Mùa màng thất thoát đến hơn phân nửa là một con số đáng phải báo động. Thử tưởng tượng hoàn cảnh một người dù xưa hay nay mà mức sinh hoạt chỉ còn ở dưới mức một phân nửa!Dĩ nhiên dân chúng vô cùng khốn đốn.
Lúc bấy giờ, vai trò của người làm chính trị đáng ra phải được xét lại. Nhưng khi ấy, Nhật Bản vẫn sống dưới chế độ Ôgosho (Đại ngự sở) của Shôgun Ienari. Ngoài cuộc sinh hoạt hoa mỹ, ăn chơi xa xỉ của nhà chúa còn kèm theo chính trị hối lộ của chức thủ tướng (rôjuu) Mizuno Tadaakira (Thủy Dã, Trung Thành, 1762-1834). Tuy rằng trong vùng Edo, người ta đã nghĩ đến việc lập những cơ sở cứu đói, cung cấp lương thực và vật tư cho kẻ lâm vào bước đường cùng nhưng việc đó chỉ đỡ được nhất thời chứ không sao ngăn nổi cảnh người bệnh và người chết đói xuất hiện nhan nhản trên đường phố.
Đặc biệt năm 1833, lúc miền Tôhoku bị lũ lớn, Kantô cũng mưa to nên Nhật Bản lại lâm vào cảnh mất mùa.Từ lúc ấy cho đến năm 1839 (Tenpô 10), đói kém xảy ra liên tục và trãi rộng ra trong phạm vi toàn quốc.Riêng miền Tôhoku là thiệt hại nhiều nhất: ở Tsugari có 10 đã thất thu đến 9, ở Shirakawa có 10 đã mất đến 8, số người chết đói mỗi lúc càng nhiều.Những vùng đô thị và nông thôn khác thì đầy người nghèo khổ và những cuộc bạo động đập phá xảy ra như cơm bữa.
Thế rồi đến năm 1836 (Tenpô 7) nạn đói càng trở nên trầm trọng. Địa phương Gunnai thuộc xứ Kai vì nhiều núi không thuận tiện cho việc trồng lúa, chuyên môn nuôi tằm, nay thì tơ bán không ai mua, gạo lại không có, nên khắp chốn bạo động nổi lên. Ước chừng một vạn dân từ khoảng 80 thôn xã đã tham gia vào cuộc nổi loạn nông dân (ikki) đó. Cùng lúc, ở vùng Mikawa (Shizuoka) lại có cuộc nổi loạn gọi là Kamo Ikki (Gia Mậu Nhất Quỹ), số người tham gia lên đến 1 vạn 2 nghìn từ 240 thôn xã.
Nạn đói lan đến cả những thành phố lớn như Ôsaka. Người đói theo nhau lăn ra chết. Thế nhưng các tay phú thương thì tích trữ gạo để đợi giá hời, còn các quan hành chánh bugyô lại không đưa ra được một chính sách gì để cứu đói. Ngược ngạo hơn nữa là trong khi Ôsaka khổ vì thiếu gạo như vậy, mạc phủ lại bắt phải chở gạo về Edo cho đúng qui định. Điều này có mục đích nhằm gây quĩ để có tiền mở tiệc mừng tân Shôgun vừa mới nhậm chức. Hành động ấy chính là giọt nước tràn ly và là mồi dẫn hỏa cho cuộc nổi loạn của Ôshio Heihachirô (Đại Diêm Bình Bát Lang, 1793-1837), xảy ra vào năm 1837 (Tenpô 8).
Năm đó, một chức tiểu lại cầm đầu dân binh coi trị an (yoriki =dữ lực = quan nhỏ giúp việc cho bugyô) tên là Ôshio Heihachirô đã vận động môn đệ và dân chúng làm một cuộc khởi nghĩa võ trang. Dĩ nhiên, ông xướng lên việc ấy chỉ nhắm mục đích cứu tế những người dân cùng khổ. Chính ra, lúc ấy Heihachirô không còn giữ chức yoriki nữa mà đã lui về ở ẩn. Ông lập một ngôi trường tên Senshindô (Tẩy tâm động = Hang động di dưỡng tính tình) làm nơi rao giảng triết học Vương Dương Minh cho học trò.Nhân được tin trong vùng xảy ra vụ náo loạn, ông cảm thấy nguy cơ đã đến, nên thưa lên mạc phủ xin hãy có kế sách gì để khỏi đưa đến thãm họa nhưng rốt cuộc, ông vô cùng bất mãn với phản ứng tiêu cực của mạc phủ trước tình thế. Nghĩ rằng mình không thể điềm nhiên tọa thị hay bàn suông và để cứu giúp dân chúng, ông đã bán sạch thư viện đầy sách quí của mình, được hơn 660 lạng và đem tất cả để chia sẻ cho dân nghèo.Lúc tiền đã cạn, ông quyết tâm khởi nghĩa.
Cuộc nổi loạn của phe ông, mạc phủ chỉ cần có nửa ngày đã trấn áp được. Thế nhưng giữa một thành phố trực quản bởi nhà chúa như Ôsaka, nơi lực lượng hành chánh và quân sự bảo vệ rất là hùng hậu, nhóm người của ông đã dám công nhiên đối chọi lại bằng vũ lực. Điều đó đã để một ấn tượng sâu sắc về sức mạnh của quần chúng cho mạc phủ và lãnh chúa các phiên trấn thấy.
Âm hưởng của cuộc nổi loạn này chẳng bao lâu lan ra toàn quốc. Hô ứng cho nó là một cuộc nổi dậy khác ở vùng Kashiwazaki thuộc Echigo do học giả quốc học Ikuta Yorozu (Sinh Điền, Vạn) khởi xướng. Ông tự xưng là môn đệ của Heihachirô, huy động mọi người đến tấn công dinh thự quan sở tại. Cùng lúc đó, vì tình trạng thiếu gạo và lương thực, bầu không khí bất ổn đe dọa cả vùng Edo. Thế nhưng,nơi đây, mạc phủ đã cố gắng mở những trạm cứu tế, phát chẩn gạo tiền cho cùng dân nên đã chặn đứng được những cuộc đập phá đáng lẽ phải xảy ra.
Senshindô satsuki là quyển sách như thế nào?[131]
Senshindô satsuki (Tẩy Tâm Động cháp ký) là tác phẩm của nhà nho và nhà hành động đời Edo trung kỳ, Ôshio Heihachirô (Đai Diêm Bình Bát Lang, 1753-1837). Sách viết bằng chữ Hán, có 2 quyển. Quyển thượng có 180 điều, quyển hạ có 138 điều, ra đời năm Tenpô 4 (1833) và là một tập tùy bút mà tác giả viết ra khi đã từ quan và lui về sống ẩn cư ở một nơi gọi là Senshindô (Tẩy tâm động) ý nói nơi để lòng mình rửa sạch được bụi trần. Đây là thư trai nhưng cũng là nơi ông dạy học. Satsuki (cháp ký) có nghĩa “ghi lại cảm tưởng sau khi đọc sách”.
Ông cho rằng con người nếu đọc sách thánh hiền mà không đem ra dùng được thì sống vô nghĩa, có khác chi một nhà kho chứa sách. Do đó, ông theo chủ trương của Vương Dương Minh là sự hiểu biết phải đi đôi với việc làm và ông đã hy sinh cả cuộc đời của mình để chứng tỏ điều đó.
Sách Senshindô satsuki có chép những câu như sau: “Sinh mệnh sẽ bị hư mất, trong khi điều nhân là cái đức bất diệt giữa thái hư. Thế thì cớ sao ta lại bỏ cái vĩnh viễn bất diệt để đeo đẳng cái dễ bị hư mất. Vì vậy, người chí sĩ và kẻ có lòng nhân không hề tiếc tính mệnh để thực hiện được điều nhân”. “Vương Dương Minh nói: Tri thức là đầu mối của hành động .Hành động là sự hoàn thành của tri thức. Nếu muốn đạt đến chỗ cùng cực của đạo lý thánh hiền thì chỉ có một con đường: không chia tri thức và hành động ra làm hai việc khác nhau.”. “Con người không bao giờ được đánh mất tấm lòng trong trắng của một đứa trẻ thơ” (xích tử chi tâm, đồng tâm)”.
6.2 Tư tưởng Dương Minh học và Quốc học đứng trước thời cuộc:
Sau cuộc nổi dậy của Ôshio Heihachirô và Ikuta Yorozu, mạc phủ bèn thực thi một cuộc cải cách nữa có tên là Cải cách năm Tenpô (Thiên Bảo) dưới sự chỉ đạo của Mizuno Tadakuni (Thủy Dã Trung Bang, 1794-1851).Trước khi bàn về nội dung cuộc cải cách này, thiết tưởng cũng nên mào đầu bằng cách trở lại câu chuyện các cuộc vận động của Dương Minh học và Quốc học, hai trào lưu tư tưởng đã làm bùng lên những cuộc nổi loạn khiến cho mạc phủ phải hoảng sợ.
Điểm chung của hai học phái này là thái độ phê phán nghiêm khắc của họ đối với chính trị của mạc phủ.Trước hết, hẵn nói về Dương Minh học. Xin xác nhận một lần nữa đây là cái học chủ xướng bởi Vương Dương Minh, một nhà nho và quan lại đời Minh. Ông Vương chịu ảnh hưởng của đại nho đời Tống là Lục Tượng Sơn (1139-1192)[132]. Người theo Vương đầu tiên ở Nhật là Nakae Tôju (Trung Giang, Đằng Thụ, 1608-1648), sau đó mới đến các tư tưởng gia như Kumazawa Banzan (Hùng Trạch Phiên Sơn, 1619-1691). Đối với Nho học của Chu Hi nhà nước xem là quan học vì coi trọng đại nghĩa danh phận, chứ Dương Minh học, tuy vẫn thuộc đạo Nho, nhưng lại bị nhà nước cho là một thứ tư tưởng dị đoan. Bởi vì theo Dương Minh học, phán đoán một hành vi là chính đáng hay không chỉ vào lúc nó được đem ra thi hành. Họ Vương chủ trương “tri hành hợp nhất” nghĩa là nếu một lời nói hay tư duy không thể hiện bằng việc làm thì không thể nào là nền tảng cho sự đánh giá. Vì thế, trước tình trạng đất nước Nhật Bản thời đó, thái độ của người theo Dương Minh học chỉ có thể là là phê phán nhà đương cục.Dĩ nhiên, đối với những kẻ coi đại nghĩa danh phận trên hết như mạc phủ, thì họ phải ra tay đàn áp những ai đứng trên một lập trường chống đối như thế.
