Cổng thành cổ Vinh ( Ảnh tư liệu)
Ở Vinh có một câu thành ngữ mà hầu như ai cũng biết, đó là “Thượng Cầu Rầm, hạ Bến Thủy”. Ngoài nghĩa bóng, nghĩa đen của câu này rất đơn giản: Thời đó, giới hạn của đô thị Vinh - Bến Thủy, theo chiều tây - đông chỉ từ Cầu Rầm xuống đến Bến Thủy, khoảng 6 km.
“Cầu Rầm” ở đây chính là nhà thờ Cầu Rầm. Theo sách “Giáo xứ Cầu Rầm 130 năm Hồng Ân”[1], giáo xứ Cầu Rầm được thành lập năm 1888 và khi đó đã mang tên là Cầu Rầm. Sách này lý giải: Sở dĩ nhà thờ và giáo xứ mang tên Cầu Rầm, là vì cách nhà thờ không xa có một chiếc cầu có tên là “Rầm”. Đây là chiếc cầu bắc qua con kênh thoát nước từ thành Nghệ An ra sông Vinh. Thời đó, con đường Vinh đi Nam Đàn chưa qua đây. Vị trí cầu Rầm xưa nay thuộc khu vực cầu vượt Cửa Nam. Còn tại sao chiếc cầu này có tên là “Rầm”, thì chưa ai giải thích được.
Nhà thờ Cầu Rầm
“Thượng Cầu Rầm”
Không phải ngẫu nhiên mà nhà thờ Cầu Rầm trở thành một cái tên, một địa danh có tính biểu tượng của Vinh đến mức đi vào thành ngữ. Từ khi đô thị Vinh bắt đầu hình thành, nhà thờ Cầu Rầm đã từng nổi tiếng là một ngôi thánh đường to đẹp nhất vùng. Giáo xứ Cầu Rầm thành lập năm 1888, nhưng trước đó ở đây đã có nhà thờ họ. Mười năm sau, 1898 nhà thờ xứ đã được xây dựng. Đó là tòa nhà lớn bằng gỗ lim gồm có 7 gian, hai bên có 14 đàng thánh giá tường thuật cuộc chịu nạn chịu chết của Chúa Giêsu. Đầu hồi trước sau được "chái" thêm cho "bổn đạo" (giáo dân) dự lễ. Ngoài ra trong khuôn viên nhà xứ còn có 8 ngôi nhà khác. Khi khánh thành nhà thờ Cầu Rầm năm 1898, đích thân công sứ Pháp Oser, một người được các nhà nho Nghệ Tĩnh đương thời gọi là “ông đồ nho mũi lõ”, đã tặng câu đối bằng chữ Hán:
“Cụ hữu thử tâm đồng thử lý
具 有 此 心 同 此 俚
Cố tương tư đạo giáo tư dân
故 相 思 道 教 思 民.
Nghĩa là: Vốn dĩ đã có cái tâm ấy xuất phát từ cái lý ấy. Cho nên mới đem cái tôn giáo này mà truyền bá cho dân tộc này[2].
Thế nhưng, cũng chỉ 20 năm sau, năm 1918, Hội đồng mục vụ giáo xứ quyết định bán ngôi nhà thờ bằng gỗ. Năm 1926, khởi công xây dựng nhà thờ Cầu Rầm nguy nga đồ sộ, kiến trúc theo kiểu Gothic như sau này. Nhà thờ Cầu Rầm khánh thành ngày 20 tháng 7 năm 1928, được đánh giá đẹp nhất Trung Kỳ thời đó. Từ đó, tiếng chuông nhà thờ Cầu Rầm vang vọng khắp thành phố, trở thành một biểu tượng thanh bình của thành Vinh.
“Hạ Bến Thủy”
“Thượng Cầu Rầm” là vậy, còn “Hạ Bến Thủy”? Bến Thủy nguyên chỉ là một bến đò qua sông Lam, nối Vinh với Hà Tĩnh. Trước đây con đường thiên lý Bắc - Nam không đi qua Bến Thủy, mà đi qua mạn Chợ Tràng trên Hưng Nguyên, nên Bến Thủy cũng chỉ là một bến đò nhỏ. Bến Thủy thực sự thay đổi từ khi người Pháp chiếm thành Nghệ An, năm 1885. Ngay sau đó hàng loạt các nhà đầu tư Pháp và các nơi khác ồ ạt đầu tư vào Bến Thủy. Các nhà máy gỗ, diêm, đồ hộp, bến cảng được xây dựng. Bên cạnh đò, phà cũng được đưa vào sử dụng. Năm 1900 đã có phà chèo tay. Bản đồ Vinh Bến Thủy năm 1925 cũng chỉ chú thích là “phà” (bac), nhưng đến bản đồ năm 1936 thì đã chú thích là phà chạy bằng máy (bac à moteur).
