Cuộc sống quanh ta

Tưởng nhớ gs Đinh Gia Khánh

GS Đinh Gia Khánh (25/12/1924 – 7/5/2003) từ biệt chúng ta đã qua mười năm. Ông là một nhà khoa học kiệt xuất của đất nước, một học giả để lại những dấu ấn đậm nét cho nền khoa học xã hội và nhân văn nước nhà. Giới khoa học nước ta công nhận ông là người mở đường và đặt nền móng cho ba chuyên ngành Văn học dân gian, Văn học Trung đại và Văn hóa dân gian Việt Nam. Một học giả phấn đấu suốt đời để thành danh trong một lĩnh vực khoa học thôi, đã đủ vinh hạnh rồi. Thế mà ông lại là một chuyên gia đầu ngành cho cả ba lĩnh vực chuyên môn nói trên, thì thật là một thành tựu lớn lao và phi thường lắm thay. Những công trình nổi tiếng của ông phần nhiều là những chuyên luận khoa học, đồng thời cũng là những giáo trình mà ông là người đầu tiên biên soạn (hoặc chủ biên) và giảng dạy tại Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội trước đây. Bởi vậy mà ông luôn có những học trò, rồi họ trở thành những người đồng hành thân thiết với mình trên con đường khoa học mà ông đã dày công khai phá và theo đuổi trong suốt cuộc đời. Không ít những người học trò đó, đến lượt mình, cũng đã trở thành những chuyên gia tài danh trong các lĩnh vực nghiên cứu của họ.

                                                                                                (1)

Tôi không có may mắn làm một học trò trực tiếp của GS Đinh Gia Khánh, lại không chuyên chú vào những lĩnh vực nghiên cứu mà ông khai phá và theo đuổi, bởi vậy sẽ không dám bình luận gì thêm về những thanh tựu mà GS đã đạt được. Mặc dầu ít có dịp gặp gỡ với GS, nhưng chữ nghĩa của ông, và cả dáng dấp của ông, vẫn để lại trong tôi những ấn tượng không phai mờ. Tưởng nhớ tới GS Đinh Gia Khánh, tôi vẫn tự hỏi: Thành tựu nghiên cứu của ông sừng sững như vậy, như mọi người đã đánh giá và khẳng định, nhưng cái gì dẫn ông đến những  thành tựu đó. Có nhiều người bảo rằng ông thành tài là nhờ tự học. Tôi nghĩ, đây không hẳn là tất cả, song có lẽ là nhân tố có tính quyết định tài năng của ông. Thực ra, dù có được đào tạo chuyên môn theo trường lớp hay không, thì một học giả tài năng bao giờ cũng phải tự học, tự học suốt đời. Tuy nhiên, ở đây tôi muốn nói đến một việc cụ thể, là tự học ngoại ngữ, mà cụ thể hơn nữa là tự học Hán ngữ và chữ Nôm mà GS Đinh Gia Khánh đã thực hiện. Từ chỗ đã biết tiếng Anh, tiếng Pháp trên ghế nhà trường trung học Pháp Việt, GS đã cố công tự học thêm tiếng Nga, tiếng Đức là hai thứ tiếng cực khó (đối với người Việt) trong các ngôn ngữ phương Tây. Nhưng kỳ công hơn có lẽ là tự học tiếng Hán chữ Hán, ở dạng văn ngôn lẫn bạch thoại. Với Hán ngữ văn ngôn thì có phần chắc là ông thừa hưởng từ nho phong nghiệp nhà. Còn Hán ngữ bạch thoại thì dường như ông bắt đầu làm quen từ khi làm việc tại Khu học xá Trung ương ở Nam Ninh (Trung Quốc), nhưng tự học vẫn là chính (qua tự điển và qua đối chiếu bản dịch tiếng Việt với nguyên tác tiếng Hán). Và có khi là ông “vừa làm vừa học”, như ông từng bộc lộ với đồng nghiệp rằng phiên âm chú giải xong tác phẩm Thiên Nam ngữ lục là coi như ông đã “thanh toán” được “món” chữ Nôm rồi. Bằng mọi cách tự học như vậy, ông đã nhanh chóng thành công ở mức tuyệt vời, thể hiện rõ ràng qua các công trình nghiên cứu của ông. Xin lưu ý rằng, chữ Hán chữ Nôm không chỉ là chìa khóa để mở cánh cửa đi vào văn hóa phương Đông (cụ thể là văn hóa Trung Hoa), mà cũng là công cụ để nghiên cứu văn hóa cổ truyền của dân tộc, trước hết là văn hóa thành văn thời trung đại ở Việt Nam. Ngoại ngữ là công cụ cực kỳ quan trọng trong nghiên cứu khoa học nói chung, còn với khoa học xã hội và nhân văn, thì có một thứ ngoại ngữ không nên và không thể bỏ qua là Hán ngữ cổ đại và hiện đại. Có như vậy nhà nghiên cứu mới đủ điều kiện để trực tiếp tìm hiểu và hấp thụ tinh hoa văn hóa phương Tây lẫn phương Đông, và cả văn hóa truyền thống của nước nhà. Từ ba nguồn dinh dưỡng ấy (văn hóa dân tộc, văn hóa Trung Hoa, văn hóa Âu Tây), cộng với tư chất trời cho (thiên tư – Thông minh vốn sẵn tính trời) sẽ tạo nên tài năng của nhà nghiên cứu, thể hiện trước hết ở vốn tri thức và lối tư duy khoa học cần thiết cho công cuộc nghiên cứu của mình. Các học giả tiền bối như Nguyễn Văn Huyên, Hoàng Xuân Hãn, Đào Duy Anh, Trần Văn Giáp, Cao Xuân Huy, Nguyễn Đổng Chi v.v. đều vừa biết tiếng Pháp tiếng Anh, lại vừa thông thạo cả chữ Hán chữ Nôm. Thế hệ học giả tiếp theo như Đinh Gia Khánh, Nguyễn Tài Cẩn, Trần Đình Hượu, Phan Ngọc, Hà Văn Tấn  v.v. cũng đều như vậy cả (và cùng với thời đại của mình, họ lại còn tự học để biết thêm cả tiếng Nga nữa).

