo nhiều hàng quán và người qua lại.

Kể từ đời Bunsei (1818-1831) trở đi, loại tiểu thuyết nịno ôbon (nhân tình bản) tức tiểu thuyết tình cảm nói về luyến ái trong đời sống của người dân Edo thành ra rất được yêu chuộng, đóng được vai trò thay thế cho sharebon huê tình bị nhà nước lên án. Thế nhưng dù chỉ là tiểu thuyết tình cảm, đến năm Tenpô (Thiên Bảo, 1831-1845), chúng cũng bị đàn áp. Những người như Tamenaga Shunsui (Vi Vĩnh, Xuân Thủy, 1790-1843) và đám đệ tử của ông – những tác giả ăn khách được biết đến ở các tiệm cho mượn sách – cũng bị mạc phủ xử phạt.

Về mặt thi ca thì trong thể loại thơ haikai, ở Kyôto có nhà thô Yosa Buson ( Dữ Tạ Vu Thôn, 1716-1788). Ông có sáng kiến cải cách lối làm thơ theo thể điệu của các “hội thơ hàng tháng” (tsukinami-chô). Ông chủ trương “trong thi phải có họa” (gahai itchi = họa hài nhất trí) nghĩa là qua những vần thơ, người ta phải có cảm tưởng như đang xem một bức họa.Thí nghiệm này đã đem đến cho thi đàn thời Tenmei (Thiên Minh, 1781-1789) một phong cách haikai mới. Các đệ tử của ông đã biên tập được Buson Shichibushuu (Vu Thôn thất bộ tập). Ngoài tài làm thơ, Buson còn vẽ rất đẹp. Ông đã hợp tác với họa gia Ike no Taiga (Trì, Đại Nhã, 1723-1776) để tạo ra bức tranh Juuben juugizu (Thập tiện thập nghi đồ) nói về 1o điều tiện lợi và 10 điều thích hợp cho con người khi sống ẩn cư ở chốn núi rừng. Đề tài lấy theo ý của nhà soạn kịch đời Thanh sơ là Lý Ngư (tức Lý Lạp Ông, 1611-1680). Đó là một tác phẩm tiêu biểu của phong cách văn nhân họa. .

Ngoài ra, khi bước vào thời Kasei, ở vùng Shinano có nhà thơ Kobayashi Issa (Tiểu Lâm Nhất Trà, 1763-1827) - gọi tắt là Issa – đã viết tập thơ có tính cách nhật ký nhan đề Ora ga haru (Mùa xuân của tôi) để tả cảnh sinh hoạt nông thôn nơi quê nhà. Thế rồi lại thêm nhà thơ Karai Senryuu (Bính Tỉnh Xuyên Liễu, 1718-1790) với tập haikai có tính phúng thích tên là Haifuu yanagidaru (Những bài thơ bài báng của Senryuu) nhưng qua cách ví von thơ mình với “những chén rượu bằng gỗ liễu” vì chữ liễu (ryuu) có trong bút hiệu của ông, Loại thơ senryuu có tính chọc phá này rất được người đời tán thưởng. Nhay chữ Haifuu đáng lẽ viết bằng 2 chữ Hán Bài phong tức “phong cách thơ haikai” với chữ “bài bộ nhân đứng” thì lại viết bằng chữ “bài bộ ngôn” với ý bài xích. Bên cạnh Senryuu là hai nhà thơ Ôta Nanbo (Đại Điền Nam Mẫu, 1749-1823) bút hiệu Shokusanjin (Thục Sơn Nhân) và Ishikawa Masamochi (Thạch Xuyên Nhã Vọng, 1753-1830) tức Yadoya no Meshimori (Dã Ốc Phạn Thịnh) là hai bậc đại sư trong ngành kyôka (cuồng ca), một loại thơ hoạt kê hạ cấp nhưng có nguồn gốc lâu đời. Tất cả nhằm phê phán hành động của người cai trị và phúng thích thói hư tật xấu trong xã hội. Ví dụ Ôta Nanbô dưới một biệt hiệu khác là Yomonoakara (Tứ Phương Xích Lương) đã làm những câu thơ kiểu: “Trên đời nếu tửu sắc là kẻ địch. Hãy mau mau kiếm địch mà đụng một trận cho nhanh”. Senryuu thì viết “Khi con cái muốn báo hiếu thì cha mẹ làm gì còn đó nữa”. Nói chung thì cả xuyên liễu lẫn cuồng ca đều là những loại thơ nói móc, xốc hông như vậy.