Bến Thủy năm 1889[3]
Vinh phát triển, trung tâm đô thị Trường Thi ra đời, trung tâm đô thị Bến Thủy được đầu tư lớn, nhu cầu đi lại giữa ba trung tâm đô thị này ngày càng lớn. Nhưng đến cuối thế kỷ 19 Vinh vẫn chỉ nối với Bến Thủy bằng đường sông Vinh, hoặc bằng các con đường dân sinh nhỏ, được mô tả là “ngoằn ngoèo”.
Một cây cầu trên đường từ Bến Thủy đến Vinh, năm 1889[4]
Năm 1890, thương nhân Jean Dupuis đã được Tổng Đốc Nghệ An là Đào Tấn cấp 53.000 mét vuông đất ở Bến Thủy từ chân núi Quyết, đến sát bờ sông để xây dựng nhà máy cưa và nhà máy diêm. Khi hai ông biết cộng sự của Jean Dupuis là Millot đã từng có kinh nghiệm 15 năm xây dựng đường sá ở Thương Hải, họ đã giao cho công ty của Jean Dupuis cải tạo con đường Vinh - Bến Thủy theo “kiểu đường của người Âu”. Công ty này được sử dụng 150 lao dịch và 50 tù nhân làm đường. Mặc dù được cải tạo theo “kiểu đường của người Âu”, nhưng thực tế lúc này đường Vinh - Bến Thủy cũng chỉ rộng ba mét và được rải đá.
Con đường từ Bến Thủy đến Vinh, năm 1889[5]
Khi con đường Vinh - Bến Thủy hoàn thành, ông Đào Tấn đã nhờ Jean Dupuis và Millot mua hộ một chiếc xe kéo tay của Nhật được nhập về Hà Nội, mà người Pháp vẫn gọi là “pousse - pousse”. Đây có lẽ là chiếc xe kéo tay đầu tiên ở Vinh - Bến Thủy[6].
Năm 1900, người Pháp[7] mô tả: “Bến Thuỷ nằm cách Vinh 6km và nối với nhau bằng đường quan hoặc hệ thống kênh. Những ngôi làng lớn nằm hai bên dòng sông và con kênh. Ở giữa những rừng cây to là rất nhiều ngôi đền. Ngư dân, trên các con bè bằng tre nứa thô sơ, đánh bắt cá trên dọc dòng sông. Cá tôm giá rất rẻ.
Bến đò Bến Thủy đầu thế kỷ 20
Khi đi từ Bến Thủy đến Vinh bằng đường bộ, nằm bên phải là Trường Thi[8], tập hợp các tòa nhà được xây bằng đá, nơi tổ chức các cuộc thi văn. Còn bên trái là Văn miếu. Đường cái quan rộng khoảng 3m, chia làm hai ngả. Một ngả bên phải, cách Bến Thủy khoảng 5km, nối với đường từ Thanh Hóa vào Vinh, ngả thứ hai hơi cong về bên trái đi thẳng tới Vinh và đưa ta đến khu vực Cầu Rầm (nhà thờ Công giáo). Con đường thứ ba, đây là con đường nguyên thuỷ, đã bị chính quyền quân sự phá bỏ, nó nằm ở phía bắc của Văn Miếu, đi vòng ngoằn ngoèo quanh cụm đền chùa rợp bóng cây của làng Yên Trường và đưa ta tới cây đa cổ thụ, cũng là điểm cuối của đại lộ tuyệt đẹp vừa được làm chạy dọc con kênh với chiều dài khoảng một km, đưa ta tới khu vực chợ lớn và kết thúc bằng một con đường đi dạo được trồng khoảng 5000 cây phi lao phía trước mặt chính toà nhà Công sứ Vinh. Rừng cây này đã khá rậm rạp và hứa hẹn một ngày nào đó sẽ là vùng đẹp nhất thành phố Vinh”[9]. Con đường trồng 5000 cây phi lao này hiện nay là đường Lê Hồng Sơn.
Như vậy đầu thế kỷ 20, con đường nối liền Vinh với Bến Thủy vẫn chưa được xây dựng lớn, mới chỉ là những đường dân sinh ngoằn ngoèo chạy len qua các xóm, hoặc theo bờ sông Vinh. Những năm sau, đường Vinh - Bến Thủy được xây dựng và mở rộng dần. Đến năm 1912, con đường Vinh - Bến Thủy đã được mô tả: “Từ Bến Thủy đến Vinh có một con đường rất đẹp, rộng và râm mát”[10]. Tuy nhiên, thời kỳ này con đường này cũng như các con đường khác trong thành phố đều rải đá.