Còn như Quốc học thì nó là một trường phái phát triển từ thời Edo trung kỳ về sau. Nói cho dễ hiểu một chút thì đó là khuynh hướng tìm xem trong các tác phẩm cổ điển Nhật Bản đâu là tinh thần dân tộc vốn có của nước mình.Nó đã phát triển từ môn học gọi là Wagaku (Hòa học) khởi đầu từ tiền bán thế kỷ 17. Wagaku đã thực hiện những công trình nghiên cứu về bản chất Nhật Bản xuyên qua thơ waka và tác phẩm cổ điển. Đáng lưu ý là các học giả như Shimokobe Chôryuu hay Nagaru (Hạ Xuyên Biên Trường Lưu, 1627-1686), Kitamura Kigin (Bắc Thôn Quí Ngâm, 1624-1705) và Toda Mosui (Hạ Điền Mậu Thụy, 1629-1706). Từ đó nhóm này đi đến chủ trương bài trừ các hình thức tư duy đến từ bên ngoài, thuyết phục mọi người tìm về một nước Nhật giống như thời xa xưa. Hệ luận của chủ trương ấy là tư tưởng tôn vương nhương di (phò vua, đuổi bọn di địch). Mong muốn phục hồi một nước Nhật trong quá khứ của họ cũng có nghĩa là sự hoài nghi trước tình hình hiện tại. Chúng ta có thể vẽ ra hệ phổ các học giả quốc học theo đồ biểu dưới đây:
Hệ phổ của các nhà Quốc học
(lúc họ ở tuổi trên dưới 40)
Niên đại
|
|
|
|
1680
|
Keichuu
Toda Mosui
|
|
|
1700
|
|
Kada no Azumamaroà
|
|
1720
|
|
|
|
|
1740
|
|
àKada no Arimaro
(học Azunamaro)
|
àKamo no Mabuchi
(học Azumamaro) à
|
1760
|
|
|
|
|
1780
|
|
|
àKatô Chikage
àMurata Harumi
àMotoori Norinagaà
àHanawa Hokiichi (cả 4 đều học Mabuchi)
|
1800
|
|
|
àBan Nobutomo
àHirata Atsutane (cả hai đều học Norinaga)
|
1820
|
|
|
|
Học giả có tên Kada no Azumamaro (Hà Điền Xuân Mãn, 1669-1736) vốn là đệ tử của nhà chú thích và cũng là nhà tư tưởng phục cổ Keichuu (Khế Trùng,1640-1701), một tăng lữ. Azumamaro làm quan giữ đền thần Inari ở Fushimi thuộc Kyôto. Vì ông là người đầu tiên dùng danh từ Kokugaku (Quốc học) nên có thể xem như ông đã khởi xướng phong trào. Đệ tử của ông có Kamo no Mabuchi (Hạ Mậu Chân Uyên, 1697-1769), người viết Kokushikô (Quốc sử khảo), trong đó cũng hô hào phục cổ. Theo ông “quốc ý” mới là tư tưởng thuần túy Nhật Bản từ thời cổ, lúc Nhật Bản chưa tiếp thu văn hóa Nho giáo và Phật giáo.
Thế rồi, trong đám đệ tử của Mabuchi có một học giả mù tên Hanawa Hokiichi (Khác塙, Bảo Kỷ Nhất, ? - 1576), vào niên hiệu Kansei đã nhận được sự yểm trợ của mạc phủ để lập một giảng đường gọi là Wagaku Kôdansho (Hòa học giảng đàm sở) đặt dưới sự giám sát của họ Hayashi (gia thần tin cẩn của nhà chúa về mặt tư tưởng). Nơi đây, các học giả Wagaku có thể giảng dạy và đàm luận về lịch sử nước nhà, đồng thời chấp bút soạn thảo sử liệu. Hanawa Hokiichi đã chủ biên một tác phẩm hết sức quan trọng cho việc nghiên cứu quốc sử. Đó là Gunshoruijuu (Quần thư loại tùng, 1779) vậy. Sách này như một bách khoa toàn thư gồm 665 quyển cho phần chính biên và 1.185 quyển cho phần tục biên, thu thập các tư liệu đời trước từ lịch sử, văn học, quan chế, luật lệnh cho đến y phục, trò tiêu khiển, săn bắn, ẩm thực, âm nhạc và tôn giáo, với ý định không bỏ sót một quyển sách quan trọng nào.
Mabuchi còn một môn đệ xuất sắc khác là Motoori Norinaga (Bản Cư Tuyên Trường, 1730-1801). Norinaga xuất thân thầy thuốc vùng Ise Matsuzaka (tỉnh Mie bây giờ, nơi nổi tiếng thịt bò ngon). Ông dùng nhà riêng mở một ngôi trường lấy tên Suzu no ya (Linh Ốc) hay Nhà Chuông, nơi đây ông thu nhận môn đệ theo học Quốc học. Ông đã đại thành phương pháp nghiên cứu tác phẩm cổ điển và hệ thống hóa tư tưởng phục cổ. Trứ tác tiêu biểu của Norinaga là Kojikiden (Cổ Sự Ký Truyện, 1767-1798) tức sách chú thích Kojiki (Cổ Sự Ký, 712), quyển sử đầu tiên của người Nhật. Ngoài ra phải kể đến Hihon Tamakushige (Hòm lược quí bí mật, 1787), 2 quyển, luận về kế sách kinh tế chính trị (đường lối phục cổ) nên theo mà ông đã dâng lên lãnh chúa phiên Kii là Tokugawa Harusada (Đức Xuyên, Trị Trinh), cũng như Tamakatsuma (Ngọc Thắng Gian, Lồng trúc đựng ngọc, 1793), một tùy bút 15 quyển, viết lúc cuối đời.Tuy nhiên ông được biết đến nhiều nhất vì đã chú thích Truyện Genji một cách cặn kẽ và những lời bình luận độc đáo về phạm trù mỹ học Mono no aware (Bi cảm của sự vật).
Chịu ảnh hưởng của Norinaga và sáng giá hơn cả có lẽ là Hirata Atsutane (Bình Điền, Đốc Dận, 1776-1843), người tự xưng “đệ tử của Motoori Norinaga sau khi thầy chết” (tử hậu môn nhân).Vào thời của Hirata Atsutane, tư tưởng phục cổ và lập trường quốc túy trong Quốc học càng ngày càng lập được cơ sở vững chắc. Trong dân chúng đã xuất hiện một thứ quốc học bình dân (thảo mãng Quốc học), liên kết với những cuộc vận động đòi cải cách chính trị và tư tưởng phò vua đuổi di địch. Nó đã ảnh hưởng lớn đến xã hội đương thời và góp sức vào việc hoàn thành một thứ Thần đạo phục cổ, được xem như tín ngưỡng cổ xưa và thuần túy của người Nhật trước khi Nho giáo và Phật giáo đặt chân lên quần đảo.Chính ra Ikuta Yorozu, người đã dẫn đầu cuộc khời nghĩa của đám dân cùng khổ đã thuật bên trên cũng là môn sinh của Hirata Atsutane. Lúc nổi dậy, ông xưng là “môn đệ của Ôshio Heihachirô” và tập kích công thự chức daikan ở Kashiwasaki thật đấy nhưng bản chất của hành động ấy chẳng qua nhằm thực hiện tư tưởng truyền thống của Thần đạo phục cổ và Quốc học, nghĩa là làm sao chấn chỉnh cho được chính trị của mạc phủ.
.jpg)
Tranh tự họa của nhà quốc học Motoori Norinaga
6.3 Mizuno Tadakuni bước lên sân khấu chính trị:
Năm 1841 (Tenpô 12), sau một thời gian dài đóng vai trò “thái thượng hoàng” ở Ôgosho, tiền Shôgun Ienari (Gia Tề) mất. Lúc đó, Shôgun đời thứ 12 là Ieyoshi (Gia Khánh, 1793-1853, tại chức 1837-1853) mới nắm được thực quyền, rảnh tay thi hành chính trị mình mong muốn. Ông đã tụ tập nhưng nhân vật thuộc phái cải cách chung quanh chức rôjuu là Mizuno Tadakuni (Thủy Dã, Trung Bang, 1794-1851) và ra lệnh cho họ làm cuộc cải cách năm Tenpô với mục đích củng cố quyền lực của nhà chúa.
Khi tiến hành nhiệm vụ này, Mizuno Tadakuni nhắm đạt những mục tiêu của hai cuộc cải cách Kyôhô (Hưởng Bảo) và Kansei (Khoan Chính) xảy ra trước đó. Mizuno bắt chước Yoshimune (thời Kyôhô) và Sadanobu (thời Kansei), lấy việc kiệm ước làm đầu. Do đó mới có câu chuyện là ông chỉ mặc áo dệt bằng vải mà thôi.
.jpg)
Đại thần Mizuno Tadakuni chủ trương kiệm ước tối đa
Lúc đó, Nhật Bản đã bước vào giữa thế kỷ thứ 19. Thời Kansei đã trôi vào xa xôi (50 năm về trước) mà thời Kyôhô lại còn xưa hơn nữa (100 năm trước). Thế nhưng xem chính trị của hai thời ấy như là lý tưởng để noi theo thì cũng chưa hẳn là một điều hoàn toàn đúng đắn. Trong ý hướng “lui về thời trước”, ta chỉ có thể xem việc cải cách Tenpô như thể là một phản ứng có tính “phong kiến phản động” (feudal reactionary) khi nó muốn xoá đi những tiến triển của xã hội đã xảy ra từ hai cuộc cải cách trước. Tuy nhiên, phải xem nội dung của cuộc cải cách Tenpô này như thế nào.
Chính sách của Mizuno đại để có thể chia ra làm 3 mục lớn:
-
Trong sinh hoạt dân chúng, phải chấn chỉnh, siết chặt lại phong tục;
-
Kiểm soát được hệ thống kinh tế;
-
Kiểm soát được hệ thống chính trị.
Về việc siết chặt những buông thả trong phong tục và sinh hoạt dân chúng, đối tượng của mục thứ nhất, thì Mizuno bắt mọi người phải sống kiệm ước để tránh tiêu pha lãng phí, nguyên nhân chính của cái nạn thiếu hụt tài chánh lúc bấy giờ. Thời Ôgosho với Ienari, hậu cung (Ôoku) của nhà chúa sống rất xa xỉ, cho nên từ đây, Mizuno xem tất cả mọi thứ xa xỉ là kẻ địch. Lệnh kiệm ước của ông rất nghiêm ngặt. Cụ thể là nó đã được áp dụng trong tất cả hoạt động xã hội từ cái ăn, cái mặc, đến lễ lạc, hội hè và mọi thứ tiêu khiển.Ví dụ hoa quả đầu mùa, các thức ăn hiếm hoi cao giá đều bị cấm, ba rạp hát Kabuki lớn (gọi là sanza = tam tòa) phải dời chỗ từ trung tâm thành phố ra ngoại ô. Các ngôi sao (tài tử tuồng kịch nổi tiếng) khi đi dạo phố phải đội nón đan bằng lác (amigasa) che mặt không cho ai thấy.
Thế rồi đến việc xuất bản. Vì cho rằng loại tiểu thuyết tình cảm (ninjôbon) vốn được người đời yêu chuộng là dụng cụ tiếp tay cho cuộc sống phóng đãng và hoang phí, mạc phủ đã xử tội còng tay nhà văn Tamenaga Shunsui (Vi Vĩnh Xuân Thủy, 1790-1843). Tội còng tay (tegusari) là một kiểu hình phạt đời Edo, tạm giữ để điều tra thì còng 5 hôm, còn xử phạt thì còng từ 30 đến 100 ngày. Tiểu thuyết ninjôbon của ông có những quyển nổi tiếng như Shunshoku umegoyomi (Cuốn lịch cảnh sắc hoa mơ mùa xuân) có nhiều chi tiết châm biếm thế tình, được xem là sách bán chạy hàng đầu như best seller ngày nay. Sau khi chịu cảnh xử phạt chẳng bao lâu, nhà văn qua đời.
Chính sách cơ bản thứ hai của mạc phủ nhằm kiểm soát hệ thống kinh tế. Họ đã phát lệnh Kabunakama kaisanrei (Lệnh giải tán các tổ hợp kinh doanh dưới dạng cổ phần) với mục đích quản lý được trực tiếp các con buôn ở địa phương (zaigô shônin = tại hương thương nhân) và làm cho vật giá tên thị trường phải hạ xuống. Lý do ban lệnh này khá dễ hiểu. Tổ hợp kinh doanh dưới dạng cổ phần tụ họp những thương nhân ngành nghề có tính cách bè đảng (nakama) và độc chiếm thị trường một mặt hàng nào đó. Họ chỉ phải trả hai thứ thuế thuế unjô (vận thượng, thuế lưu thông) và myôga (minh gia tức tiền dưỡng liêm cho công bộc dân). Ngày trước, dưới thời Kyôhô cho đến thời Tanuma Okitsugu thì lại khác. Lúc đó mạc phủ muốn bảo đảm một nguồn thuế mới cho nên tích cực thừa nhận hành vi ấy của các tổ hợp giữa nakama. Còn như hỏi thế chứ sao bây giờ lại phải giải tán họ thì cũng bởi vì các nhà buôn nakama ấy như nhóm Tokumitonya (Mười nhà buôn sĩ) đã hoành hành ở vùng Kamigata gần kinh đô và hè nhau độc chiếm việc phân phối hàng hóa khiến cho vật gia leo thang. Mạc phủ cũng hy vọng nhân việc ban hành lệnh này, các nhóm thương nhân địa phương (zaigô shônin) nghĩa là con buôn độc lập không ở trong tổ hợp, ở vùng phự cận Edo và vùng nông thôn, có cơ hội tự do cạnh tranh với các thành viên cũ trong tổ hợp, và điều đó sẽ làm cho vật giá phải xuống thang.