Không thể “đặt nền móng” hay “mở đường” cho một lĩnh vực nghiên cứu nào, nếu nhà khoa học không gây dựng được một bộ máy khái niệm khoa học mang dấu ấn của bản thân trong quá trình nghiên cứu. Bộ máy khái niệm đó có thể được xác lập như là kết quả nghiên cứu, nhưng có thể đó cũng là công cụ hoặc đối tượng của công việc nghiên cứu khoa học. Điều này đã thực sự thể hiện trong các công trình tiêu biểu của GS Đinh Gia Khánh. Chỉ cần giở qua một phần ông viết về Một số thể loại văn học dân gian Việt Nam [Đinh gia Khánh tuyển tập – 1, tr.161-350]ta sẽ thấy các khái niệm cơ bản về thể loại văn học dân gian được ông minh định rạch ròi, sáng rõ như thế nào. Một chi tiết nhỏ thôi, nhưng khiến tôi lấy làm thích thú, khi ông phân định hai khái niệm truyện cổ tích lịch sử truyện cổ tích thế sự trong mối liên quan với kiến giải của các học giả đi trước. Hai khái niệm này của GS Đinh Gia Khánh có lẽ được gợi ý từ bộ khái niệm tam phân của GS Nguyễn Đổng Chi (cổ tích thế sự - cổ tích hoang đường – cổ tích lịch sử), nhưng ông đã điều chỉnh lại theo thế lưỡng phân: “không cần phân ra một loại truyện cổ tích hoang đường làm gì. Truyện cổ tích lịch sử và truyện cổ tích thế sự cũng có yếu tố hoang đường (…). Vả lại không có truyện cổ tích hoang đường nào lại không phản ánh lịch sử hoặc phản ánh đời sống thế tục” [như trên, tr. 195, chú 2)]. Đó là chưa kể, với những thuật ngữ quan trọng mang tính thời sự quốc tế như folk culture folklore trong mối liên quan với thuật ngữ văn hóa dân gian thường được dùng trong học giới nước ta, GS Đinh Gia Khánh đã sử dụng các công cụ ngoại ngữ của mình để tìm hiểu sự hình thành và diễn biến của những thuật ngữ hữu quan trong sách vở quốc tế, kết hợp với những gì thực tế diễn ra trong lịch sử văn hóa nước nhà để đi đến minh định những thuật ngữ và khái niệm cần thiết cho chuyên ngành văn hóa dân gian nước ta [chương Điểm qua sự hình thành của Folklore học trongĐGK tuyển tập - 3]. Ông viết: “Chúng tôi đã cho rằng folklore (tức văn hóa dân gian hiểu theo ý nghĩa hẹp) là folk culture (tức văn hóa dân gian hiểu theo ý nghĩa rộng) được tiếp cận theo giác độ thẩm mỹ”, và “Khi nói rằng folklore là folk culture được tiếp cận dưới giác độ thẩm mỹ là muốn nói rằng folklore là cái phần, cái mặt có tính chất thẩm mỹ của folk culture, rằng folklore là một nghệ thuật” [như trên, tr. 35]. Theo ông, nếu folk culture là đối tượng của văn hóa học (culturiologie) thì folklore là đối tượng của folklore học (folkloristique)[như trên, tr. 36].  Phải chăng có thể nêu lại ở đây một định danh đã có từ trước,  không trái với quan niệm của ông: một đằng là văn hóa dân gian (folk culture) và một đằng lànghệ thuật dân gian (folklore) – cái sau là một bộ phận, một khía cạnh (mặt thẩm mỹ) của cái trước (mặc dù bản thân GS Đinh Gia Khánh dường như không muốn dùng danh ngữ này). Và đến lượt mình, nghệ thuật dân gian lại bao hàm trong đó nhiều loại hình, nhiều bộ phận, mà trước hết là văn học dân gian.