Sinh hoạt của người bình dân sống động như thế đã mang lại sinh lực cho bộ môn tiêu khiển nên tuồng kịch rất phát triển. Vào tiền bán thế kỷ 18, có nhà soạn kịch tuồng múa rối nhân hình Jôruri là Takeda Izumo (Trúc Điền, Xuất Vân, 1691-1756), người đã từng làm việc dưới sự chỉ đạo bậc thầy của soạn giả lỗi lạc Chikamatsu Monzaemon. Ông đã mở rạp Takemoto (Takemoto-za), nơi đó cho diễn những tác phẩm của mình như Kanadehon Chuujinkura (Truyện 47 người samurai trung nghĩa), Kanke denju tenaraikagami (Tấm gương sáng của gia thần Tể tướng Sugawara no Michizane), Yoshitsune Senbonsakura (Tướng Yoshitsune thời ở vùng Yoshino có nghìn cội đào). Mặt khác, môn đệ của Takeda là Chikamatsu Hanji (Cận Tùng Bán Nhị, 1725-1783) - người cũng là con nuôi của Monzaemon – đã giúp rạp Takemoto hồi sinh sau một thời gian Jôruri bị sân khấu Kabuki đè bẹp.

Bảng so sánh 3 nền văn hoá tiêu biểu thời Edo[130]

(Sinh hoạt của người bình dân trong xã hội phong kiến)

Giai đoạn Genroku (1688-1703) là lúc người Nhật vừa bước ra thời Sengoku chiến loạn, Nhật Bản có hơn 70 năm liên tiếp thái bình, kinh tế đất kinh kỳ phồn vinh nên có cuộc sống hào nhoáng. Một trăm năm sau tức vào niên hiệu Bunka và Kasei thì mọi hoạt động văn hoá dời về Edo, đô thị mới có phủ chúa. Văn hoá của công khanh, vũ gia và phú thương nhường chỗ cho văn hoá người thành thị (chônin).

Tuy nhiên, nhìn chung thì với gần 3 thế kỷ liên tục tỏa quốc, hầu như cắt đứt mọi liên lạc với bên ngoài và được hưởng bầu không khí xã hội an định với sự xác lập chế độ thân phận (sĩ = 6-7%, nông = 80-85%, công và thương = dưới 10%), Nhật Bản đã có cơ hội phát triển nền văn hoá đặc thù của mình.

 

Yếu tố

Văn hóa Kan.ei (Khoan Vĩnh) (tiền bán thế kỷ 17)

Văn hoá Genroku (Nguyên Lộc) (cuối thế kỷ 17)

Văn hoá Kasei (Văn Hoá và Hoá Chính) (tiền bán thế kỷ 19)

Những người chủ đạo

Công khanh, vũ gia và phú thương

Phú thương

Người thành thị

Vùng đất trung tâm

Kyôto

Ôsaka và Kyôto

Edo

Tác phẩm đại biểu

Lăng Tôshôguu (Nikkô), Ly cung Katsura (Kyôto), Tranh fusumae trong phương trượng chùa Daitokuji (Kyôto)

Tranh Mỹ nhân quay nhìn (Mikaeri bijin), tiểu thuyết Kôshoku ichidai otoko (Một đời trai đắm sắc), Tùy bút Đường mòn miền bắc (Oku no hosomichi)

Bộ tranh Năm mươi ba nhà trạm trên đường Tôkaidôô (Tôkaidô gojuusanji), Bát khuyển truyện (Nansô Satomi Hakkenden), Cổ sự ký truyện (Kojikiden), Giải thể tân thư (Kaitai shinsho)

Đặc trưng

Kế thừa sự hào nhoáng của thời đại Momoyama

Hoa lệ nhưng với mức độ phải chăng, hợp lý

Hưởng lạc, đồi phế và đại chúng hoá.

Đến đây, chúng ta hãy rời sân khấu văn hóa nghệ thuật để bước qua sân khấu chính trị để xem lúc bấy giờ mạc phủ đã cải cách chính trị như thế nào./.

tin tức liên quan

Thống kê truy cập

114573853

Hôm nay

290

Hôm qua

2334

Tuần này

21399

Tháng này

220910

Tháng qua

130677

Tất cả

114573853