Thế nhưng lý do vật giá đùng đùng leo thang không phải là điều mạc phủ tưởng nhầm. Nguyên nhân thực sự của nó chính ra nằm ở chỗ số lượng sản phẩm từ nông thôn chở lên thị trường kinh kỳ (kamigata) đã bị thất thoát. Bởi vì trước khi chuyển vận chúng từ nơi sản xuất lên tới thị trường tiêu dùng thì chúng đã bị bán ra lẻ tẻ rơi vãi dọc tuyến đường, hoặc ở cảng Shimonoseki hoặc ở vùng biển nội địa Seto naikai.Nói cách khác, sự chuyển vận hàng hóa đã bắt đầu không còn tuân theo qui tắc cơ bản về lộ trình đã ấn định trước.
Vì cớ đó, việc giải tán các tổ hợp bạn hàng đã làm cho số hàng hóa đem lên Edo không đủ số. Hy vọng vật giá hạ xuống của mạc phủ cũng không thành, chẳng những thế nó còn đưa tới một hậu quả ngược. Do đó, đến năm 1851 (Kaei 4) tức 10 năm sau, mạc phủ đành cho phép các tổ hợp Kabunakama hoạt động trở lại.
Nếu đại thần Mizuno có muốn giải tán các tổ hợp Kabunakama cũng vì ông làm theo lối suy nghĩ đương thời.Một là vào tiền bán thế kỷ 19, tư tưởng tự do kinh tế đã nằm trong trước tác nhan đề Yume no shiro (Thay cho mộng) của học giả người thành phố (chônin gakusha) ở Ôsaka và có tiếng lúc đó, Yamagata Bantô (Sơn Phiến, Bàn Đào, 1748-1821). Trong sách ấy, ông đã đánh giá cao cơ năng giao hoán của thi trường gạo Dôjiima (Sở giao dịch mễ cốc thiết lập tại khu Dôjima theo hình thứ công ty cổ phần, sẽ phát triển qui mô giữa gai đoạn 1876-1939), điều chỉnh được giá gạo theo cán cân cung cầu. Ông cũng đã giải thích một cách chính xác qui luật và cơ cấu kinh tế của nó.Thêm vào đó, phải kể đến những gì nhà kinh tế học Satô Nobuhiro (Tá Đằng, Tín Uyên, 1769-1850) đã trình bày trong Keizai Yôroku (Kinh tế yếu lục). Theo ông, sản phẩm của các vùng đều là của cải trong nước, muốn chấn hưng sự sản xuất, chính phủ cứ việc đứng ra quản lý và buôn bán chúng. Tuy nhìên, có lẽ nên hiểu thâm ý ông là muốn mạc phủ phải xử sự như một thương nhân (thương nhân hoá mạc phủ).
Liên quan đến việc tái kiến vùng nông thôn đã trở thành hoang phế vì trận đói năm Tenpô (Tenpô 4 -7), mạc phủ đã siết chặt hệ thống Ninbetsuaratame (Nhân biệt cải, Nhân số cải, tức việc kiểm tra hộ tịch). Luật gọi là Hitogaeshi no hô (Luật trả người đào vong về bản quán) cấm không cho nông dân bỏ xứ đi kiếm ăn và cưỡng chế những bần dân sống bám vào thành phố Edo phải trở về chánh quán.Khổ là khi làm như thế thì dân lang bạt vô gia cư (rônin) tuy bỏ Edo đi nhưng lại vẫn quanh quẩn ở vùng ngoại ô Edo, gây nên nhiều tệ hại, bất lợi cho việc trị an.
Chính sách cơ bản thứ 3 của mạc phủ là kiểm soát nội chính. Nó gồm 2 kế hoạch quan trọng. Trước hết, kế hoạch thứ nhất là Sanpôryôchigae (Tam phương lãnh tri thế), một kế hoạch đã bị bãi bỏ vào năm 1840 (Tenpô 11). Kế hoạch này sở dĩ được cho là quan trọng vì đã ... thất bại. Nó vốn nhằm thực hiện một cuộc trao đổi nhiệm sở (sanpôryô = 3 lãnh địa) giữa chủ nhân ba phiên trấn Kawagoe (15 vạn thạch thóc, xứ Musashi), Shônai (14 vạn thạch thóc, xứ Dewa) và Nagaoka (7 vạn thạch thóc, xứ Echigo). Cả 3 đều nằm ở phía bắc Edo. Việc “chuyển phong” (tenbô) giữa những phiên trấn vốn không phải là điều đáng để ai phải ngạc nhiên nhưng khốn nỗi, nó đã vấp phải sức chống đối của nông dân phiên Shônai đến độ phải triệt hồi. Sự việc như thế đã làm mạc phủ khổ tâm không ít.
Thế nhưng cớ gì nông dân phiên Shônai (Trang Nội) ấy lại phản đối như vậy ? Lý do là chủ phiên Kawagoe, người nhận nhiệm vụ phòng thủ vùng duyên hải Edo lại là con trai thứ 24 của “thái thượng hoàng” Shôgun tiền nhiệm, Ôgosho Ienari! Ông ta mong mỏi được chuyển phong về Shônai, một nơi ít nhiệm vụ mà lại béo bở vì dân chúng ở đó có sức sản xuất cao. Nông dân phiên Shônai hết sức phản đối sự có mặt của phiên chủ Kawagoe vì ông này nổi tiếng hà khắc trong việc thu đoạt tuế cống. Kết cục, nếu rút lại lệnh đưa cậu ấm đến cai trị miếng đất màu mỡ ấy thì mạc phủ sẽ mất uy tín nên Mizuno Tadakuni định tiếp tục làm liều. Có điều Shôgun Ieyoshi (Gia Khánh) không cực đoan như thế nên đã hạ lệnh bắt ngưng. Dù sao, việc mạc phủ trước ra lệnh “chuyển phong” rồi sau bị áp lực của dân chúng mà phải triệt hồi là một sự kiện chưa từng có. Cho dù không phải là trách nhiệm của Mizuno Tadakuni đi nữa, nó đã chứng minh rằng những gì xảy ra ở các phiên từ đây sẽ ảnh hưởng tới việc điều hành chính trị ở trung ương.
Một kế hoạch thứ hai cũng bị thất bại như thế. Đó là lệnh Jôchirei (Agechi-rei, Thượng tri lệnh). Lệnh này nhằm củng cố việc phòng thủ quân sự, an định tài chánh cho hai thành phố lớn và vùng phụ cận của chúng với tư cách một khu vực mạc phủ trực quản vì nó có trị giá những 50 vạn thạch thóc. Thế nhưng dù đã chuẩn bị những miếng đất thay thế (daichi) để đổi lấy chúng, các daimyô và hatamoto đang giữ đất cũ không chịu thực thi kế hoạch khiến cho lệnh “dâng đất cho bề trên” này về sau đành phải ngưng lại.
6.4 Công nghiệp cận đại và việc cải cách chính trị mạc phiên:
Cho đến thời này, thể chế sản xuất mạc phiên vẫn còn dựa trên nông nghiệp. Của cải nhà nước đến từ sự trưng thu tuế cống của nông dân. Thế nhưng thể chế ấy đã đi đến chỗ tắc nghẽn và sự ra đời của công nghiệp cận đại có thể xem như một lý do quan trọng để giải thích tình huống ấy. Trước tiên, ta thử xem vào thời Edo, quá trình công nghiệp hoá xã hội Nhật Bản đã xảy ra như thế nào?
Sự công nghiệp hoá ấy bắt nguồn tự hồi đầu thế kỷ 17 nhưng công nghiệp –hay đúng hơn thủ công - lúc đó chỉ là một nghề phụ (phó nghiệp = fukugyô) của nhà nông. Nhân vì nguyên tắc sinh hoạt của nông dân là “tự cấp tự cúc”, tiêu thụ những gì chính mình làm ra, cho nên ban ngày thì làm việc đồng áng, tối về làm đôi việc thủ công ở nhà. Người ta gọi hình thức này là “công nghiệp tại gia ở nông thôn”. Kể từ khi tình trạng này bắt đầu cho đến giữa thế kỷ 18, nhà nông được sự giúp vốn và vật tư từ phiá các nhà buôn sỉ (ton.ya, toiya), một hình thức nhà thầu, hay lảnh lương của họ để chế tạo các thứ hàng hóa. Chế độ này mệnh danh “công nghiệp tại gia với vốn nhà buôn sỉ”. Ví dụ, vùng Kawachi (Hà Nội, phiá đông Ôsaka) là nơi nổi tiếng về may dệt, người ta thường thấy cảnh tượng nhà nông ngồi trước hiên nhà để thương thảo với con buôn ton.ya. Hình ảnh ấy được lưu lại trong các tập tranh vẽ cảnh sinh hoạt đương thời như Kawachi meisho zue (Hà Nội danh sở đồ hội) chẳng hạn.
Tình trạng ấy kéo đến thế kỷ 19 thì phát triển thêm một bậc. Ở các vùng sản xuất mạnh, một số địa chủ và con buôn xuất vốn đã bắt đầu xây dựng công xưởng riêng, tập họp người làm, phân chia cũng như kết hợp các nghiệp vụ trong mọi ngành nghề thủ công. Ta có thể gọi hình thức sản xuất này là “công nghiệp tại xưởng thợ” (manufactures). Ngành dệt vải chung quanh thành phố Ôsaka hay địa phương Owari (vùng Nagoya), ngành dệt lụa ở khu vực Kiryu và Ashikaga thuộc phiá bắc Kantô... đã bắt đầu từ giai đoạn đó. Thế nhưng khi công nghiệp đã phát triển như thế rồi thì việc duy trì được kinh tế nông nghiệp như xưa không phải là chuyện dễ. Lý do là một số bần nông và người phụ việc bỏ đi kiếm việc mới và trở thành lao động trong các công xưởng. Hiện tượng đó đã xảy ra trong ngành nấu rượu ở Itami, Ikeda và Nada thuộc xứ Settsu (gần Kyôto) và bắt đầu rất sớm, nghĩa là từ thế kỷ 17.
Thế rồi khi cấu trúc xã hội và kinh tế đã tiến hoá theo mô hình cận đại, mạc phủ và lãnh chúa các phiên trấn bắt đầu cảm thấy nguy cơ cho chế độ. Để đối phó, nhà nước nghe theo đề án của nhà khuyến nông Ninomiya Sontoku (Nhị Cung Tôn Đức, tức Ninomiya Kinjirô, 1787-1856) mà ban hành Hôtoku shihô (Báo đức sĩ pháp) chủ trương phải coi trọng cần lao và kiệm ước. Phép này đòi hỏi mỗi người chỉ được tiêu dùng trong phạm vi cần thiết và phải để dành ra một phần thu nhập để trong tương lai có thể giúp hay nhượng cho kẻ khác. Phép này còn kêu gọi hồi phục ruộng đất bị bỏ hoang, phục hưng nông thôn, nhưng trên thực chất đó là những phương pháp nhằm tái lập thể chế phong kiến.
Khổ cho nhà cầm quyền là lúc ấy Nhật Bản đã quen với việc sản xuất thương phẩm bằng vốn của thương nhân cũng như việc lao động để đổi lấy đồng lương. Họ không thể quay đầu lại được nữa. Không những thế, một số phiên trấn còn tích cực phát triển theo đường lối kinh tế mới này.Họ thiết lập những công xưởng do phiên trấn đứng ra kinh doanh (phiên doanh) và thực thi chế độ độc quyền buôn bán của phiên (chuyên mãi) Những sự thay đổi chính sách như thế này có tên là hansei kaikaku (phiên chính cải cách).