Rất ít người biết rằng kẹp bên cạnh con đường rải đá từ Vinh xuống Bến Thủy còn có một đường sắt, được xây dựng từ năm 1906, 1907. Con đường sắt này bắt đầu từ Ga Vinh (khu vực chung cư Quang Trung hiện nay) chạy ra phía cuối siêu thị BigC hiện nay, sau đó chạy song song với đường bộ. Đến nhà máy xe lửa Trường Thi có một nhánh rẽ vào đó, còn đường chính tiếp tục xuống Bến Thủy. Tại Bến Thủy có ga Bến Thủy, nơi tàu hỏa tiếp nhận hàng từ cảng và khu công nghiệp ở đây chở về Ga Vinh và đi các nơi. Những năm 1930, báo chí đã than phiền là đường sắt chạy sát đường bộ đã gây trở ngại cho việc buôn bán của các cửa hiệu dọc đường, đồng thời cũng đã gây ra một số tai nạn giao thông đáng tiếc.
Những thập kỷ đầu thế kỷ 20 việc đi lại giữa Vinh - Bến Thủy nói chung, trong nội bộ hai khu vực này nói chung chỉ là đi bộ, đi xe kéo tay, hoặc đi thuyền theo sông Vinh. Năm 1912 đã có một công ty của người Pháp cung cấp dịch vụ xe kéo tay.
Xe kéo tay ở Bến Thủy
Trên đường phố những năm 1920, 1930 cũng có xe ngựa hoạt động, nhưng không nhiều. Tương tự, xe đạp và ô tô cũng đang ít.
Từ Cầu Rầm, theo đường Destenay (đường Phan Đình Phùng hiện nay), xuống ngã tư Chợ Vinh, sau đó tiếp theo đường Pétain (đường Trần Phú hiện nay), qua Nhà Xéc (Trường THCS Hồng Sơn hiện nay), qua Ngã Sáu, đến tu viện Franxicô (Bệnh viện đa khoa thành phố Vinh hiện nay), Văn Miếu, rồi đến Cầu Thông, đến Nhà máy Xe lửa Trường Thi, tiếp theo là Sân bay Trường Thi. Từ năm 1935, sân bay dời đi, một Trại lính được xây dựng lên ở đó. Từ đây đường tiếp tục đi xuống Bến Thủy. Bài “Quang cảnh Trường Thi” trên báo Thanh Nghệ Tĩnh năm 1935 mô tả:
“Trường Thi cách Vinh 3km, trước kia là một nơi tiêu điều. Cả ngày chỉ rộn rịp về buổi chiều khi mấy nghìn thợ ở nhà máy lớn “Atelier Trường Thi” đi về.
Xe ngựa ở Bến Thủy
Từ khi bãi tàu bay đổi chỗ trên vạt đất ấy, xây lên mấy tòa nhà đồ sộ, chạy dài, cái hai tầng, cái ba tầng, để làm trại lính Tây, thì quang cảnh Trường Thi cũng đổi khác.
Mấy gian nhà mốc thếch, ở rải rác trên đường cái quan đã đổi ra làm hàng cà phê, hàng tạp hóa, rồi ít lâu nữa tiệm nhảy. Những buổi chiều khách du quan dọc theo con đường Pétain đi xuống qua phố “chị em”[11] đã thấy lác đác mấy tiệm nhảy đầm…
Trại lính ở Trường Thi (Vị trí Quân Khu IV hiện nay)
Cái quang cảnh đìu hiu mát mẻ, càng đi mãi càng có thú…Rồi đến Trường Thi, với mấy dãy nhà chi chít của sở máy, với trại lính, con đường thẳng dăng rải nhựa, đưa khách xuống Bến Thủy, cách Vinh 4 km. Đến đây đã thấy mát mẻ lắm. Dựa lưng vào dải núi Quyết với những mô đá tự nhiên và cái hang thiên tạo, nhà máy Diêm trông ra hai con đường thẳng băng…Dưới ánh chiều tà, trên sông mấy chiếc tàu dừng bến. Những sở nhà đẹp đẽ ngoảnh mặt ra bến tàu…
Người ta trù tính độ dăm, mươi năm nữa, khi con đường từ Trường Thi đi xuống đấy san sát những nhà, nối Vinh với Bến Thủy làm một, thì thành phố sẽ nguy nga tráng lệ biết bao”[12].
Một trăm mấy chục năm đã trôi qua, Vinh bây giờ không chỉ là “thượng Cầu Rầm, hạ Bến Thủy”, mà đã bung ra bốn hướng. Ngay trên trục này cảnh vật cũng đã đổi thay. Nhưng câu thành ngữ xưa thì vẫn còn vang vọng mãi…
Annuaire General de L'Indochine, 1912.