GS Đinh Gia Khánh có lẽ là một trong số rất ít học giả Việt Nam đã phát biểu rành mạch về khách thể (объект – còn gọi là thực thể) vàđối tượng (предмет)  nghiên cứu khoa học. Ông viết: “Bất cứ một thực thể nào trong tự nhiên cũng như trong xã hội đều có thể tiếp cận theo nhiều giác độ khác nhau. Và tùy theo giác độ tiếp cận khoa học (approche scientifique) mà nó trở thành đối tượng của một khoa học nhất định (…). Và như vậy thì cùng là một thực thể mà lại có thể trở thành nhiều đối tượng của nhiều khoa học khác nhau. Còn như từng khoa học ấy sử dụng những phương pháp nghiên cứu nào đó thì đấy lại là một vấn đề khác” [chương Văn hóa dân gian là một nghệ thuật nguyên hợp – ĐGK tuyển tập -3, tr.35].  Liên quan với điều này, ở một chương khác (Các loại vấn đề lớn của folklore học) ông nêu lên phương pháp tổng hợp trong nghiên cứu các đối tượng mang tính “nguyên hợp” (như folklore), ông liên hệ và phân biệt nó với “phương pháp nghiên cứu liên ngành”. Ông viết: “Với phương pháp tổng hợp, người ta có ý thức coi hiện tượng như một chỉnh thể nguyên hợp gồm nhiều thành tố gắn bó với nhau một cách hữu cơ, tức là liên hệ chặt chẽ với nhau theo những quy luật nhất định. Và tuân theo phương pháp tổng hợp thì khi tìm hiểu hiện tượng như một chỉnh thể nguyên hợp hoặc khi tìm hiểu từng thành tố của chỉnh thể ấy không hề bao giờ quên các mối liên hệ ấy và những quy luật ấy”. Và tiếp theo: “Khi nói đến phương pháp tổng hợp đối với việc nghiên cứu văn hóa dân gian, người ta có thể nghĩ rằng đây là một phương pháp liên ngành. Nhưng xét cho kỹ thì đó là hai phương pháp khác nhau tuy rằng gần gũi nhau. Phương pháp liên ngành thường được áp dụng cho trường hợp phải xử lý một vấn đề chung liên quan đến nhiều ngành khoa học khác nhau. Với phương pháp này, mỗi ngành khoa học vẫn tuân theo phương hướng tiếp cận [tức đối tượng nghiên cứu – NQH] của mình và sử dụng những phương pháp khoa học và biện pháp kỹ thuật thích ứng với phương hướng tiếp cận ấy. Và kết quả đạt được của các ngành khoa học liên kết với nhau sẽ góp vào nỗ lực chung là tìm hiểu vấn đề từ nhiều giác độ tiếp cận” [như trên, tr. 184]. Tôi trích dẫn dài như vậy là muốn cung cấp tương đối đầy đủ những gì mà GS Đinh Gia Khánh trăn trở, liên quan với nhận thức luận và phương pháp luận khoa học, một điều mà dường như vẫn còn khá lơ đãng và mù mờ trong không ít các đồng nghiệp trẻ tuổi của chúng ta.  