Xin tham khảo chính sách của hai phiên trấn tiêu biểu: Satsuma và Chôshuu, nằm trên đảo Kyuushuu và đã đóng vai trò rất lớn trong sự nghiệp cận đại hoá Nhật Bản.
Phiên Satsuma (Sát ma) từ lâu đã bị thâm thủng về mặt tài chính và rất khổ sở về điều đó.Lãnh chúa Shimadzu Shigehide (Đảo Tân, Trọng Hào, 1745—18339 mới thu dụng nhân tài để tái kiến tài chánh cho phiên. Nhân tài được bổ dụng tên là Zushô Hirosato (Điều Sở, Quảng Hương, 1776-1848), một samurai cấp thấp. Ông đã làm được cho phiên Satsuma 2 việc tối quan trọng. Trước tiên, ông tăng cường độc quyền buôn đường đen, sản vật của 3 đảo Ôshima, Tokunoshima, Kikaishima thuộc quần đảo Amami (Am Mỹ) trong vùng biển của phiên. Ông cũng tăng cường việc mậu dịch với quần đảo Ryuukyuu (Lưu Cầu). Nhờ thế, ông đã thành công trong nhiệm vụ chấn chỉnh tài chánh cho phiên. Việc thứ hai là cải cách quân sự bằng những việc làm cụ thể như dưới thời lãnh chúa Shimadzu Nariakira (Đảo Tân, Tề Lẫm, 1809-1858), phiên đã xây được lò phản xạ (reverberatory furnace) ở Kagoshima, kiến thiết xưởng đóng tàu và chế thủy tinh. Qua đến đời lãnh chúa Tadayoshi (Trung Nghĩa, 1840-1897), phiên đã mở được một nhà máy dệt làm việc dưới sự chỉ đạo của các kỹ sư người Anh. Cũng trong khoảng thời gian ấy, có những nhà buôn ngoại quốc ở Nagasaki như nhóm các ông Thomas Blake Glover (1838-1911) đã mang nhiều vũ khí phương tây vào. Nhân đó mà phiên đã phát triển được sức mạnh quân sự của mình. Điều đó giải thích tại sao quân đội của phiên Satsuma đã đóng được vai trò chủ chốt trong cục diện chính trị cuối thời mạc phủ.

Lãnh chúa Shimadzu Nariakira phiên Satsuma
Riêng về phiên Chôshuu (Trường châu), một “hùng phiên” (yuuhan) tức phiên trấn thế lực khác đã đóng vai trò quyết định trong cuộc Duy Tân Minh Trị, thì đã áp dụng cải cách của Murata Seifuu (Thôn Điền Thanh Phong, còn đọc là Murata Kiyokaze, 1783-1855) để điều chỉnh các khoản nợ, đưa tài chánh của phiên trở lại mức bình thường. Ở Chôshuu, phiên đã giữ độc quyền buôn giấy và sáp, đặt hệ thống chuyển vận hàng hoá vòng qua phía tây ở Shimonoseki gọi là Koshinikata (koshi =chuyển đổi, ni – hàng hóa). Họ thu mua hàng của thuyền buôn các vùng khác đáng lý ra phải chở về cho con buôn sỉ ton.ya ở Ôsaka. Thế rồi họ mới đảm nhận trách nhiệm bán hộ chúng đi (theo lối ủy thác) để có huê lợi, tái kiến được tài chánh của phiên mình.
Phiên Hizen, cũng thuộc đảo Kyuushuu đã ban hành chế độ quân điền (kindensei) tức chia ruộng đất đồng đều cho mọi người nhằm tái thiết nông thôn và đem lại sự ổn định tài chánh cho phiên. Lãnh chúa Nabeshima Naomasa (Oa Đảo Trực Chính, 1814-1871) còn cho thi hành việc buôn bán độc quyền đồ sứ làm cho phiên được giàu có. Ông cũng cho lập cơ xưởng đúc những khẩu pháo theo kiểu phương tây để tăng cường sức mạnh của phiên mình. Phiên Tosa (trên đảo Shikoku) cũng được giới cải cách lãnh đạo. Họ đã thực thi chính sách kiệm ước hòng lành mạnh hoá tài chánh. Còn như phiên Mito (phiá bắc Tôkyô bây giờ) thì dù có những nỗ lực của Tokugawa Nariaki (Đức Xuyên Tề Chiêu, 1800-1860), lãnh chúa đời thứ 9, họ đã không thành công trong việc cải cách vì gặp phải sự phản đối của nhóm bảo thủ.
Nhìn lại, ta thấy rằng những phương án cải cách năm Tenpô (Thiên Bảo) của mạc phủ đã chuốc lấy thất bại. Không những thế, tình huống dường như còn đi ngược lại những điều nhà nước mong đợi. Những kẻ thành công chỉ là 4 phiên Satchôdohi (Sát Trường Thổ Phì = Satsuma-Chôshuu-Tosa- Hizen) ở địa phương Tây Nam. Họ là những yuuhan hay “hùng phiên”, cho đến nay được cai trị bởi những lãnh chúa tozama tức là những người không được nhà chúa tin cậy cho lắm và thường bị tước đoạt quyền ăn nói. Thế nhưng từ đây, mọi sự đã đảo ngược và họ thực sự có quyền phát ngôn.
Mặt khác, về phía mạc phủ vào thời kỳ cuối cũng có một số cố gắng. Chức daikan (quan đại diện nhà chúa trông coi lãnh địa trực quản của mạc phủ) là Egawa Tarô Zaemon (Giang Xuyên Thái Lang Tả Vệ Môn, hiệu là Tankan = Đàn Am, 1801-1855) đã xây lò phản xạ để nung kim loại ở vùng Nirayama thuộc Izu. Ông còn mở nhà máy luyện thép ở Yokosuka với sự chỉ đạo của các kỷ sư người Pháp, nhằm đưa công nghiệp kiểu phương tây vào đất Nhật.
Vào thời kỳ gọi là Mạc mạt – Duy tân tức giai đoạn từ giữa đến cuối thế kỷ 19, sự phát triển của kinh tế thương phẩm cũng như của văn hóa và khoa học đã là một nhân tố giúp cho xã hội chuyển động. Nếu chấp nhận tiền đề nói trên thì việc Nhật Bản tiến lên con đường cận đại hoá thật ra chẳng có gì để chúng ta phải kinh ngạc nữa.
Phụ Lục:
Đối Chiếu Lịch Sử Nhật Bản Trung Cận Đại và Âu Á
Niên đại
|
Âu Mỹ
|
Trung quốc
|
Triều Tiên
Việt Nam
|
Nhật Bản
|
1330
|
Cuộc chiến tranh 100 năm giữa Anh và Pháp bắt đầu (1337)
|
|
|
Mạc phủ Muromachi thành lập . Ashikaga Takauji trở thành Shôgun (1338) đầu tiên.
|
1350
|
Dịch bệnh than (Black Death) tàn phá Âu châu (1357)
|
Nhà Nguyên diệt vong. Chu Nguyên Chương xưng đế, nhà Minh lên thay (1368-1644)
|
Chế Bồng Nga tấn công Đại Việt (1361-1389)
|
Nijô Yoshimoto và Gusai soạn tập thơ renga nhan đề Tsukuba-shuu (1356)
|
1370
|
|
|
|
Nụy khấu (Wakô) bắt đầu cướp bóc Trung Quốc, Cao Ly (1370)
|
1390
|
Geoffrey Chaucer chết khi chưa viết xong The Canterbury Tales (1400)
|
|
Cao Ly diệt vong, Triều Tiên kiến quốc (1392) với Y Song Gye (Lý Thành Quế)
Nhà Hồ (1400-1407)
|
Nam Bắc Triều hòa giải, chấp nhận Thiên hoàng Go-Komatsu (1392). Shôgun Yoshimatsu xây dựng Kinkakuji (1397)
Bắt đầu mậu dịch khám hợp với nhà Minh (1404).
|
1410
|
Jeanne d’Arc đánh quân Anh (1429)
|
|
Nhà Minh đô hộ Việt Nam (1407-1427)
|
Các cuộc loạn ikki của nông dân đói xoá nợ (tokusei) bắt đầu (1428)
|
1430
|
|
|
Nhà Lê (1428-1789)
|
Hào tộc Akamatsu Mitsusuke ám sát Shôgun Yoshinori (1441)
|
1450
|
J.Gutenberg in một đoạn Kinh Thánh bằng máy in (1450)
|
|
Lê Thánh Tông trị vì (1460-1497)
|
Cuộc loạn Ônin bắt đầu và kéo dài 10 năm (1467-77) làm Kyôto hoang phế.
|
1470
|
|
|
Ngô Sĩ Liên soạn Đại Việt Sử Ký Toàn Thư (1479)
|
Tăng Rennyo xây dựng được cơ sở truyền giáo ở Hokuriku (1471)
Các kokujin giữ nước hộ đánh đuổi chủ ở Yamashiro (1486)
|
1490
|
Colombus tìm ra châu Mỹ (1492)
Vasco de Gama quành mũi Hảo Vọng và đến được Calicut (Ấn Độ) (1498)
|
|
|
Tông Ikkô nổi loạn, giành quyền tự trị ở Kaga (1488)
|
1510
|
Luther tiến hành cải cách tôn giáo (1517) ở Wittenberg.
|
|
Chính quyền nhà Mạc (1527-1592)
|
Xung đột về mậu dịch ở Ninh Ba (Trung Quốc). Họ Ôuchi thắng lợi (1523) nắm độc quyền.
|
1530
|
Nicolas Corpenicus công bố những phát kiến về thiên văn (1453)
Ignatius de Loyola thành lập Hội Jesuit (1534)
|
|
Nguyễn Kim phò Lê trung hưng (1532)
|
Wakô cướp phá duyên hải và nội địa Trung Quốc (1536).
Người Bồ đem súng vào Tanegashima (1543)
Francisco de Javier (Francis Xavier) đến Kagoshima (1549)
|
1550
|
Bồ Đào Nha lập căn cứ ở Macao, để giao thương với Trung Quốc, Nhật Bản (1557).
|
Đại nụy khấu đời Gia Tĩnh (1553)
|
Nguyễn Hoàng vào trấn thủ Thuận Hoá (1558)
|
Nhà truyền giáo Luis Frois đến Nhật (1563) và sẽ viết Historia de Japam.
Oda Nobunaga thượng kinh (1568) lập Shôgun Yoshiaki rồi đuổi đi.
|
1570
|
Nươóc Anh thành lập các công ty Đông Ấn (1600).
Hạm đội Tây Ban Nha bị Anh đánh bại, hết còn chế ngự được mặt biển (1588)
|
|
|
Thuyền người Bồ lần đầu đến buôn bán ở Nagasaki (1571).
Mạc phủ Muromachi cáo chung (1573).
Nobunage dẹp tan tăng binh chùa Enryakuji (1571) nhưng bị mưu phản và chết, Hideyoshi lên nắm quyền (1582)
|
1590
|
Pháp công bố sắc lệnh Nantes nhìn nhận người Huguenots (1598).
Công ty Anh Ấn Độ được thành lập do sắc lệnh Anh hoàng (1600).
Người Anh lập nghiệp ở Jamestown (Bắc Mỹ (1607)
|
|
Triều Tiên kháng chiến chống Nhật Bản (1592-97)
Trao đổi quốc thư giữa các chúa Nguyễn Quảng Nam và Mạc phủ Tokugawa (1604-1635)
|
Nhật Bản viễn chinh tiến công bán đảo Hàn lần thứ nhất (1592) và lần thứ hai (1597).
