Cuộc sống quanh ta

Lửa trấu

Ngày nhỏ, tôi có thấy trong bếp nhà mình một vật dụng là lạ. Đó là một viên gạch bằng đất nung, ám khói đen, lớn gấp ba viên gạch thường, một mặt gắn quai xách. Là gạch nhưng mẹ tôi lại gọi là đá dằn. Tôi thắc mắc, lý sự với mẹ vì sao gạch đất mà lại gọi là đá được? Mẹ cười, rồi phải giải thích dài. Gọi đá dằn vì công dụng của nó như đá dằn cà muối. Khi muối cà người ta phải dùng một hòn đá, đá thật, khá nặng để dằn lên vỉ tre cho cà ngập nước. Nhờ nén kỹ, cà ăn muối giòn trắng, không khú không thâm, để dành được lâu, gọi là cà muối trường. Khác với cà muối xổi, chỉ ăn mấy hôm, không dằn đá. Còn muốn giữ lửa cho bền thì phải có viên gạch dằn lên đống trấu đang ủ lửa. Trấu được nhen lửa mồi sau đó đặt đá dằn, nén vừa đủ chặt để cháy âm âm, không nặng quá làm tịt hơi, trấu không bén. Hồi đến đóng cối xay ở nhà ta, cố Hướng lấy đất sét thừa, đắp gọt viên gạch này làm kỷ niệm.

Cố Hướng là khách của cha tôi. Nói chữ là thực khách. Nghĩa là nhà tôi nuôi cơm, không lấy tiền trọ, có lúc còn đãi đằng. Cố đi đóng cối xay khắp nơi, xong lại về nhà tôi dăm bữa. Gặp phiên chợ đại, cố xuống Nghèn mua vèo (lòng), phiên thì mua mọ (dạ dày) lợn về nhắm rượu. Cha tôi là chủ nhưng trong những bữa ấy thường đóng vai hầu rượu. Không phải vì cố bỏ tiền ra mà ông nhún, mà vì cố nhiều tuổi hơn lại học cao hơn. Nghe đâu cố đã vào đến nhị trường tam trường mà cha tôi mới chỉ ở dạng tam tự kinh ngũ tự kinh. Là hương sư có bằng Tây học nhưng khi uống với cố Hướng, cha tôi tỏ ra rất phải phép. Bởi vậy mẹ tôi cũng như các anh chị tôi cũng sợ vị thực khách này. Những bữa rượu như thế thường kéo dài từ trưa đến xế bóng. Uống thì ít, mỗi người thường là dăm ba chén hạt mít, nhưng nói nhiều. Nghe lõm bõm tôi biết trước đây nhà cố giàu lắm. Nhưng rồi cha mẹ và cả cánh họ đã mất trong một đại dịch đậu mùa. Cố thành ra không nhà không cửa. Không vợ con, không ai còn cần chữ nho. Cố bỏ cả nghề bốc thuốc, xoay ra làm nghề đóng cối xay. Vốn thông minh lại khéo tay, có chí, cố trở thành ông phó cối có hạng chỉ trong một vài năm. Cối cố đóng được tiếng bền, lại không sót giặt. Những làng quanh vùng tôi có nghề hàng xáo nên cố có việc thường xuyên. Nhưng cố khảnh. Đóng cối cho ai mà nhìn mặt người thuê không có hậu là chối, về. Về thẳng. Nhất là bà hàng xáo nào có vẻ điêu toa thì nài mấy cố cũng không đóng. Đóng được đồng nào, ngoài vốn để mua vật liệu như gỗ dẻ, tre làm áo, làm giằng, còn thì cố giắt lưng để uống rượu dần. Gặp ngày mưa không phơi được đất đóng nõ thì lại xuống chợ Nghèn. Vèo lợn mua cả cỗ, bún cả rá. Nhà tôi đông người, ăn nhanh. Cố nhỏ nhẻ, lâu lâu mới gắp vài nhón trên mâm riêng với cha tôi. Anh em tôi ăn xong, xoay ra nhìn hai người ngồi trên. Cũng là để đợi để dọn bát đĩa. Và dĩ nhiên, chúng tôi sẽ được hưởng lợi từ công việc này. Hôm nào hai ông ăn chậm, quá giờ học, anh Thung tôi cắp sách chạy mà còn tiếc hùi hụi ngoái nhìn. Mặt đỏ, cổ đỏ, tay đỏ, dáng cố Hướng trên mâm rượu đẹp như ông tiên. Ông tiên đóng cối xay, một công việc nặng nề mà ăn uống nhỏ nhẹ, cũng lạ. Những lúc ấy, cố nói nhiều, cha tôi chỉ ngồi nghe. Phải rất lâu sau này tôi nhớ lại (hay cha tôi kể lại?) lúc đó cố thường cảm khái về thời vận, về chuyện xem tướng người làng, số của mình. Cố nói, tướng cố phải làm anh chạy rông, càng không gắn được với dao cầu thuyền tán. Gắn là phải vạ. Rồi cố dặn mẹ tôi tuyệt đối không được chung vốn với mụ T., mụ R. Đám ấy là phản chủ, lộn chồng, ngậm máu phun người, cố quyết không thèm đóng cối cho hạng ấy.