(2)

Dưới đây, tôi xin đề cập đến hai bài viết của GS.Đinh Gia Khánh, cả hai đều do ông cho đăng trên tạp chí “Ngôn ngữ”, một tạp chí chuyên ngành của giới ngôn ngữ học Việt Nam. Một bài là: Từ “cai nghiệt” đến “cay nghiệt” (“Ngôn ngữ”, N.1, 1973, tr. 35-38). Một bài khác: Tìm hiểu từ “nghĩ” trong ngôn ngữ cổ. Bài này khá dài hơi, phải đăng liền trên hai số tạp chí mới hết (“Ngôn ngữ”, 1978, N.4, tr. 65-79; và 1979, N.1, tr. 60-68). Có thể vì một lẽ nào đó, cả hai bài này đều không có may mắn lọt vào “mắt xanh” của chị Minh Hằng, con gái “rượu” của GS Đinh, khi chị tự tay làm Tuyển tập cho thân sinh của mình. Đây không hẳn là một khiêm khuyết của Tuyển tập, nhưng tôi không muốn bỏ qua, vì ở những bài viết này tác giả dường như muốn dựa vào cái sở học Hán Nôm của mình để xử lý vấn đề theo lối tiếp cận liên ngành (văn học và ngữ học), như đã nhắc tới ở trên.    

Ở bài thứ nhất, tác giả nhập đề theo cách của lý thuyết “tiếp nhận văn học”. Ông viết: “Trong văn học, giữa tác giả và công chúng có sự giao lưu tư tưởng và tình cảm. Có thể nói rằng nếu tác giả sáng tạo ra những hình tượng, những nhân vật thì công chúng lại tiếp thu những thành quả của sự sáng tạo ấy thông qua một quá trình tái tạo. Thường thì sự tái tạo này – hay nói cho đúng hơn, sự cảm thụ một cách linh hoạt những thành quả của sự sáng tao kia – phù hợp với dụng ý của tác giả. Nhưng có khi sự tái tạo của công chúng lại đưa đến những kết quả khác: công chúng không hiểu giống với ý mà tác giả nêu lên. Đặc biệt đối với văn học cổ, tình trạng này hay xảy ra”. Và ngay lập tức ông nêu lên một trường hợp “kỳ thú” (chữ dùng của tác giả) từ Truyện Kiều, trong đó người ta đọc sai lời, hiểu lạc ý của tác giả: “Đàn bà dễ có mấy tay || Ngày xưa mấy mặt, ngày này mấy gan || Dễ dàng là thói hồng nhan || Càng cay nghiệt lắm, càng oan trái nhiều ”. Tiếp theo, với “tay nghề” của nhà ngôn ngữ học, ông giải thích về âm chữ và nghĩa chữ khác nhau giữa “cai nghiệt” và cay nghiệt.  Nhà Phật dùng danh ngữ “ác cai” để trỏ gốc rễ của tội ác, và “ác nghiệt” để trỏ mầm mống tội ác đã nảy nở ra nhiều. Gọi chung lại là “cai nghiệt”, và Nguyễn Du đã dùng “cai nghiệt” và “oan trái” (cũng là chữ của nhà Phật) vào câu thơ của mình theo thuyết nhân quả. Thế nhưng công chúng (kể cả các nhà phiên âm chữ Nôm Truyện Kiều) hầu như không còn quan tâm đến dụng ý đó của nhà thơ, mà đã đọc và hiểu là cay nghiệt , trong đó cay là vị của ớt, là ‘gay gắt’, còn nghiệt là ‘tệ hại, quá quắt’ (ss. nghiệt ngã). GS Đinh Gia Khánh đã bắt trúng mạch của quá trình Nôm hóa (Việt hóa) văn liệu Hán ngữ trong tiếp nhận thi ca của công chúng. Sự chuyển hóa từ Hán sang Nôm này là một trong những quy luật của tiếp xúc ngôn ngữ Hán và Việt, xét theo quan điểm của ngôn ngữ học. Nhân đây tôi xin nêu một ví dụ từ ngôn ngữ đời thường, không nằm trong môi trường văn chương. Nguyên trong Hán văn có từ ngữ “sáp nhập” – “nhập” tuy là gốc Hán đấy, nhưng đã đơn thân đi vào tiếng Việt và được dùng tự nhiên rồi, nhưng “sáp” là gì vậy, chẳng lẽ lại là ‘phấn sáp, sáp ong’. Không được, đây hẳn là sát đi liền với “nhập”, thế mới hiểu được. Đấy là lý sự của dân gian, của công chúng, và cái lý sự này cũng có cái lý của nó, được công chúng chấp nhận rộng rãi, nó đánh lùi hai chữ “sáp nhập” lạ lẫm kia ra khỏi ngôn ngữ sinh động và trong sáng của người dân. Ấy vậy mà vẫn có những người tỏ ra thông thái, muốn quay lại dùng chữ “sáp nhập” kia đấy (“sáp nhập” hai tỉnh thành một tỉnh, “sáp nhập” bộ này với bộ kia, v.v.) . Thật ra, nguyên nghĩa trong Hán ngữ “sáp” là ‘cắm vào, xen vào’, rất không phù hợp với nghĩa sát nhập tỉnh, sát nhập bộv.v. Chữ “sáp” này với cách đọc Hán Việt đã không “đi vào” tiếng Việt đời thường, mà có thể phải chịu sự Việt hóa cả âm và nghiã để đọc là tháp và hiểu là ‘phụ ghép vào cái đã có trước’. 