Hai mươi sáu giáo dân giáo sĩ tử đạo ở Nagasaki (1597)
Cái chết của Hideyoshi (1598)
Người Anh William Adams đến Nhật (1600), làm cố vấn cho Ieyasu.
Chiến thắng ở Sekigahara (1600) đưa Tokugawa Ieyasu lên nắm chính quyền (1603)
|
1610
|
W.Shakespeare chết (1616)
Người Hà Lan lập thương xá ở Batavia (Java), trụ sở công ty Hà Lan Đông Ấn Độ (1619).
Vương chính của Louis XIV ở Pháp bắt đầu (1611)
|
|
Xung đột vũ lực Trịnh Nguyễn (1627-72). Trịnh Nguyễn phân tranh.
Alexandre de Rhodes bắt đầu hoạt động truyền giáo (1627)
|
Ieyasu bắt đầu cho phép thuyền châu ấn hoạt động (1601) như thời Hideyoshi.
Ban hành lệnh hạn chế việc truyền giáo (1612)
Ieyasu tiêu diệt dòng họ Toyotomi sau trận đánh thành Osaka lần thứ hai (1615)
Người Nhật đuổi người da trắng không cho buôn bán trừ ngoại lệ là Hà Lan (1627)
|
1630
|
Cách mạng Thanh giáo (Puritan) ở Anh (1640-49)
|
Nhà Minh sụp đổ, nhà Thanh lên thay (1644-1912)
|
|
Mạc phủ trấn áp cuộc nổi loạn Shimabara của nông dân chống thuế (1637-38).
Lệnh tỏa quốc (Sakoku, 1639).
Người Hà Lan lập Thương xá ở Dejima (1641)
|
1650
|
Chiến tranh giữa Anh và Hà Lan (1651-54)
|
|
|
Cuộc đảo chánh bất thành của Yui Shôsetsu (1651). Trận đại hỏa tai năm Meireki (1657).
Lệnh Shuumon aratame bắt tín đồ Ki-tô phải bội đạo (1665)
|
1670
|
Quốc hội Anh chuẩn y luật Bill of Rights cấm các loại thuế quốc hội không cho phép (1689)
|
Trung Quốc cho phép người Anh buôn bán ở Quảng châu (1699).
Thanh phong vương cho Thướng Trinh, vua Lưu Cầu (1682) và chiếm giữ Đài Loan (1683)
|
Nhà Mạc ở Cao Bằng diệt vong (1677)
|
Lệnh Shôrui Awaremi (Xót thương loài vật) do Shôgun Tsunayoshi ban hành (1685).
Bắt đầu thời văn hoá Genroku (1688)
Bashô làm cuộc hành trình về miền bắc, soạn Oku no hosomichi (1689) bằng haibun.
|
1690
|
Sa hoàng Peter I xây dựng cảng St Petersburg để mở cửa thông ra phía Tây (1703)
|
|
|
Sự kiện 47 nghĩa sĩ phục thù cho cố chủ (1703).
Núi Fuji phun lửa (1707)
Arai Hakuseki trở thành cố vấn cho nhà chúa (1709)
|
1710
|
|
|
Chúa Nguyễn Phúc Chu đặt tên Lai Viễn Kiều cho cây cầu Nhật ở Hội An (1719)
|
Yoshimune trở thành Shôgun (1716) thi hành chính sách trọng nông. Cải cách Kyôhô (Hưởng Bảo, 1716-45)
|
1730
|
|
|
|
Nan đói năm Kyôhô miền tây nam (1732)
|
1750
|
Cách mạng công nghiệp bắt đầu ở Anh (1750)
JJ Rousseau viết Dân Ước (Contrat Social, 1762)
|
|
|
Chính trị Tanuma với kinh tế trọng thương (1767) nhưng bị bãi chức năm 1786.
Nổi loạn và đập phá trong thành phố của các thành phần bất mãn từ 1767.
|
1770
|
Tuyên ngôn độc lập của Mỹ ở Philadelphia (1776)
Anh thống trị bán đảo Mã Lai (1786)
Cách mạng Pháp (1789)
G.Washington trở thành Tổng thống Mỹ (1789)
Napoléon viễn chinh Ai Cập (1798)
|
Giáo đồ Bạch Liên Giáo nổi loạn (1796)
|
Khởi nghĩa Tây Sơn (1771). Nguyễn Huệ lên ngôi (1788), đại phá quân Thanh (1789).
Lý Thừa Huấn truyền đạo Thiên Chúa (1784)
Triều Tiên cấm Tây học (1786))
|
Sách giải phẩu cơ thể Kaitai Shinsho (Giải thể tân thư) do Sugita Genpaku và Maeno Ryôtaku dịch (1774) được phát hành.
Ueda Akinari viết Truyện đêm mưa trăng lu (Ugetsu Monogatari, 1776)
Trận đói năm Tenmei làm thiệt hại khoảng từ 200.000 đến 900.000 người trong 5 năm (1782).
Matsudaira Sadanobu thi hành cuộc cải cách năm Kansei (1787-93).
|
1790
|
Edward Jenner thí nghiệm chủng đậu thành công (1796).
Napoleon I lên ngôi hoàng đế ở Pháp (1804).
Robert Fulton thử chạy tàu thủy bằng hơi nước trên sông Hudson (1807)
|
|
Quang Trung băng hà (1792)
Nguyễn Ánh chiếm được Thăng Long (1802) lập vương triều Nguyễn (1802-1945)
|
Kitagawa Utamaro bắt đầu cho in Okubi-e, tranh chân dung phụ nữ (1790)
Mạc phủ cấm trai gái tắm chung trong nhà tắm công cộng (1791)
Hayashi Shihei viết Kaikoku heitan (Hải quốc binh đàm, 1792), phê phán chính sách phòng thủ bờ biển của mạc phủ.
|
1810
|
Người Anh xây dựng thành phố Singapore (1819)
Tổng thống Mỹ ra tuyên ngôn chủ nghĩa Monroe (1823)
|
|
Minh Mạng trị vì (1820-40), thi hành chính sách cấm đạo (1825)
|
Người Hà Lan Ph. F. Von Siebold đến Nhật và dạy y học phương Tây (1823)
Mạc phủ ra lệnh Ikokusen Uchiharai Rei (Lệnh đánh đuổi tàu thuyền nước ngoài, 1825)
|
1830
|
Chiến tranh Nha phiến giữa Anh và Trung Quốc (1840-42). Phong trào Thái Bình Thiên Quốc (1850)
|
|
|
Trận đói năm Tenpô (1841-43) gây tổn thất từ 200.000 đến 300.000 người .
Cuộc nổi loạn của Ôshio Heihachirô, một nhà nho theo Dương Minh học ( 1837).
|
1850
|
F, de Lesseps đào kênh Suez, Ch. Darwin viết sách về các loài giống (1859)
Nội chiến Nam Bắc ở Mỹ (1861-65).
Bismarck nhậm chức Thủ tướng Đế quốc Phổ (1862).
Tổng thống Mỹ A.Lincoln bị ám sát (1865)
|
Điều ước Bắc Kinh (1860)
|
Quân Pháp chiếm Đà Nẵng (1858), Gia Định (1859)
Pháp đánh 3 tỉnh Đông Nam Kỳ. Hiệp ước Nhâm Tuất (1862)
Đảng Đông Học thành lập ở Triều Tiên (1860).
Pháp thám hiểm sông Mê Kông (1866) và chiếm 3 tỉnh Tây Nam Kỳ (1867)
|
Đề đốc Matthew Perry đem 4 chiến thuyền đến Nhật đưa tối hậu thư (1853).
Hiệp ước hoà bình và hữu nghị Kanagawa (1854 với Mỹ), sau đó với Anh (1854), Nga (1855) và Hà Lan (1856).
Minh Trị Duy Tân (1868)
|
1870
|
Phổ thống nhất. Willhem I lên ngôi hoàng đế (1871)
|
|
Phương Tây (1866) rồi Mỹ tấn công (1871) đảo Giang Hoa của Triều Tiên.
|
|
( Hết Phần Hai )
Bắt đầu 10/03/2012
Tạm xong 10/10/2012
[1] Còn có tên là Kaei (Hoa dinh), Katei (Hoa đình) bởi vì xưa kia bên Trung Quốc, nơi tướng quân đóng binh thường có hoa cỏ đẹp đẽ như Liễu doanh của Chu Á Phu đời Hán.
[2] Loại bình phong mang đề tài này được nhiều họa sư khai thác vào cuối thời Muromachi. Sau được phát triển thành tranh cuộn (emaki) mô tả cuộc sống và phong tục chốn đế đô.
[3] Nguồn Nihonshi Zuroku (trang 119)
[4] Khu vực núi non phía bắc thành phố Kyôto gồm các ngọn Funaoka, Kasagara và Iwakura. Tuy mang tiếng là núi (yama) nhưng chính ra chỉ là một khu vực gồm nhiều quả đồi thấp (oka).
[5] Nguồn Nihonshi Zuroku (trang 128)
[6] Sau khi nhượng vị cho con trai là Yoshimochi, Yoshimitsu về sống ở phủ đệ Kitayamadono (Bắc Sơn điện). Nơi đây, vào năm 1398, ông cho dựng một gác vàng cao 13,6 m để chứa xá lợi (shariden). Sau khi Yoshimitsu chết, nhân vì ông được tặng pháp hiệu là Rokuonin (Lộc Uyển Viện) cho nên kim các đó được đổi tên thành Rokuonji (Lộc Uyển Tự). Kim các có 3 tầng: tầng thứ nhất là đình câu cá (điếu đình) nhìn xuống hồ nước, kiến trúc theo lối tẩm điện (shindendzukuri), tầng thứ hai đặt tượng Phật Quan Âm kiến trúc thuần Nhật (Wayô). Còn tầng ba Kugyôchô (Cứu cánh đính) lại theo kiến trúc Thiền tông với song và cánh cửa bằng ván. Tất cả đều được dát vàng. Sau chiến tranh gác bị thiêu hủy vì hỏa tai, phải xây lại mới.
[7] Trong thuật ngữ nhà Phật, sơn và sát đều có nghĩa là chùa.
[8] Chế độ quan tự này có đặc điểm là các trụ trì phải được nhà nước bổ nhiệm.Thực ra sau ngũ sơn, thập sát còn có shozan (chư sơn) tức những chùa còn lại. Qui chế đó gọi là “tam tự cách”.Theo sử liệu thì việc liệt kê và danh hiệu Gozan đã bắt đầu từ tháng 5 năm 1229 dưới thời Kamakura với Jôchiji (Tĩnh trí tự) ở Kamakura.
[9] Bức tranh này cũng là đề tài một kôan (công án) tức bài tập cho thiền sinh trong thiền vấn đáp. Tương truyền có đến 31 vị tăng Gozan đã viết những bài tán về nó.
[10] Nguồn: Ikkyuu, ransei ni ikiru zensha, NHK Book (Ichikawa Hakugen)
[11] Đây là một lối đặt tên rất thú vị. Ngải có nghĩa là cắt cho nên ngải điền nghĩa là cắt lúa. Lang là con chó sói ý nói hành động buông tuồng. Tịch là thâu thập hay chiếm đoạt như trong cách nói tịch thu, tịch biên. Chữ lang tịch có trong Sử Ký ý nói việc làm bừa bãi, không đúng phép tắc.
[13] Sugi = cây tuyết tùng (Japanese cedar) tàng cây thẳng tắp và cao có khi đến 50m, hình viên trụ, thường thấy trong núi rừng miền đông Nhật Bản.
[14] Hoàng thân Munetaka (Tông Tôn, tại chức Shôgun từ 1252-1266) là con trai Thiên hoàng Go-Saga, được mời giữ chức Shôgun cho Mạc phủ Kamakura, bị nghi mưu phản bị bọn họ trả về Kyôto.Sau ông đi tu.
[15] Còn gọi là Kanenaga. Được Thiên hoàng Go-Daigo giao trọng trách giữ vùng Kyuushuu. Chức Chinh tây tướng quân. Chết khoảng 55, 56 tuổi.