Cố Hướng cứ ở trong nhà tôi như vậy cho đến ngày ốm nặng. Cha tôi lo đóng hậu sự, chuẩn bị đưa cố về quê. Tiền nong cố cũng đã dành dụm đủ rồi. Nhưng cố nhất quyết gửi vong lên chùa, còn mạng xin nhờ làng cho trú tạm. Cha tôi dùng tiền của cố mà trang trải mọi chuyện xong xuôi. Thi thoảng cầu tiên gọi hồn cố Hướng. Cố nhập vào ông tiên Thi, hứa phù hộ độ trì cho nhà tôi. Nhưng có lẽ gặp hồi dương thịnh âm suy, lời cố khó thực hiện. Cải cách ruộng đất, nhà tôi bị quy địa chủ. Trong khi đó, cha đang trong đoàn phát động Cải cách ở Đức Thọ, ở  nhà mẹ bị đưa ra đấu. Nhiều người làng đã tố mẹ tôi lắm tội. Trong đó có tội bóc lột người làm đến tận xương tủy, ví như chuyện bóc lột cố Hướng đóng cối xay.

Sau này mẹ cười, nói những người tố điêu dạo ấy đều là những người ngày xưa cố Hướng xem tướng rồi từ chối đóng cối xay cho. Mới biết cố đủ cả Nho, Y, Lý, Số. Xem tướng thật sành. Vì vậy, mẹ tôi càng quý hòn đá dằn, kỷ vật của một thời giữ lửa.

Quý cũng phải. Buổi ấy mấy ai đã có được cái bật lửa (gọi trân trọng là máy lửa, tiếng Tàu là đả hỏa cơ). Huống hồ nhà tôi tài sản đã bị lấy hết, chẳng còn gì. Muốn giữ lửa qua đêm, hoặc từ sáng đến trưa, từ trưa đến tối, thì phải ủ bếp trấu. Tùy vào lượng thời gian mà đổ trấu ít nhiều. Trong nhà chỉ có mẹ là đong trấu vừa vặn. Có lần chị gái tôi ủ bếp, sáng ra trấu cháy trắng tàn, lại phải đánh liều sang xin hàng xóm. Có nhà không cho con địa chủ cái đỏ đầu ngày, sợ huông. Mẹ tôi cũng kỹ tính, không bao giờ để tắt lửa bắt con đi xin.

Trái với mẹ, mự Quế tôi suốt ngày đi xin lửa. Mự lấy chú thứ năm, ở sát vườn nhà tôi. Mẹ tôi và mự hợp tính nhau, chị em dâu lúc nào cũng rỉ rả. Có điều lạ: mẹ tôi ít lời thì mự hay chuyện. Mẹ chậm thì mự nhanh, mẹ cẩn thận thì mự tuềnh toàng, cứ như đêm với ngày. Riêng khoản ủ trấu thì mự vụng. Bếp tắt hoài.

Bữa nào mự cũng sang xin lửa. Đều đặn cả ba buổi, sáng trưa chiều. Ngày nào cũng như ngày nào, mự không gọi đi xin mà là sang lấy lửa. Cứ như là chị thì phải giữ cho em. Vào bếp, nếu mẹ chưa đỏ lửa thì mự nhấc đá dằn, cúi xuống thổi phù phù, tôi ở nhà trên còn nghe mồn một. Khi lửa đã cháy truyền vào nắm rơm khoanh tổ chim thì mự vung tay cho rơm bén lửa mồi. Khói trắng ngún lên như bụm khói thuốc lào bò ra từ nắm rơm thì mự ngừng vung tay, đứng chuyện với mẹ tôi. Nhiều chuyện. Lắm khi cũng chẳng có chuyện gì ra chuyện gì. Nhưng dứt khoát hai chị em cũng phải nói với nhau. Phần nhiều thông tin là từ mự. Nhà mự cũng bị quy là địa chủ, nhưng vì còn trẻ, đi lại gặp gỡ nhiều nên mự biết được lắm chuyện hơn.

Tôi nhớ nhất những lúc mự sang lấy lửa vào buổi sáng, giờ tôi dậy học bài. Ngoài trời đã tưng mưng mà trong bếp hãy còn tối hũm. Ngọn lửa in rõ bóng mẹ tôi và mự lên vách. Hai bóng đen chập chờn. Lặng im. Chỉ có lửa cháy rần rật. Mẹ nói khẽ những điều gì đó, nhỏ hơn tiếng lửa. Rồi khóc. Lặng lẽ khóc cả hai chị em. Vai mẹ, vai mự rung rung. Hai bóng đen trên vách cũng rung rung. Tôi đau thắt ngực, muốn khóc theo, cũng chẳng biết vì lẽ gì.

Thói quen ấy mự cứ duy trì cho đến ngày chú tôi về hưu non. Rồi cả cha tôi cũng nghỉ chế độ. Lũ chúng tôi đã lớn. Bếp trấu mẹ vẫn ủ hằng đêm. Chỉ có mự Quế tôi không còn sang lấy lửa.

Những ngày nghỉ hưu, cha tôi thường hay giúp mẹ việc bếp núc. Ngày Tết, ngày Xuân ông không lo gì mà chỉ sợ thiếu củi, không có gì đút bếp. Ông tằn tiện những thứ gì có thể đốt ra lửa. Qua cửa hàng vật liệu chất đốt của huyện, lúc nào ông cũng chậm bước, không dấu được ánh nhìn khát khao.

Ông có bài Nhóm lửa gửi Ông Bếp :

Tui cùng ông làm bạn lui hui

Nhờ có ông rồi mới có tui

Lắm khi không đỏ do thời tiết

Ông mà đỏ quá tui đành tui.

 Thì không biết lúc đó ông đang say sưa với việc chơi chữ đồng âm khác nghĩa, hay đang thanh minh cùng Vua Bếp, với mấy ông đầu rau, hay đang chuyện trò cùng cố Hướng?     

Ngày cuối năm Tuất. 

tin tức liên quan

Thống kê truy cập

114577681

Hôm nay

2212

Hôm qua

2333

Tuần này

2880

Tháng này

224738

Tháng qua

130677

Tất cả

114577681