Hãy trở lại với “cai nghiệt” và cay nghiệt Truyện Kiều. Thừa nhận thực tế như đã nói ở trên, GS Đinh Gia Khánh đi tới chấp nhận tư cách không thể chối bỏ được của từ ngữ cay nghiệt trong đời sống dân chúng. Còn khi xử lý vấn đề này trong văn bản Truyện Kiều, thì với tư cách là chuyên gia văn học, ông chủ trương rằng: “ở đoạn xử án Hoạn Thư, chúng ta có quyền đọc là cay nghiệt mà cũng có quyền đọc là cai nghiệt” (tr. 38) và “Tuy nhiên, thiết tưởng trong các văn bản “Truyện Kiều” cũng nên chú thích ở dưới, nêu rõ cách đọc cai nghiệt và phân tích rõ dụng ý của tác giả” [tr.37]. Tôi nghĩ, xử lý vấn đề như vậy là thấu đáo và hoàn toàn thỏa đáng.   

Vấn đề đặt ra trong bài thứ hai là tìm hiểu về ngữ nghĩa của từ nghĩ trong ngôn ngữ cổ, cụ thể hơn là trong các tác phẩm văn Nôm. Câu chuyện cũng lại nảy sinh từ chữ nghĩa của Truyện Kiều: “Có nhà viên ngoại họ Vương || Gia tư nghĩ cũng thường thường bậc trung”. Vấn đề đã được giới Kiều học đặt ra và thảo luận từ lâu, nhưng chưa ngã ngũ. Cho đến khi GS Đinh Gia Khánh cất công nghiên cứu chữ này thì, như ông đã tổng kết: “vẫn có hai cách đọc và hiểu về từ ấy: hoặc đọc là nghỉ (dấu hỏi) từ địa phương Nghệ Tĩnh, hiểu là “hắn ta, nó” và nhận là đại từ, hoặc đọc là nghĩ (dấu ngã), từ gốc Hán, hiểu là “đắn đo mà ước chừng” và nhận là động từ” [tr.67]. Vậy công phu khó nhọc của GS Định Gia Khánh là ở đâu, và kiến giải gì mới mà ông đã góp phần vào việc giải quyết vấn đề này ?

Trước hết, khác với nhiều học giả đi trước, tác giả bài viết đã thực hiện một cuộc khảo sát tỉ mỉ trên một vốn tư liệu khổng lồ, và phạm vi đề cập không chỉ là chữ nghỉ / nghĩ trong hai câu Kiều đã dẫn, mà với hầu hết những chữ nghỉ / nghĩ này trong Truyện Kiều và trong một số tác phẩm Nôm khác như Chỉ nam ngọc âm giải nghĩa (bản AB.372), Hoa tiên và đặc biệt là trong bộ Tân biên Truyền kỳ mạn lục tăng bổ giải âm tập chú (bản VHv. 1491). Riêng phần khảo cứu trên văn bản giải âm chữ Nôm của sách Tân biên Truyền kỳ mạn lục  đã chiếm gần 10 trang tạp chí (tr.70-79). Ở đây tác giả đã thực sự đi theo cách của ngôn ngữ học (phiên dịch học, ngôn ngữ học đối chiếu) để tìm ra mối liên hệ giữa những chữ nghĩ trong bản dịch (giải âm) văn Nôm với chữ Hán tương ứng trong nguyên tác Hán văn của Nguyễn Dữ. Bài viết đầy ắp những tư liệu cổ văn và vì vậy không mấy dễ đọc,  song chính từ đây, tác giả đã có đủ căn cứ để bàn thảo về ngữ nghĩa và cách đọc của những chữ “nghĩ” trong văn Nôm.  

Tiếp theo, chính là từ kết quả của những khảo sát công phu như thế trên cơ sở đối chiếu từ Hán sang Nôm và ngược lại qua văn bản Tân biên Truyền kỳ mạn lục, tác giả đi đến nhận xét rằng: Mỗi khi gặp chữ nghĩ擬(>

tin tức liên quan

Thống kê truy cập

114602337

Hôm nay

2141

Hôm qua

2406

Tuần này

22938

Tháng này

228954

Tháng qua

131357

Tất cả

114602337