[16] Chùa tông Thiên thai ở vùng Sakyô (Tả kinh) thuộc kinh đô Kyôto, vốn tên là Shinshô kyokurakuji (Chân chính cực lạc tự) xây năm 984.,
[17] Các người cầm quyền Nhật Bản thường cố gắng đánh bóng tổ tiên. Họ Tokugawa (Owari), Shimadzu (Kagoshima), Takeda (Yamanashi), Hosokawa (Kunamoto), Sadake (Akita) đều tự nhận là dòng dõi Minamoto, vốn bắt đầu với Thiên hoàng Seiwa. Nhà Maeda (Kaga) nhận là con cháu của học giả Sugawara no Michizane, Hideyoshi xuất thân nông dân cũng được triều đình ân tứ họ Toyotomi, một chi của đại tộc Fujiwara.
[18] Sử Đại Hàn gọi cuộc đảo chánh phế bỏ vua Uwang (Ngu vương) vào năm 1388 của I Seong-gye (Lý Thành Quế) là vụ “hồi quân” (đem quân trở về kinh thành) từ Wihwa-do (Uy hoa đảo) khi ông đặt ưu tiên cho việc chấn chỉnh nội bộ trước việc hành quân chống giặc. Nó tương tự cuộc binh biến ở Trần Kiều của Triệu Khuông Dận bên Trung Quốc và lý do lên ngôi của Thập đạo tướng quân Lê Hoàn ở Việt Nam.
[19] Thời Kamakura, kajishi là tên một thứ tiền tô mà người mướn ruộng phải trả thêm cho tiểu địa chủ sở tại ngoài tiền tuế cống cho nhà nước hay chủ trang viên. .
[20] Ba loại người này thuộc giai cấp thấp trong xã hội, ví dụ người làm công, đầy tớ sai vặt, dân ngụ cư vv...
[21] Sự phân biệt, ngay cả kỳ thị đối với người ngụ cư cũng thường thấy ở các làng xã Việt Nam, nhất là vùng châu thổ sông Hồng.
[22] Chúng ta không khỏi liên tưởng đến tổ chức shitauke (hạ thỉnh, subcontractor ), một hình thức tổ chức kinh doanh theo hệ thống trên nhờ dưới làm, dưới chờ trên cho việc, vẫn còn thấy trong thời hiện đại.
[23] Có lối giải thích khác về chữ “thổ” ở đây. Theo tác giả Katsumata Shizuo trong tác phẩm nhan đề Ikki của ông thì nguyên thủy “thổ” là “quyền khai khẩn thổ địa” thiêng liêng của người vỡ đất mà những cuộc buôn bán đổi chác về sau không làm mất đi được. Ý nói đất phải thuộc về người khai hoang.
[24] Mượn ý lệnh “đức chính” cuối đời Kamakura nhưng không có nghĩa là “thi hành chính trị nhân đức” mà chỉ có nghĩa là cho chạy nợ.
[25] Nakayama Sadachika (Trung Sơn Định Thân, 1401-1459) ghi lại trong bộ sách này một số sự kiện lịch sử xảy ra dưới thời Mạc phủ Muromachi giữa giai đoạn 1418-1443. Tuy nhiều phần bị thất lạc nhưng Sakkaiki được đánh giá là một sử liệu có giá trị cao.
[26] Akamatsu Mitsusuke ( Xích Tùng Mãn Hựu, 1373 hay 1381?-1441), võ tướng thời Muromachi trung kỳ. Sau khi ám sát thành công Shôgun Yoshinori đã trốn về ấp của mình ở Harima nhưng bị bọn trung thần là Yamana Sôzen đánh đuổi phải tự sát.
[27] Nguồn: Nihonshi Zuroku (trang 121)
[28] Nguồn: Andrew Gordon, A Modern History of Japan, dẫn Stephen Vlastos (1986).
[29] Nguồn Nihonshi Zuroku (trang 123)
[30] Những tiệm rượu vì có nhà kho lớn nên có thể giữ hàng hóa và cho thương nhân vay tiền.Trong trường hợp này, tiệm rượu(sakaya) được gọi là sakaya dosô.
[31] Naitô Konan (Nội Đằng Hồ Nam, 1866-1934) học giả ngành Đông phương học, sinh ở Akita vùng Đông Bắc, tên thật là Torajirô (Hổ thứ lang), Xuất thân ký giả báo Asahi ở Ôsaka, sau trở thành giáo sư đại học Kyôto. Đặc biệt nghiên cứu về lịch sử, mỹ thuật sử và văn hóa học Trung Quốc, Nhật Bản. Rất uyên bác.
[32] Shôdanchiyô (Tiều đàm trị yếu, 1480), 1 quyển, sách do Ichijô Kaneyoshi dâng cho Shôgun Yoshihisa (Nghĩa Thướng) bàn về thuật trị nước. Tiều đàm là lời bàn của người tiều phu, ý khiêm tốn chứ thực ra Kaneyoshi là người bác học, thông hiểu Nho Phật, dòng dõi thế gia, viết nhiều tác phẩm được truyền tụng và làm quan đầu triều đến chức Kanpaku Dajôdaijin.
[33] Akutô (ác đảng) không chỉ có nghĩa là “bọn người có hành vi xấu xa độc ác” mà thôi. Nó có ý nghĩa lịch sử vì vào thời Kamakura, tiếng gọi này dùng để chỉ những người không phải samurai nhưng trang bị vũ khí và bạo động chống chính quyền.Họ không đến từ tầng lớp nông dân như samurai nhưng xuất thân và gắn bó với các giới công và thương nghiệp.
[34] Keian Genju ( Quế Am Huyền Thụ, 1427-1508), người vùng Suô (nay thuộc tỉnh Yamaguchi) nhưng không rõ gia thế. Tăng tông Lâm Tế, đã sang nhà Minh du học vào năm 1467. Ông giỏi cả về Phật lẫn Nho. Từng là pháp tự (học trò kế nghiệp) của Keiho Genkin (Cảnh Bồ Huyền Hân) chùa Nanzenji (Nam Thiền Tự). Đã có công truyền bá đạo Nho ở các phiên trấn miền Nam Kyuushuu..
[35] Murata Shukô (Thôn Điền Châu Quang, 1423-1502) là một trà sư thời Muromachi. Ông thuở nhỏ vào tu ở chùa Nara Shômyôji (Nại Lương xứng danh tự) và học Thiền từ Ikkyuu Sôjun (Nhất Hưu Tông Thuần). Ông từng giảng về trà đạo cho Shôgun Yoshimasa. Ông đã đưa khái niệm wabi vào trà, chủ trương phải uống trà trong một nơi đơn sơ u tịch, ly khai với phong cách shôincha (thư viện trà) tức uống trà trong phòng tiếp khách vốn nặng phong cách nước ngoài. Triết lý của ông được các trà nhân về sau như Sen Rikyuu (Thiên Lợi Hưu)vô cùng tán thưởng.
[36] Nguồn: Nihonshi Zuroku (trang 130)
[37] Chỉ có trà do tăng Eisai (Vinh Tây) đem từ Trung Quốc về và cho trồng ở địa phương Tonano-o mới được xem là trà chính hiệu (honcha = bản trà). Trà lấy từ những nơi khác đều bị xem là phi trà (hicha)
[38] Tuy tiếng Anh chỉ dịch là lacquer work nhưng makie (thì hội) dùng đến ba thủ pháp cơ bản là sơn, mài, cẩn và nhiều kỹ thuật thứ yếu. Thì (động từ maku)có nghĩa là gieo rắc như gieo mầm, giao mạ.
[39] Trưóc kia ở Nhật đã có tham vọng hợp nhất Thần Phật với lý luận Honji suijaku (Bản địa thùy tích) xem chư Phật và bồ tát từ đại lục đến Nhật đã mượn hình ảnh các thần để hiện ra cứu giúp chúng sinh. Do đó Thần Phật là một nhưng Phật quan trọng hơn Thần. Thuyết này có tự thời Heian. Tuy nhiên, với lý thuyết mới Phản bản địa thùy tích này thì đúng như cái tên của nó, Yoshida Kanetomo của thời Muromachi muốn đối nghịch với thuyết trước. Tuy chấp nhận Thần Phật là một nhưng ông đã lật ngược quan hệ trên dưới giữa Thần bản địa và Phật vốn đến từ nước ngoài. Ông xem các Thần sở tại có địa vị cao hơn Phật.
[40] Tsukuba dù viết dưới nhiều tự dạng đều chỉ tên ngọn núi Tsukuba gần Tôkyô ngày nay.
Ngọn núi ấy không cao nhưng quan trọng không kém núi Fuji.Xưa kia nó là nơi thanh niên nam nữ tụ họp hát đối đáp và giao lưu trai gái. Như thế, Tsukuba là một danh từ tượng trưng cho “truyền thống văn nghệ dân gian” chứ không có gì hiểm hóc.
[41] Kôwaka là tên một vũ khúc (mai) bắt nguồn từ tên người sáng chế. Tương truyền ông tố của vũ khúc này là Momonoi Naoaki, một võ tướng đời Muromachi hồi nhỏ có biệt hiệu là Kôwakamaru.
[42] Nguồn: Nihonshi Zuroku (trang 130)
[43] Nguồn: Nihonshi Zuroku (trang 129)
[44] Chu Mậu Thục là văn nhân đời Tống, đặc biệt yêu hoa sen.
[45] Nguồn: Hayashiya Shinsaburô trong Kabuki Izen (Iwanami Shinsho) và Kitagawa Tadahiko trong Zeami (Chuô Shinsho) (trang 147-148).
[46] San.in (Sơn Âm) có nghĩa là phía bắc rặng núi. Ở đây ám chỉ phía tây đảo Honshuu , bao gồm Tottori, Shimane, bắc Yamaguchi ..là những tỉnh “khuất mặt trời” và nhìn ra biển Nhật Bản.Trong khi đó San.yô (SơnDương) nhằm chỉ các tỉnh phía nam rặng núi, “gần mặt trời” hơn và nhìn ra biển nội địa Seto như Okayama,Hiroshima, Hyôgo (Kobe) và phần phía nam tỉnh Yamaguchi.
[47] Trong tiếng Anh, trung thế và trung cổ, trung đại đều có thể được dịch là Middle Ages (danh từ) hay medieval (tính từ).. Tuy nhiên, người Nhật còn dùng từ trung cổ để chỉ vật dụng đã dùng một lần, không còn mới nữa (second hand).
[48] Định chế hóa vào thời Chiến Quốc, luật này đã bị bãi bỏ dưới thời Edo nhưng lối suy nghĩ này vẫn còn được duy trì trong lối sống của người Nhật và trở thành một phương châm dẫn dắt họ trong cách xử thế.
[49] Chùm đảo nằm trên Đại Tây Dương gần quần đào Caribbean, bao gồm cả các đảo Antilles và Bahamas.
[50] Nguồn: Utagawa Takehisa trong Teppô denrai (Chuô kôron) và Okumura Shôji trong Hinawaju u kara kurobune made (Iwanami shinsho).
[51] Nguồn: Nihonshi Zuroku (trang 136)
[52] Thủy công đánh thành thường có 2 cách: chận đường nước cho địch chết khát hoặc chắn đập ngăn sông điều nước vào thành cho địch khổ vì lụt.
[53] Nguồn: Oda Nobunaga của Fujimoto Hisashi (Shôgakkan) và Wakita Shuu (Chuô Shinsho
[54] Lý do Mitsuhide nổi loạn và giết Nobunaga đến nay vẫn không ai rõ. Có người cho rằng Mitsuhide muốn có một đường lối chính trị khác, có người (như Danielle Elisseff ) chủ trương là do tư thù .Theo bà, Mitsuhide hay bị chủ sĩ nhục và mẹ ông, một con tin, đã chết dưới bàn tay của Nobunaga)
[55] Nguồn: Mori Tatsukichi trong Ren.nyo (Kôdansha Gendai shin sho)
[56] Đào sơn nghĩa là núi nhiều đào (peach). Nguyên do khu vực đồi núi quanh thành Fushimi có nhiều đào nên mới có dị danh như vậy. Văn hoá Momoyama ám chỉ văn hóa của thời kỳ Hideyoshi làm chủ nước Nhật. Đặc tính của nó là hoành tráng, lộng lẫy (của một anh nhà nghèo mới nổi, đó là Hideyoshi, người vốn xuất thân nông dân võ biền).
[57] Trong tiếng Hán, cáp còn có thể đọc là hạp với nghĩa là cánh cửa nhưng cũng đồng nghĩa với chữ các là gác. Nói chung nó ám chỉ nơi cư ngụ của một nhân vật đóng vai trò quan trọng.
[58] “Độ lượng” đọc theo âm Hán Việt là “đo lường”, còn “hành” cũng là đo nhưng đo sức nặng.
[59] Toyotomi Hidetsugu là cháu gọi Hideyoshi bằng cậu ruột. Trước được cậu sủng ái, giao cho nhiều trách vụ quan trọng như Kanpaku (Quan bạch) và dự định chọn làm kẻ nối nghiệp. Khi Hideyori là con ruột ra đời, Hideyoshi lại đổi ý . Từ đó, có ý nghi ngờ và ghét bỏ.Chẳng bao lâu, Hidetsugu bị cậu mình kết tội mưu phản, bắt tự sát trên núi Kôyasan. Toàn gia hơn 30 người đều bị tru diệt.
[60] Tướng I Sun Sin đã tử trận trong trận hải chiến quyết định cuối cùng mà quân Triều Tiên dành được thắng lợi.
[61] Nguồn: Suzuki Ryôichi trong Toyotomi Hideyoshi (Iwanami Shinsho) Wakita Ôsamu trong Ôsakajô jidai to Hideyoshi (Shôgakukan).
[62] Nguồn: Nihonshi Zuroku (trang 141 đến 144)
[63] Nguồn: Kuwata Tadachika trong Sen no Rikyu u (Chuô Kôron) và Kumakura Hisao trong Cha no Yu (Kyôikusha Rekishi Shinsho)
[64] Nitobe Inazo, Bushidô (Võ Sĩ Đạo, linh hồn củaq Nhật Bản), Lê Ngọc Thảo dịch, Quảng Văn, 2011.
[65] Nguồn: Kitashima Masamoto trong Tokugawa Ieyasu (Chuô shinsho) và Futagi Ken.ichi trong Sekigahara gassen (Chuô shinsho) trang 173-174)
[66] Nguồn: Kitahara Masamoto trong Tokugawa Ieyasu và Tsuji Tatsuya trong Edo kaifu (cả hai đều do Chuô Kôron xuất bản)
[67] Ieyasu đã từng cắn răng chấp nhận lệnh của Nobunaga bắt một người vợ của mình ( gốc gác thân tộc nhà Imagawa, kẻ thù của Nobunaga) và con trai riêng của bà phải chết. Tất cả chỉ vì ông nghĩ thời cơ chưa đến.
[68] Dù không hề thua kém Hideyoshi về mặt quân sự, ông chịu giảng hòa, nhún nhường đến độ đi từ lãnh địa đến Ôsaka chầu Hideyoshi và thường là đối tượng của những cuộc mưu sát tổ chức bởi những bề tôi thân tín của ông này.
[69] Kobayakawa Hideaki (Tiểu Tảo Xuyên, Tú Thu, 1582-1602), cháu gọi vợ cả của Hideyoshi tức bà Kita Mandokoro là cô ruột, và từng là con nuôi của ông. Tổng chỉ huy cuộc chinh phạt Triều Tiên năm Keichô.
[70] Oản hành = ategai có nghĩa là cấp phát, trao tay.
[71] Yoshinao (Nghĩa Trực), con trai thứ 9 của Ieyasu là tổ của chi Owari (vùng Nayoga bây giờ), 61 vạn 9500 thạch thóc. Yorinobu (Lại Tuyên), con trai thứ 10, tổ chi Kii (Wakayama), 55 vạn 5000 thạch. Yorifusa (Lại Phòng), con trai thứ 11, tổ chi Mito (Hitachi), 35 vạn thạch.
[72] Nguồn: Nihonshi Zuroku (trang 146) và Yamamoto Hirobumi trong Sankinkôtai (Kôdansha Gendaishô), Okano Yoshihiko trong Nihon shakai no rekishi (Iwanami Shinsho), Fukaya Katsumi trong Edo Jidai (Iwanami Junior Shinsho), Takao Kazuhiko trong Kindai no Nihon (Kôdansha Gendai shinsho).
[73] Nguồn: Imaya Akira trong Buke to Tennô (Iwanami Shinsho) và Tokugawa Shô gun to Tennô (Chuô Kô ron Shinsha) (trang 179-180)
[74] Ngày xưa, những người nông dân lưu lạc, không hộ tịch được gọi là “phù lãng nhân” hay “phù nhân” (ukarebito) để phân biệt với điền đố (tato) là kẻ có cơ sở ruộng đất nên ở một chỗ. Sau đó, nó trở thành “lãng nhân” (rônin) và với sự xuất hiện của xã hội quân nhân thì nó mới mang một ý nghĩa khác. Rônin còn có thể viết là lao nhân (người đi tù, bị giam).
[75] Nguồn: Nakazawa Nobuhiro trong Nihon no bunka (Natsume-sha, trang 214-215)
[76] Nguồn: Andrew Gordon, A Modern History of Japan, dẫn Sekiyama Naotarô (1969)
[77] Nguồn: Takagi Tadashi trong Mikudarihan to Engiridera (Kôdansha gendai bunko) (trang 252-254).
[78] Nakama (trọng gian) vào thời cận đại có nghĩa là những người làm cùng nghề, họp nhau thành hiệp hội dể chống độc quyền, bây giờ trở thành tiếng gọi những người cùng làm một việc gì chung hoặc có cùng chí hướng.
[79] Nguồn: Phạm Hoàng Quân trong Chúa Nguyễn và công cuộc hải thương với Nhật Bản (Quốc Sử Hàn Lâm Viện trên Internet) , Luc Thuan trong Japan early trade coin and the commercial trade between Vietnam and Japan in the 17th century (Internet) và Okura Sadao trong Shuinsen jidai no Nihonjin (Chuô shinsho) (trang 185-186).
[80] Nguồn Nihon no rekishi II (trang 181-182)
[81] Kondô Juuzô (Cận Đằng, Trọng Tàng, 1771-1829) là nhà thám hiểm Nhật Bản cuối đời Edo. Trước từng giúp việc cho chức bugyô nghĩa là quan cai trị ở Nagasaki (1795), nơi có nhiều người nước ngoài. Từ 1798, bắt đầu thám hiểm vùng Ezochi, đảo Chishima và để lại nhiều sách về địa chí và dân tộc chí về các vùng đất, các sắc dân thiểu số trên miền bắc.
[82] Shakushain ( ? – 1669) là tù trưởng ngườiAinu vùng Shibichaly thuộc Hidaka (phía nam Hokkaidô) vào đầu thời Edo. Năm 1669 (Kanbun 9) vì chống đối các hành động lấn lướt để giữ độc quyền mậu dịch của phiên Matsumae nên ông đã kêu gọi người Ainu tấn công vào các đoàn thuyền buôn trên khắp khu vực Ezochi. Giữa lúc sửa soạn tấn công Matsumae thì bị đánh thuốc độc chết.
[83] Nguồn: Toyama Mikio trong Nagasaki bugyô - Edo baku no mimi to me (Chuô kôron) trang 189-190).
[84] Ông là một mãnh tướng, lập nhiều công to nhưng khi bị “cải dịch”, từ đất phong ở Aki, Higo (Hiroshima) với bổng lộc gần 50 vạn thạch chuyển về Shinano thì chỉ còn hưởng đươợc 1/10.
[85] Nhân phủ đệ của Sakai Tadakiyo được dựng lên trước cổng thành Edo nơi có biển “Đến đây phải xuống ngựa” (Hạ mạ trát) nên người ta gọi đùa ông như thế. Hạ mã cũng có nghĩa là “ngựa hạng tồi” (so sánh với thượng mã, trung mã là ngựa hay). Có lẽ sự giễu cợt như thế đến từ những kẻ bất mãn với chính sách kiệm ước và kiểm soát tài chánh gắt gao của ông.
[86] Năm Khoan Vĩnh 18 và 19 (1641, 42) vì hạn hán và trời trở lạnh đột ngột, Nhật Bản bị mất mùa, lại thêm sưu cao thuế nặng, giá gạo lên cao không kiểm soát nổi, nên cả nước lâm vào nạn đói, số người chết lên đến vài vạn. Do đó các phiên đã phải sửa đổi chính sách thu thuế và thi hành cải cách nông nghiệp.
[87] Nho học giả cuối đời Minh (1600-1682).Tên Chi Du, tự Lỗ Dư, hiệu Thuấn Thủy.Người Diêu Dư (Chiết Giang). Trọng thực học, tinh thông về lễ pháp và kiến trúc. Mưu khôi phục nhà Minh nhưng bất thành, đến Nhật năm 1659, phụng sự Tokugawa Mitsukuni của phiên Mito. Ngụ cư ở Edo.Thụy hiệu là Văn Cung tiên sinh. Để lại Chu Thuấn Thủy tiên sinh văn tập vv...Dường như đã ghé Quảng Nam nhưng các chúa Nguyễn vốn chuộng hư văn, không tin dùng.
[88] Con trai thứ 4 của Shôgun đời thứ 3 Iemitsu. Đã đi làm con nuôi dể nối dõi cho một phiên trấn nhưng sau được goi về nối nghiệp anh cả và Shôgun đời thứ 4 là Ietsuna 1641-1680) .
[89] Genroku (Nguyên Lộc, 1688-1704) chữ trong Tống Sử, tương ứng với niên hiệu của Thiên hoàng Higashiyama (Đông Sơn).
[90] Razan (La Sơn) là cha Gahô (Nga Phong, 1618-1680). Gahô lại là cha Hôkô (Phượng Cương) , ba đời đều làm nho quan.
[91] Nguồn: Najkajima Takashi trong Saikaku to Genroku Media (NHK Book) (trang 218-219).
[92] Nguồn: Nishiyama Shônosuke trong Yuujo (Kondô shuppansha) và Kin Ichikyô (Yuujo, karayuki, ianfu no keifu (Yu usankaku shuppan) (trang 242-243).
[93] Nguồn ; Nakazawa Nobuhiro trong Nihon no bunka (Natsume-sha) (trang 230-231)
[94] Thùy gia Thần đạo còn gọi là Nho gia thần đạo
[95] Nguồn Minamoto Ryôen trong Tokugawa shisô shôshi (Chuô shinsho) và Aihara Ryô trong Juugaku undô no keifu (Kôbundô atene shinsho) trang 220.
[96] Nguồn: Nihon no bunka (Natsume-sha xuất bản) (trang 244-245)
[97] Bản thảo học là dược học nhưng nội dung nghiên cứu không ngừng lại ở dược tính của cây cỏ đất đá mà có màu sắc bác vật học nên được coi là có phạm vi rộng rãi hơn. Sách đầu tiên (bản thảo thư) đã ra đời tự đời nhà Hán. Đạo sĩ đời nhà Lương ở Mạt Lăng là Đào Hoằng Cảnh (456-536) đại thành loại này với Thần Nông Bản Thảo Kinh và Thần Nông Bản Thảo Kinh Tập Chú vào khoảng năm 500. Sau đó qua các đời Đường, Tống, Nguyên, Minh, lúc nào cũng có người tham gia đóng góp mà hoàn bị hơn cả là Bản Thảo Cương Mục của Lý Thời Trân cuối đời Minh. Bản thảo học đã bắt đầu ở Nhật vào thời Nara (710-784) qua Honzô Wa.myô (Bàn thảo Hòa danh) 2 quyển do Fukane no Sukehito (Thâm Căn Phụ Nhân) soạn.
[98] Nguồn: Nihon no bunka (Natsume-sha xuất bản) (trang 226-229)
[99] Cung gia (Miyake) là một chi nhánh độc lập trong hoàng tộc. Thông thường chỉ có đàn ông mới được lập miyake. Cho phép cô dâu mới lập cung gia nằm nhân uy tín của mạc phủ. Hiện nay (2012) ở Nhật có 5 nhà (Mikasa, Hitachi, Akishino, Katsura và Takamado) và vấn đề một công chúa có quyền lập “cung gia” hay không đang trở lai sôi nổi trong dư luận Nhật Bản khi con số các nhân vật phái nam trong hoàng tộc trở nên quá ít ỏi.
[100] Xưa người Trung Quốc gọi việc buôn bán với các dân tộc phương bắc là hỗ thị (cùng họp chợ)
[101] Là một văn nhân và học giả nên Hakuseki đã lấy nhan đề hồi ký của ông từ một câu thơ waka của Thiên hoàng Go Toba rất thâm thúy. Củi chụm cháy lên sẽ bay thành khói giống như chuyện cũ dần dần mờ nhạt đi trong ký ức.
[102] Ông Kan.o Haruhide này đặc biệt khinh miệt nông dân, loại người mà ông cho là không trung thành và chẳng có tiết tháo (fuchuu futei = bất trung bất trinh).
[103] Cá sardine còn được dịch là cá...xác đin và cá hareng là cá trích như theo một số từ điển.
[104] Cấu tạo của lò Tenbin-tatara (Lò hình cán cân) chẳng hạn: quặng sắt được nung trong lò ở chính giữa, hai bên có đặt bễ thổi (fuigo = xuy tử) đưa không khí vào để làm tăng nhiệt độ đến khi quặng chảy ra. Fuigo do thợ điều khiển bằng cách lấy chân đạp liên hồi.
[105] Một shu (châu) như thế là 1/16 của một lượng (lạng) vàng hay 1/4 của một phân vàng vì một lượng (lạng) có 4 phân. Đó là đơn vị hoá tệ đã được định vào đời Tống bên Trung Quốc, truyền vào Nhật Bản trong niên hiệu Taihô (Đại Bảo, 701-704) trong lệnh năm Đại Bảo (Taihô no ryô, 701). Trong sắc lệnh ấy, chữ chu được viết dưới tự dạng chính tự có bộ kim bên cách chữ chu là đỏ và shu lúc ấy được định nghĩa như 1/24 của lượng (lạng).
[106] Mitsui Takatoshi là ông tổ của tài phiệt Mitsui, sáng lập nhà buôn Mitsukoshi, trước kia làm nghề buôn gạo, chuyên cho các lãnh chúa vay tiền. Sau 17673, đổi qua nghề buôn quần áo, mở tiệm ở Edo và Kyôto.
[107] Khoai lang được gọi là Satsuma imo (khoai Satsuma) tuy gốc gác Trung Nam Mỹ bởi vì đối với người Nhật, nó đã được trồng ở Trung Quốc, quần đảo Ryuukyuu và vùng Satsuma trên đảo Kyuushuu từ tiền bán thế kỷ 17. Khoai tây (không ngọt) trong tiếng Nhật thì được gọi là jagaimo tức khoai trồng ở Jacatra (tên cổ của Jakarta) do thuyền Hà Lan đem đến từ đảo Java..
[108] Trong Tổng quan lịch sử văn học Nhật Bản ấn bản 2011, người viết dịch sai là khoai tây. Xin được đính chính ở đây.
[109] Nguồn: The Centre For East Asian Culture Studies (Tôkyô), nhiều tác giả, trong Acceptance of Western Culture in Japan. Nihonshi Zuhô (trang 144).
[110] Lục dụ, sáu lời dụ, nguyên là thánh chỉ của Minh Thái Tổ. Về sau, đến đời Thanh, Thanh Thế Tổ theo đó mà khâm định lại.Còn như Lục dụ diễn nghĩa là do Phạm Hoằng thời Minh mạt viết ra để dạy dỗ dân chúng. Lời văn bình dị dễ hiểu. Sách đã theo đường đảo Lưu Cầu, qua phiên Satsuma ở Kyuushuu để vào Nhật.Tuy nhiên, nó có nhiều dị bản.
[111] Nguồn: Nihon no koten meichô (trang 34-35)
[112] Tawaramono là loại gói bện bằng rơm ra để đóng gạo hay các thứ đồ khô.Trong mậu dịch Nagasaki,nó có nghĩa là hải sản khô như bào ngư, vi cá, hải sâm, cá khô đóng thành kiện hàng.
[113] Sankyô (Tam khanh) ám chỉ ba chi Tayasu, Hitotsubashi và Shimizu thuộc gia đình Tokugawa. Sankyô chỉ thua kém Sanke (Tam gia) là Owari, Kii và Mito về mức độ quan trọng họ hàng (gia cách = kakaku) khi phải xét đến việc cung cấp người nối dõi cho nhà chúa.
[114] Ông chỉ là con nuôi của Shôgun đời thứ 10 Ieharu (Gia Trị).
[115] Nhà Hitotsubashi cũng là một trong “tam khanh” (sankyô) như hai nhà Shimizu và Tayasu. Gọi là nhà Hitotsubashi vì dinh thự của họ nằm ở Nhất Kiều Môn trong thành Edo. Người khhởi đầu Hitotsunashike là Tokugawa Munetada, con trai thứ 4 của Shôgun đời thứ 8 Yoshimune.
[116] Nguồn; Nihon no meicho (Kokumin jiyuusha) (trang 32-33)
[117] Theo G.B.Sansom, tuy đàn áp Hayashi vì tôi khi quân phạm thượng (?) nhưng bên trong, Matsudaira Sadanobu đã làm theo ý kiến của ông ở một mức độ nào đó trong cách ứng xử với Laxman và trong việc sức cho quan lại địa phương phải củng cố việc bảo vệ hải phận Edo.
[118] Tương truyền, sau cuộc loạn Ônin (1467-69), để khí huyết người samurai khỏi bốc lên đầu nên có tục lệ đàn ông cạo một phần tóc trên trán theo hình bán nguyệt cho nó cao hơn. Tục lệ gọi là sakayaki này trở thành bằng chứng của một người đàn ông đã thành nhân. Khi cấm đàn bà hành nghề ở các tiệm bới tóc (kamiyuidoko, vì đàn ông Nhật xưa để tóc dài) gồm có cả dịch vụ sakayaki cho khách hàng, có lẽ mạc phủ muốn ngăn chặn nạn mãi dâm trá hình?
[119] Nguồn: Emori Ichirô trong Benkyô jidai no makuage (Heibonsha Sensho (trang 249-250).
[120] Tominaga xem Nho học là cái học của Trung Quốc, Phật học là cái học Ấn Độ, Thần đạo là của Nhật Bản cổ đại. Tất cả đều không hợp với Nhật Bản đương thời. Phải lấy chữ Thành làm một cái đạo mới. Lý luận của ôn đã gây nhiều tranh cãi.
[121] Daikoku Kôdayu (Đại Hắc Ốc, Quang Thái Lang, 1751-1828), người Nhật, thuyền trưởng người vùng Ise, bị bão lớn,trôi giạt đến Kamchatka, được Nga cứu thoát, từng đến Điện mùa hè ở St Petersburg bái yết nữ hoàng Ekatherina II. Sau khi theo sứ bộ A.E.Laxman trở lại Nhật, ông bị giam lỏng cho đến cuối đời. Ông có đem nhiều địa đồ về nước và những câu chuyện ông thuật lại đã được Katsuragawa Hoshuu chép thành Hokusa Bunryaku (Bắc tra văn lược, trà = bè, cò lẽ chỉ việc Daikoku bị trôi giạt, văn lược = vài điều nghe được), một tác phẩm về tình hình nước Nga thời đó.Ngoài Katsuragawa, ông cũng quen biết và kiến thức về nước ngoài của ông đã ảnh hưởng tới các học giả khác như Takami Senseki, Watanabe Kazan và Ban Nobutomo.
[122] Kondô Juuzô (1771-1829) là nhà thám hiểm và thư chí học thời Edo hậu kỳ. Thừa lệnh mạc phủ, đã 5 lần thám hiểm vùng Ezochi, quần đảo Chishima (Kuriles).Từng viết Kingin Zuroku (Kim ngân đồ lục), Gaiban tsuusho (Ngoại phiên thông thư), Ezochi Zenzu (Hà Di địa toàn đồ), Ken kyô ruiten (Hiến giáo loại điển). Đặc biệt trong Ngoại phiên thông thư có ghi lại thư trao đổi giữa mạc phủ Tokugawa và các Chúa Nguyễn ở Quảng Nam.
[123] G.B. Samson cho rằng lý do cơ bản là mạc phủ thiếu tự tin về nội trị nhất là trước thế lực của các phiên trấn tozama ở miền Nam.
[124] Vasalii Mikhailovitch Golovnin, thuyền trưởng chiếc tàu Nga Diana, bị người Nhật bắt được và bỏ ngục khi đang đi điều tra trên đảo Kurils (Chishima) Ông bi6 giam từ 1811 đến 1813 và đã viết lại nhật ký nhan đề Golovnin nhật bản u tù ký (Zapiskio Priklyucheniyakhvplenuu Yapontsev ) xuất bản năm 1816, dịch sang tiếng Anh năm 1818.
[125] Văn nhân họa (Bunjinga) là lối họa mà văn nhân Trung Quốc xem như một thú vui phụ thuộc trong cuộc sống của văn nhân. Chủ trương không nặng về kỹ xảo mà chú trọng ở sự thanh nhã.Thời Minh mạt có Đỗng Kỳ Xương với lối vẽ thủy mặc rất nổi tiềng.
[126] Nguồn: Nihon no koten meicho (Kokumin jiyusha) (trang 39-40)
[127] Cuộc chiến tranh kéo dài 2 năm giữa Trung Quốc nhà Thanh và nước Anh. Lấy lý do Trung Quốc cấm buôn bán nha phiến tức phương hại đến mậu dịch, người Anh đã gây ra cuộc xung đột mà kết quả là Trung Quốc thua trận. Tại Nam Kinh, nhà Thanh đã ký một hiệp ước bất bình đẳng rồi từ đó bị liệt cường xâu xé và trở thành bán thuộc địa.
[128] Chữ phát xuất từ sách Lễ Ký. Xĩ là cái răng, ý nói tuổi tác. Thướng xĩ hội có nghĩa Hội Kính Lão hay hội những người cao niên, gặp nhau ca hát vui chơi. Thường có 7 người, gọi là thất tẩu. Bắt nguồn từ Trung Quốc, hình như bắt đầu với nhà thơ Bạch Lạc Thiên (845). Nhật Bản cũng có từ năm 877 với chức Dainagon là Minabuchi no Toshina (Nam Uyên Niên Danh).
[129] Nguồn: Tsuda Hideo trong Nihon no rekishi 22: Tenpô Kaikaku (Shôgakukan) và Nagashima Konshirô & Ôta Takeo trong Edojô Ôoku (Shin jinbutsu Ôraisha) (trang 236-237)
[130] Nguồn: Nakazawa Nobuhiro trong Nihon no Bunka (Natsume-sha xuất bản)
[131] Nguồn: Nihon koten meicho (Jiyu kokuminsha) (trang 78-80)
[132] Người Nhật gọi ông là Rikushôzan. Đại nho thời Nam Tống. Tên thật là Cửu Uyên, tự Tử Tĩnh, hiệu Tượng Sơn, Tồn Trai. Người Kim Khê thuộc Giang Tây. Đã phát triển triết học của Trình Hiệu (Hạo), chủ trương “tâm tức lý”, đối kháng với học thuyết chủ tri của Chu Hi. Thụy hiệu là Văn An.